Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn trích hồn trương ba, da hàng thịt của lưu quang vũ, sgk ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 144 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------------------

TRẦN HOÀI THU

HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH
“HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ,
SGK NGỮ VĂN 12, TẬP 2, BỘ CƠ BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN – 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------------------

TRẦN HOÀI THU

HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH
“HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ,
SGK NGỮ VĂN 12, TẬP 2, BỘ CƠ BẢN


Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Văn và Tiếng việt
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN THANH HÙNG

THÁI NGUYÊN – 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CẢM ƠN
Em xin được bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc của mình tới
GS. TS Nguyễn Thanh Hùng – người thầy đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ
em trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ Văn
và khoa Sau đại học - trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên – Đại học Thái
Nguyên, đã tạo điều kiện - giúp đỡ em trong q trình học tập, nghiên cứu và
hồn thành luận văn.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã tạo điều
kiện, giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn

Trần Hoài Thu
Luận văn đã được chỉnh sửa theo góp ý của hội đồng bảo vệ luận văn
Ngày 31/10/2010 tại Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
Trƣởng khoa Ngữ văn


Nguyễn Hằng Phương


CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

SGK

: Sách giáo khoa

TPVC

: Tác phẩm văn chương

VHVN

: Văn học Việt Nam

PPDH

: Phương pháp dạy học

THPT


: Trung học phổ thông

THCS

: Trung học cơ sở

GS

: Giáo sư

TS

: Tiến sĩ

NXB

: Nhà xuất bản

NXB GD

: Nhà xuất bản giáo dục

ĐHSP

: Đại học Sư phạm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................10
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................10
7. Bố cục luận văn .......................................................................................11
NỘI DUNG ....................................................................................................12
Chương 1. DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC “HỒN TRƢƠNG BA, DA
HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ TRONG TRƢỜNG THPT ........12
1.1. Lưu Quang Vũ - nhà viết kịch tài hoa ...................................................12
1.2. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” - vở kịch với những trăn trở về lẽ sống,
lẽ làm người ................................................................................................14
1.3. Thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” những
năm gần đây ................................................................................................16
1.3.1. Những khó khăn và thuận lợi khi dạy học đoạn trích .....................16
1.3.2. Đối tượng khảo sát, kết quả và phân tích kết quả khảo sát .............18
1.3.3. Tài liệu khảo sát.............................................................................24
1.3.4. Nguyên nhân của thực trạng dạy học đoạn trích .............................36
1.3.5. Hướng khắc phục tình trạng bất cập hiện nay trong dạy học đoạn
trích .........................................................................................................38
Chương 2. “HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” – SỰ KHAO KHÁT
CUỘC SỐNG ĐÍCH THỰC CỦA CON NGƢỜI .......................................41
2.1. Khái niệm kịch........................................................................................41
2.2. Nét đặc sắc trong kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” .......41
2.2.1. Mâu thuẫn phức tạp và xung đột quyết liệt ...................................41


2.2.2. Ngơn ngữ đối thoại đầy dục vọng và có tính dự báo ......................46
2.2.3. Nhân vật hành động - nét đặc thù của kịch .....................................51

2.2.4. Cốt truyện đậm chất dân gian và tinh thần hiện đại ........................53
2.3. Giá trị nhân văn – Nét điển hình của đoạn trích “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” .....................................................................................................54
2.3.1. Hoạt động đọc .................................................................................54
2.3.2. Giá trị hiện thực của đoạn trích ......................................................56
2.3.3. Giá trị nhân văn của đoạn trích ......................................................59
2.4. Những bài học làm người xuất phát từ giá trị nhân văn của đoạn trích..80
Chương 3. THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM ..........................................................84
3.1. Thiết kế giáo án thể nghiệm ..................................................................84
3.1.1. Mục đích thiết kế ...........................................................................84
3.1.2. Nội dung thiết kế ...........................................................................84
3.1.3. Ý nghĩa giáo án thể nghiệm ...........................................................84
3.1.4. Hình thức đánh giá thiết kế thể nghiệm ..........................................84
3.1.5. Thiết kế thể nghiệm .......................................................................84
3.1.6. Giải thích thiết kế thể nghiệm ......................................................114
3.1.7. Hướng dẫn thực hiện thiết kế thể nghiệm.....................................118
3.1.8. Tự đánh giá thiết kế thể nghiệm ...................................................118
3.2. Thể nghiệm Sư phạm ..........................................................................118
3.2.1. Mục đích, ý nghĩa của thể nghiệm sư phạm .................................118
3.2.2. Đối tượng và địa bàn thể nghiệm .................................................119
3.2.3. Phương pháp tiến hành thể nghiệm ..............................................119
3.2.4. Nội dung thể nghiệm....................................................................120
3.2.5. Đánh giá kết quả thể nghiệm ........................................................121
3.2.6. Kết luận chung về quá trình thể nghiệm .......................................122
KẾT LUẬN .................................................................................................124
THƢ MỤC THAM KHẢO .........................................................................127
PHỤ LỤC


Trần Hồi Thu


1

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Cái chết đột ngột đã mang Lưu Quang Vũ rời xa chúng ta, cướp đi một
tài năng thực sự đang độ sáng tạo sung sức. Khi ông mất, trên sàn tập của
nhiều đồn vẫn cịn một loạt vở mới của ơng. Những vở đang viết dang dở,
chúng theo ông ra đi; những vở đã hoàn thành sẽ ở lại, sống cùng sân khấu và
sống mãi trong lòng độc giả, sống mãi với thời gian ...
Trước khi đến với kịch, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tài năng trong
thơ và truyện ngắn. Nhưng phải đến thể loại kịch, “tư tưởng và tài năng của
Lưu Quang Vũ mới được phát triển rực rỡ, sung mãn, để đưa ông trở thành
tác giả lớn, nhà viết kịch xuất sắc bậc nhất nước ta trong thế kỉ XX” (“Hồn
Trương Ba, da hàng thịt”: Văn học tuổi trẻ, số tháng 5 – 6/ 2010, trang 5 –
11, PGS. TS Nguyễn Văn Long).
Khi cho Lưu Quang Vũ chọn một vở kịch tâm đắc nhất, ông đã chọn
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Vở “Hồn Trương ba, da hàng thịt” được
viết năm 1981 nhưng đến năm 1984, trong khơng khí đổi mới dân chủ, vở
kịch mới được ra mắt công chúng. Những năm cuối thập niên 80, khi đi xem
tận mắt thì thấy vở kịch chẳng có gì đáng ngại nhưng khi nhìn trên mặt báo,
nghe trong dư luận thì vẫn thấy cịn khơng ít e ngại. Mọi người vẫn kháo
nhau: “đi xem nhanh lên kẻo cấm mất” (Http://www.google.com.vn) ... Cùng
với thời gian, giá trị của vở kịch đã được khẳng định. Trong đó giá trị nhân
văn và tính triết lí là những điều khơng thể phủ nhận. Cho đến nay vở “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” đã được giàn dựng, cơng diễn trong và ngồi nước.
Vở kịch trở thành niềm tự hào cho nền kịch nói nước ta.
Chỉ là cốt truyện dân gian quen thuộc và chẳng mấy ai tranh luận về ý
nghĩa của nó nhưng khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch khơng dừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

2

lại ở những giá trị ban đầu mà đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. “Hồn Trương Ba,
da hàng thịt” khơng chỉ nói đến vấn đề hịa hợp về ý thức, đạo lí giữa phần
hồn và phần xác mà cịn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hồn thiện nhân cách
con người. Giá trị phản ánh hiện thực và phê phán xã hội của vở kịch là điều
ai cũng nhận ra nhưng nó khơng nằm trong một đối tượng cụ thể hay tập trung
vào một nhân vật nào đó mà nằm ở ngơn ngữ đối thoại mang tính triết lí về
cuộc sống, có tính phê phán và cảnh tỉnh. Do vậy giá trị hiện thực và nhân
đạo - nhân văn trong kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” khơng
tách rời nhau, trong đó giá trị nhân văn giữ vai trị xun suốt - đó là những
triết lí nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người, giúp cho con người trở thành một
cá thể toàn vẹn... Giá trị nhân văn của kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” là điều cần thiết cho cuộc sống con người trong xã hội, đặc biệt là
trong thời đại hiện nay, khi cuộc sống đang cuốn vào dòng chảy của lối sống
hiện đại, việc gìn giữ những nét đẹp và giá trị nhân văn của con người trong
cuộc sống ngày một khó khăn hơn.
Thực tế dạy - học văn trong trường THPT hiện nay đang đứng trước
“sự khủng hoảng” (Phan Trọng Luận), hiệu quả giờ học TPVC giảm sút,
học sinh thờ ơ, khơng có sự rung cảm, đồng cảm với nỗi niềm nhân vật. Học
sinh học đối phó, đạo văn, cóp văn của người khác là hiện tượng phổ biến,

khiến nhân cách, tâm hồn, năng lực cảm thụ và kĩ năng viết văn của các em
còn nhiều thiếu sót, nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Như chúng ta đã biết, kịch là một loại hình tổng hợp. Đó là sự kết hợp
giữa nghệ thuật và sân khấu. Song, ở trường THPT, chúng ta chỉ học kịch bản
văn học bởi thế dạy - học kịch còn rất nhiều băn khoăn với giáo viên và học
sinh. Dù giáo viên đã được trang bị đầy đủ lý thuyết về loại thể kịch nhưng
không mấy ai áp dụng vào bài dạy của mình. Họ vẫn dạy kịch bản văn học
như dạy tác phẩm tự sự khiến học sinh không hiểu, không phân biệt được sự
giống và khác nhau giữa các loại thể tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

3

Bên cạnh việc dạy học tác phẩm tự sự và trữ tình, dạy học kịch vẫn là
vấn đề khá mới mẻ. Thực tế cho thấy, giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó
khăn khi lĩnh hội loại tác phẩm này. Học sinh lĩnh hội tác phẩm qua sự tiếp
nhận từ thầy cô với thái độ thờ ơ, lạnh nhạt. Hầu hết học sinh chỉ quen với
truyện ngắn, thơ, kí cịn kịch lại tương đối xa lạ cho dù đã được tiếp xúc với
kịch từ THCS. Các em chỉ quen với những vở kịch sống động trên ti vi hay
trên sân khấu. Với các thể loại văn học khác, học sinh thường đón nhận hào
hứng và tiếp nhận nhanh. Cịn những vở kịch ở hình thức kịch bản văn học
thường khơng được u thích và nói theo kiểu của học sinh thì đó là những
“món khó nuốt”... Thực tế dạy học cho thấy, rất ít kì kiểm tra, kì thi lớn hay

nhỏ có sử dụng câu hỏi liên quan đến những đoạn trích kịch. Đây cũng là một
lý do khiến học sinh “học xong rồi quên ngay” khi các em vẫn chưa thực sự
thấu hiểu hết nội dung và ý nghĩa nhân văn của vở kịch. Tình trạng này đã
kéo dài trong suốt những năm qua, đến nay cần thay đổi; cần tìm một hướng
đi mới cho phù hợp, nhằm giúp học sinh nắm được giá trị nội dung, giá trị
nhân văn sâu sắc của những văn bản kịch ngay trên lớp học; tạo và duy trì
hứng thú cho các em với kịch bản văn học; tạo dư ba về đoạn trích cho học
sinh khi giờ học trên lớp kết thúc nhằm làm tăng tính thẩm mĩ và hiệu quả
giáo dục của kịch bản văn học lên mức cao nhất có thể.
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu kịch
Lưu Quang Vũ. Một số khoá luận, luận văn tốt nghiệp về kịch Lưu Quang Vũ
theo nhiều hướng. Song vấn đề hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn
trong dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại chưa có. Việc
nghiên cứu giá trị nhân văn – giá trị quan trọng nhất của vở kịch (trong từng
nhân vật đều có giá trị nhân văn nhất là nhân vật (hồn) Trương Ba) là một vấn
đề cần được quan tâm và đầu tư thích đáng.
Với thực tế dạy học hiện nay, việc dạy học đoạn trích theo hướng tập
trung phân tích, khai thác giá trị nhân văn cịn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế
khiến hiệu quả giờ dạy học chưa cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

4


Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã mạnh dạn triển khai đề tài:
Hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn trích “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản,
trong luận văn tốt nghiệp này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1. Những thuận lợi – khó khăn trong giảng dạy tác phẩm kịch ở
trƣờng THPT
Vấn đề giảng dạy TPVC nói chung và giảng dạy kịch nói riêng ở nước ta
đã được đề cập, nghiên cứu từ lâu. Năm 1996, Huỳnh Lý có bài: “Kịch và giảng
dạy kịch” trong cuốn “Vấn đề giảng dạy TPVH theo loại thể”, trong đó tác giả
đã đề cập đến nhiều vấn đề khi giảng dạy kịch: “chúng ta khơng giảng dạy kịch
với tư cách một loại hình nghệ thuật mà chỉ giảng dạy kịch bản về phương diện
văn học" (tr 239). Ngồi ra tác giả cịn đề cập đến khái niệm kịch, vị trí kịch
trong các loại hình nghệ thuật, những đặc tính của kịch mà người giảng dạy
cần chú ý… Khơng dừng lại ở đó, ơng đã chỉ ra sự khác biệt giữa bi kịch và
hài kịch; làm rõ q trình phát triển của kịch nói ở Việt Nam; giới thiệu
những vở kịch trong chương trình Ngữ văn THPT. Cuối bài viết, tác giả đã
khẳng định với chúng ta rằng “chỉ dạy kịch về phương diện văn học nhưng lại
phải có nhiều kiến thức về diễn xuất” (tr 284).
GS Phùng Văn Tửu viết cuốn: “Cảm nhận và giảng dạy Văn học Việt
Nam”, NXB GD, 2003. Cuốn sách đề cập đến vấn đề nghiên cứu và giảng
dạy kịch theo đặc trưng loại thể. Đây được coi là đóng góp mới cho việc dạy
kịch. Tác giả đã viết: “Khi giảng kịch chúng ta chú ý đến những đặc trưng
của loại hình nghệ thuật này để học sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch
chẳng khác gì học truyện ngắn hoặc tiểu thuyết…”. Theo ông, bài giảng chủ
yếu dựa vào văn bản kịch nhưng đồng thời cũng phải giúp học sinh hình dung
được phần nào câu chuyện dưới ánh đèn sân khấu. Vậy là tác giả đã chú ý đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

5

đặc trưng loại thể kịch khi giảng dạy... Ông khẳng định: “Phân tích một đặc
trưng phải gắn liền với kết cấu, với bối cảnh, không gian, thời gian, lời thoại
nhân vật, hành động, xung đột” bởi tất cả những điều đó đều mang tính định
hướng ban đầu giúp ta tiếp cận tác phẩm.
Tuy nhiên, bài viết của các nhà nghiên cứu mới chỉ nhắc đến vấn đề tiếp
nhận kịch bản văn học, còn việc đưa ra những hướng tiếp nhận cụ thể, hiệu quả
thì chưa có trong bài viết. Các tác giả vẫn chưa hình thành được hệ thống
phương pháp, chưa đưa ra được những phương pháp và biện pháp tích cực.
Trong cuốn “Năm tập bài giảng nghiên cứu văn học” của Hồng Ngọc
Hiến, NXB GD, 1996, có bài viết: “Về một đặc trưng thể loại của bi kịch”
(trên cơ sở phân tích vở “Vua Ơđíp” của Xơphơdơ). Tác giả đã chỉ ra rất rõ
một đặc trưng thể hiện của bi kịch Hy Lạp cổ đại được minh hoạ qua vở
“Ơđíp làm vua”. Ngồi ra, bài viết khơng đề cập tới các vở bi kịch sau này,
cũng không đưa ra gợi ý cho việc giảng dạy những kịch bản văn học này một
cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Trong thực tế giảng dạy chúng ta đều nhận thấy: mỗi tác phẩm văn học
là một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo của nhà văn. Mỗi tác phẩm thuộc một
loại thể nhất định (tuy nhiên một số tác phẩm vẫn có sự đan xem giữa các loại
thể song về cơ bản chúng vẫn thuộc một loại thể nào đó)… Bởi vậy mỗi TPVC
đều có “con đường tiếp nhận riêng”. TS Nguyễn Viết Chữ trong cuốn
“Phương pháp dạy học TPVC theo loại thể”, NXB ĐHSPHN, 2005, đã đưa ra

những phương pháp, biện pháp cụ thể cho dạy học tác phẩm trữ tình, tự sự.
Cịn loại thể kịch, tác giả mới chỉ dừng lại ở góc độ gợi mở, chưa chỉ ra cụ thể
và rõ ràng, chưa đưa thành một chương trong cuốn sách.
Năm 2009, Trần Thị Thanh Vân, ĐHSP Hà Nội bảo vệ luận văn thạc
sĩ với đề tài: Sự vận động hội thoại trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ. Luận văn đã làm rõ những vấn đề liên quan tới ngôn
ngữ, đối thoại trong kịch Lưu Quang Vũ và trong tồn bộ tác phẩm “Hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

6

Trương Ba, da hàng thịt”. Đây là tư liệu tham khảo có tầm khái quát rộng và
rất hữu ích khi tìm hiểu ngơn ngữ kịch trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” (Lƣu Quang Vũ).
Cũng trong năm 2009, Trƣơng Kim Thuyên, ĐHSP Thái Nguyên đã
bảo vệ luận văn thạc sĩ với đề tài “Dạy học kịch bản văn học ở THPT theo
đặc trưng thể loại” trong đó có đề cập tới vấn đề dạy học đoạn trích “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” theo thể loại với phần giáo án thể nghiệm được
soạn khá chi tiết, tỉ mỉ và công phu. Song tất cả chỉ tập trung vào vấn đề giảng
dạy đoạn trích theo đặc trưng thể loại và theo đúng tinh thần của đề tài mà
không đề cập đến việc hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn cho dù
đây là một phần rất cần thiết và quan trọng của bài học. Với luận văn này
chúng ta đã bước đầu được tiếp cận gần hơn với tác phẩm “Hồn Trương Ba,

da hàng thịt” từ góc độ thể loại.
Trong năm 2010, PSG. TS Nguyễn Văn Long có bài “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” in trên Văn học tuổi trẻ, số tháng 5 – 6. Bài viết đã phân
tích đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo hướng tập trung phân
tích các cuộc đối thoại chính trong đoạn trích. Tác giả chỉ đề cập nhiều tới
phần ngơn ngữ của tác phẩm và đoạn trích, ngồi ra các vấn đề khác chỉ được
“điểm mặt nhắc tên” cho đủ mà khơng đi sâu khai thác, phân tích. Trên tinh
thần đó, giá trị nhân văn cũng được đề cập, song đó chỉ là những vấn đề khái
quát và chung nhất về giá trị nhân văn của kịch bản văn học này. Việc phân
tích các giá trị nhân văn đó như nào thì tác giả lại khơng nhắc đến.
Nhìn chung tồn bộ tác phẩm và đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ đã được nhắc đến và nghiên cứu trên rất nhiều khía
cạnh khác nhau. Song, đi sâu vào vấn đề hướng dẫn học sinh phân tích giá trị
nhân văn trong dạy học đoạn trích thì chưa. Cho đến nay vẫn chưa có tác giả
hay nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ phương pháp
giảng dạy bộ mơn Ngữ văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hồi Thu

7

Có thể nói, đây là một đề tài khoa học mới, có nhiều vấn đề khai thác
để góp phần làm đa dạng PPDH đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
2.2. Vị trí tác giả Lƣu Quang Vũ và kịch bản văn học “Hồn Trƣơng

Ba, da hàng thịt”
Các tác giả viết về kịch Lưu Quang Vũ khá nhiều song viết riêng về vở
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại tương đối ít. Ta có thể điểm tới: Nhân đọc
và xem “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Phan Trọng Thƣởng, Tạp chí
Văn học, trang 47, số 1, 1989. Bài viết khơng đi sâu vào phân tích tác phẩm từ
góc độ văn học. Bài viết chỉ đơn thuần đề cập tới suy nghĩ của tác giả khi tiếp
xúc với kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và vở kịch được đạo
diễn Trần Đình Nghị giàn dựng, đưa lên sân khấu dựa trên kịch bản tác phẩm
cùng tên của tác giả Lưu Quang Vũ. Mười một năm sau, năm 2009, trên Tạp
chí Giáo dục, số 208, trang 40 - 42, Nguyễn Thanh Tú viết bài: Một hướng
tiếp cận văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Với bài viết này, tác giả đã
góp một phần quan trọng cho quá trình nghiên cứu tác phẩm khi chỉ ra hướng
tiếp cận hiệu quả. Tuy vậy tất cả vẫn chưa thực sự đi sâu vào khai thác và
nghiên cứu kịch bản văn học này theo hướng phân tích giá trị nhân văn.
Trước đến nay, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ln là một kịch bản
văn học có sức hút mạnh mẽ đối với độc giả trong và ngoài nước. Kịch bản
văn học này đã khẳng định vai trò tiên phong của kịch Lưu Quang Vũ trong
sự nghiệp đổi mới văn học sau 1975. Song, tiếp nhận và thấu hiểu giá trị nhân
văn của văn bản kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” không phải vấn đề dễ
dàng. “Hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn
trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ), SGK Ngữ văn 12, tập
2, bộ cơ bản” là vấn đề cần được quan tâm, đầu tư nhưng lại chưa nhận được
sự quan tâm, đầu tư thích đáng. Đây cũng là một đề tài khoa học mới có tính
thực tế và ứng dụng cao trong dạy học kịch bởi thế chúng tôi đã mạnh dạn đi
sâu vào nghiên cứu đề tài khoa học này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt



Trần Hồi Thu

8

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân
tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản” chúng tôi
hướng đến việc xác định một số phương pháp, định pháp dạy học nhằm
hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong kịch bản văn học ở THPT
nói chung và trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng. Từ
đó chúng tôi đề xuất một số hướng dạy học kịch với mong muốn đó sẽ là
những định hướng cơ bản cho thày và trò khi dạy học nhằm đem lại hiệu quả
cao cho giờ dạy học kịch.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, chúng tơi đưa ra những nhiệm vụ cụ thể
cần thực hiện sau:
 Chỉ ra giá trị nhân văn, đặc điểm của giá trị nhân văn trong kịch bản
văn học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và trong đoạn trích giảng cùng tên
của Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản.
 Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu nghiên cứu khoa học
về PPDH TPVC, chúng tôi đưa ra những phương pháp, biện pháp thích hợp để
hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn trích “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” - đó sẽ là định hướng dạy học kịch nói chung và
đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng, một cách hiệu quả.
 Khảo nghiệm thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” trong thực tế dạy học hiện nay ở trường THPT (trên một số địa bàn
khác nhau của tỉnh Thái Nguyên).
 Thiết kế giáo án thể nghiệm dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” (Lưu Quang Vũ) theo hướng tập trung vào việc hướng dẫn học
sinh phân tích giá trị nhân văn của đoạn trích giảng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

9

 Tiến hành dạy thể nghiệm để đánh giá tính khả thi của giáo án thể
nghiệm và đề tài luận văn.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn chúng tôi tập trung nghiên cứu kịch bản văn học
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ), đặc biệt là đoạn trích cùng
tên trong SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản. Những nét đặc trưng của thể loại
kịch đã được tìm hiểu thơng qua kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt”. Trên cơ sở đó chúng tơi đặc biệt chú ý làm rõ những giá trị nhân văn
sâu sắc của đoạn trích giảng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo đúng tinh
thần của đề tài luận văn.
Bên cạnh đó, chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu về tác giả Lưu Quang
Vũ và thực trạng dạy học kịch nói chung, dạy học đoạn trích “Hồn Trương

Ba, da hàng thịt” nói riêng để có một cái nhìn bao qt, tồn diện hơn về tác
giả - tác phẩm và tình hình dạy học đoạn trích, lấy đó làm cơ sở khoa học và
cơ sở thực tiễn để triển khai luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát một số
phương pháp, biện pháp dạy học nhằm hướng dẫn học sinh phân tích giá trị
nhân văn trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ)
đã được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản hiện nay.
Bên cạnh đó chúng tơi cũng khảo sát thực trạng dạy học bộ môn Ngữ văn ở
THPT đối với riêng thể loại kịch. Tiến hành dạy thể nghiệm với đoạn trích
kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ).
Các vấn đề khác được đề cập trong luận văn chỉ với mục đích làm sáng tỏ
những vấn đề đã nêu ở trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

10

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành luận văn, trong q trình thực hiện chúng tơi đã sử dụng
các phương pháp, biện pháp khoa học sau:
 Thu thập tài liệu và xử lí thơng tin có liên quan đến đề tài.
 Phương pháp khái qt hố lí luận.

 Phương pháp tổng hợp.
 Phương pháp thể nghiệm sư phạm (thiết kế giáo án thể nghiệm).
 Phương pháp điều tra (phiếu điều tra; đề kiểm tra).
Với phương pháp điều tra chúng tôi tiến hành ở một số tỉnh thuộc khu
vực trung du miền núi phía Bắc như: Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà
Giang, Yên Bái. Và phương pháp thể nghiệm sư phạm, chúng tôi tiến hành
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tại hai trường THPT là: THPT Yên Ninh
(huyện Phú Lương) và THPT Lê Hồng Phong (huyện Phổ Yên) với học sinh
lớp 12, ban cơ bản.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Từ việc hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học
đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, chúng tôi đề xuất những hướng
tiếp cận phù hợp với vở kịch để tìm hiểu giá trị nhân văn của đoạn trích; thể
nghiệm những biện pháp, cách thức hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân
văn qua đoạn trích để tiếp nhận, thấu hiểu sâu sắc tư tưởng, nghệ thuật của vở
kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và đoạn trích cùng tên trong SGK Ngữ
văn 12, tập 2, bộ cơ bản, sao cho giờ dạy học đoạn trích đạt hiệu quả cao nhất.
Hồn thành luận văn, chúng tôi mong muốn đưa tác phẩm “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ) đến gần hơn với bạn đọc để các thế hệ học
sinh nói riêng và mọi tầng lớp bạn đọc nói chung sẽ thấu hiểu thực sự những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu


11

giá trị nhân văn sâu sắc và tốt đẹp, có giá trị phổ qt tồn nhân loại của tác
phẩm (đoạn trích).
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Mở đầu
Nội dung
Chương 1. Dạy học kịch bản văn học “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” trong trường trung học phổ thông.
Chương 2. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – sự khao khát cuộc
sống đích thực của con người.
Chương 3. Thể nghiệm sư phạm
Kết luận
Thư mục tham khảo
Phụ lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

12

NỘI DUNG
Chương 1. DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC

“HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ
TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. LƢU QUANG VŨ - NHÀ VIẾT KỊCH TÀI HOA

Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) nổi tiếng trên văn đàn từ khá sớm. Nói
đến Lưu Quang Vũ là nói về một cây bút tài hoa, đã để lại dấu ấn trong nhiều
thể loại. Ở thể loại nào ông cũng gặt hái được những thành công nhất định.
Con đường sự nghiệp của ông bắt đầu từ thơ và kết thúc rực rỡ ánh hòa quang
ở kịch.
Thời điểm Lưu Quang Vũ đến với kịch có ý nghĩa quan trọng đối với
sự nảy nở và phát triển tài năng viết kịch ở nơi ơng. Đó là thời kì của những
xung đột gay gắt trong xã hội và trong đời sống, tư tưởng mỗi con người “đây là sự gặp gỡ may mắn giữa tài năng nghệ sĩ và thời đại” (Hồn Trương
Ba, da hàng thịt: Văn học tuổi trẻ, số tháng 5 – 6/ 2010, trang 5 – 11, PGS.
TS Nguyễn Văn Long).
Trong thời gian gần 10 năm, Lưu Quang Vũ sáng tác hơn 50 vở kịch một khối lượng đồ sộ khiến nhiều người trong và ngoài nghề phải kinh ngạc,
thán phục. Ông được đánh giá là “nhà viết kịch xuất sắc của thời kì hiện đại”
(Vài nét về kịch của Lưu Quang Vũ - Lƣu Khánh Thơ). Kịch Lưu Quang Vũ
khai thác nhiều đề tài, khám phá muôn mặt của đời sống con người và xã hội.
Căn cứ vào cốt truyện của kịch bản, có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu
Quang Vũ ra nhiều loại: Loại dựa vào tích cũ của Văn học dân gian rồi viết
lại (Nàng Sita; Đam Sam; Hồn Trương Ba, da hàng thịt; …); Loại dựa vào
cốt truyện văn học để chuyển thành kịch (Hẹn ngày trở lại; Đơi dịng sữa mẹ;
Muối mặn đời em; …); Loại sáng tác về đề tài hiện đại (Cô gái đội mũ nồi
xám; Tôi và chúng ta; Lời thề thứ 9; …) – đây là phần chủ yếu, là điểm mạnh
và chiếm số lượng lớn trong “gia tài kịch” đồ sộ của Lưu Quang Vũ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt



Trần Hồi Thu

13

Hướng ngịi bút vào cuộc sống, kịch Lưu Quang Vũ đã góp một tiếng
nói thiết thực trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Ông đã chứng tỏ sự nhạy
cảm đặc biệt; một khả năng phát hiện, nắm bắt cái “lõi” của hiện thực để phản
ánh rất tài tình. Ngịi bút Lưu Quang Vũ “xơng” vào mọi ngõ ngách của cuộc
sống và tâm hồn con người. Ơng khơng hạn chế mình trong bất kì loại đề tài
nào. Ở đâu ông cũng phát hiện ra vấn đề để bàn luận và trao đổi... Tất cả xuất
hiện trong kịch Lưu Quang Vũ với ý nghĩa xã hội rõ nét và đậm chất nhân văn
sâu sắc.
Kịch Lưu Quang Vũ là tiếng nói phản ánh cuộc sống đang diễn ra với
hiện thực tươi mới, gần gũi. Ơng có khả năng biến chi tiết đời thường thành
những điển hình nghệ thuật để tăng sự hấp dẫn cho tác phẩm. Phần lớn kịch
bản văn học của ơng thường đi thẳng vào những vấn đề nóng bỏng nhất, tươi
mới nhất trong xã hội. Các nhân vật kịch như thể từ cuộc đời bước lên sàn
diễn. Sân khấu trở thành diễn đàn để giao lưu, luận bàn giữa tác giả với khán
giả… Những vở kịch của ông thường bắt đúng mạch nguồn cuộc sống, đáp
ứng được điều mọi người trăn trở hay những tâm sự đau đớn, thầm kín của
khán giả. Vì thế, ơng đã gặt hái được rất nhiều thành công giữa lúc sân khấu
đang hiếm kịch bản hay.
Kịch Lưu Quang Vũ là tiếng nói trẻ trung, dũng cảm trong phong trào
đổi mới ở nước ta. Đó là kết quả của sự nhiệt tình, sức lực, sự hiểu biết về
cuộc sống của người nghệ sĩ. Đồng thời cũng là kết quả của tình u, lịng say
mê và khát vọng nghệ thuật. Trên đôi vai “lực lưỡng” của mình, Lưu Quang
Vũ đã gánh đỡ một nhu cầu to lớn về kịch bản cho hàng chục đoàn kịch trong
cả nước.

Có thể khẳng định, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch sáng giá nhất trong
những năm 80 của Thế kỉ XX đầy biến động. Chính sự sáng suốt của lí trí và
men say của chất thơ đã tạo nên nét đặc sắc trong kịch Lưu Quang Vũ, góp
phần làm nổi bật chân dung một người nghệ sĩ tài năng và tâm huyết với nghề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hồi Thu

14

Tuy nhiên, khơng thể nói mọi tìm tịi sáng tạo của Lưu Quang Vũ đều
đạt tới độ hoàn bích. Kịch của ơng vẫn cịn những hạn chế nhất định. “Ở một
số vở, tính luận đề, thuyết giáo cịn biểu hiện khá lộ liễu, ít nhiều mang tính
sách vở, kinh viện” (Vài nét về kịch của Lưu Quang Vũ - Lƣu Khánh Thơ).
Ông viết nhiều, viết nhanh, khai thác nhiều đề tài khác nhau, đi vào nhiều lĩnh
vực trong cuộc sống nhưng tác phẩm của ông vẫn bộc lộ sự hạn chế về vốn
sống. Nhất là khi viết về một lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã hội. Tuy
nhiên, những thành quả Lưu Quang Vũ để lại đã cho thấy sự tìm tịi, khám
phá và q trình lao động nghệ thuật nghiêm túc của một người nghệ sĩ đầy
tâm huyết với đời, với nghề.
Trong những năm tháng lao động nghệ thuật ngắn ngủi của đời mình,
sức viết của Lưu Quang Vũ ln hừng hực như bó đuốc rực cháy. Những gì
ơng đã làm được và để lại cho đời đủ khiến ông “sừng sững như một trái núi,
một lực sĩ không đối thủ” (Lƣu Khánh Thơ). Và tại thời điểm bấy giờ,
Christian - một nhà báo Pháp ở Việt Nam đã “phấn chấn đưa tin về cho tờ

báo của mình tại Pháp: Molyere ở Việt Nam tên là Lưu Quang Vũ” (Hồn
Trương Ba, da hàng thịt, Văn học tuổi trẻ, số tháng 05 – 06/ 2010, tr 212 213, PGS. TS Nguyễn Văn Long).
Tháng 9/ 2000, Lưu Quang Vũ được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Phần đóng góp của ơng đã được nhà nước
và nhân dân ghi nhận. Lưu Quang Vũ là tác giả trẻ tuổi nhất được nhận giải
thưởng cao quý này một cách rất xứng đáng.
1.2. “HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” - VỞ KỊCH VỚI NHỮNG
TRĂN TRỞ VỀ LẼ SỐNG, LẼ LÀM NGƢỜI

Trong hầu hết các vở kịch của mình, Lưu Quang Vũ đều thể hiện tư
tưởng, triết lí phương Đơng sâu sắc. Đó là nỗi trăn trở về sự sống và cái chết.
Có thể coi đây là tư tưởng xuyên suốt, chi phối những tư tưởng khác trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hồi Thu

15

vở kịch của ơng như: về cái thiện – cái ác; lòng tốt; lẽ sống - lẽ làm người; ...
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một vở kịch như vậy – một vở kịch mang
đậm tư tưởng, triết lí phương Đơng của Lưu Quang Vũ.
Với xuất phát điểm là một cốt truyện dân gian bình thường, khơng mấy
người quan tâm, để ý. Nhưng khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch
không dừng lại ở những giá trị ban đầu. Vở kịch đã đặt ra nhiều vấn đề mới
mẻ và nhận được sự quan tâm đặc biệt từ khán giả. “Hồn Trương Ba, da hàng

thịt” của Lưu Quang Vũ khơng chỉ nói đến vấn đề hịa hợp, sự gắn bó về ý
thức - đạo lí giữa phần hồn và phần xác trong cuộc sống hài hòa của cá nhân
con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hồn thiện nhân cách con
người. Đó khơng phải chuyện một thời mà là chuyện của muôn đời. Đó cịn là
triết lí nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người... Những rắc rối, đổ vỡ bắt nguồn từ
sự sống tạm, sống vay mượn của hồn Trương Ba trong xác hàng thịt đã cho
thấy: cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải như nào cũng sống được.
Sống không phải tồn tại. Sống vay mượn, chắp vá, khơng có sự hài hòa giữa
hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con
người được sống là chính mình, được sống trong một thể thống nhất giữa hồn
và xác. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” khơng chỉ nói đến đời sống
một cá nhân mà còn đặt ra nhiều vấn đề của xã hội. Tác giả mượn chuyện của
một người để nói mọi người. Ẩn dưới tầng sâu của vở kịch là một nỗi buồn
nhân thế, mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gồm 7 cảnh, khơng gian - thời
gian mở rộng từ thiên đình xuống hạ giới với nhiều kiểu dạng nhân vật. Đoạn
trích trong SGK Ngữ văn 12, tập 2, bộ cơ bản, thuộc cảnh VII và đoạn kết cảnh cuối vở kịch. Đây là giai đoạn xung đột kịch phát triển tới đỉnh điểm khi
hồn (Trương Ba) có nguy cơ bị xác (hàng thịt) lấn át. Hồn Trương Ba bị
những người thân yêu trong gia đình nghi ngờ, xa lánh. Nỗi đau khổ lên đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hồi Thu

16


tột cùng, hồn quyết định giải thốt - đây là sự lựa chọn giữa tự do và lệ thuộc,
giữa cuộc sống cá nhân và lẽ sống xứng đáng. Đó là quyết định mang ý nghĩa
và giá trị nhân văn sâu sắc của hồn Trương Ba. Quyết định giải thoát của hồn
Trương Ba là quyết định mang nhiều trăn trở và suy nghĩ về lễ sống, lẽ làm
người. Quyết định đó như “lời phát biểu” của cá nhân Lưu Quang Vũ trước
độc giả về sự sống, sự tồn tại và về ý nghĩa cuộc đời. Điều này góp phần
khẳng định nhân cách cao đẹp của nhà soạn kịch tài năng bậc nhất nước ta và
của nhân vật - những đứa con tinh thần của tác giả.
Đoạn trích giảng trong SGK đã mang lại những bài học làm người quý
báu, thiết thực cho các thế hệ người đọc nói chung, các thế hệ học sinh nói
riêng. Đặc biệt là các em ở lứa tuổi đang phát triển và hình thành nhân cách,
khi các em đang “lúng túng” trước việc tìm cho mình một con đường đi đúng
đắn, một lối sống lành mạnh. Đó cịn là tiếng chng đánh thức sự khao khát
cuộc sống đích thực trong mỗi cá nhân, đánh thức khao khát được yêu
thương, dạy con người biết yêu – ghét phân minh, biết hi sinh vì người khác.
Vở kịch là lý tưởng, là con đường đưa chúng ta đến với cuộc sống tốt đẹp khi
con người được sống là chính mình, khi con người biết hi sinh để mang lại
cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho những người xung quanh, biết hi sinh
để mang lại những điều tốt đẹp cho cuộc đời.
1.3. THỰC TRẠNG DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA, DA
HÀNG THỊT” NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

1.3.1. Những khó khăn và thuận lợi khi dạy học đoạn trích
1.3.1.1. Khó khăn
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là tác phẩm thuộc thể loại kịch, một
thể loại ít được học trong chương trình Ngữ văn THPT. Bên cạnh đó, kịch bản
văn học là thể loại thường không chiếm được sự quan tâm và yêu thích của
học sinh bởi thế đoạn trích khơng chiếm được cảm tình của đa số học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

17

Vở kịch ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến đổi: cái mới bắt
đầu manh nha, cái cũ vẫn còn tồn tại và sự đan xen giữa cái cũ - cái mới diễn
ra ở mọi lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Ra đời từ năm 1981 nhưng
mãi đến năm 1984 vở kịch mới được đưa lên sàn diễn để đến với công chúng.
Và trong thời gian đầu ra mắt, vở kịch đứng trước nguy cơ bị cấm diễn
(Http://www.google.com.vn) vì đã đề cập đến những vấn đề xã hội “nóng
bỏng” lúc bấy giờ. Từ đó, chặng đường vở kịch đến với cơng chúng là chặng
đường đầy gian nan. Những vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm là những vấn
đề có tính xã hội, không phải là vấn đề dễ nắm bắt và thấu hiểu đối với học
sinh THPT. Từ đó, việc dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
cũng khơng phải là việc dễ dàng.
Đoạn trích trong SGK là đoạn xung đột kịch được đẩy tới đỉnh điểm.
Đoạn trích là sự chồng chất những mâu thuẫn và xung đột trong rất nhiều
nhân vật. Phần chính đoạn trích gồm 3 cuộc đối thoại: giữa hồn Trương Ba và
xác hàng thịt; giữa hồn Trương Ba và người thân (vợ, con dâu, cháu gái); giữa
hồn Trương Ba và Đế Thích. Trước những nội dung đó, với dung lượng 2 tiết,
học sinh sẽ tiếp nhận đoạn trích khơng được sâu, việc thấu hiểu giá trị nhân
văn của vở kịch trở thành vấn đề quá sức với các em. Các em chưa thể hiểu
hết ý nghĩa từng nhân vật, từng sự kiện... Bên cạnh đó, đoạn trích mới đưa
vào chương trình SGK Ngữ văn 12 được 2 năm cho nên việc dạy học đoạn
trích vẫn rất cần quan tâm, đầu tư.

1.3.1.2. Thuận lợi
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lƣu Quang Vũ) là vở kịch mới lạ và
mạnh mẽ; thể hiện tầm nhìn, tài năng sáng tạo nghệ thuật xuất sắc của nhà
viết kịch. Với vở kịch này, Lưu Quang Vũ đã đem đến những hứng thú mĩ
cảm cho người đọc, người xem. Trước kia, trong chương trình SGK Ngữ văn
THCS, giáo viên và học sinh đã được tìm hiểu vở kịch “Tơi và chúng ta”, đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hoài Thu

18

sẽ là cơ sở để vận dụng, phát triển kiến thức trong q trình dạy học đoạn
trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” - điều này giúp học sinh nắm vững
những giá trị nhân văn sâu sắc, mang tính phổ qt tồn nhân loại của tác
phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng, được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Học sinh lớp 12 - đối tượng tiếp nhận đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” - là những đối tượng đồng đều về tâm - sinh lí lẫn sự hiểu biết đời sống xã
hội. Đây chính là điều kiện cần thiết để rút ngắn khoảng cách tiếp nhận ở tập thể
học sinh trong quá trình hướng dẫn học sinh phân tích giá trị nhân văn trong dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
Đoạn trích được dạy trong chương trình lớp 12, lúc này học sinh bước vào
năm học cuối cấp nên hầu hết các em đều đã ý thức được tầm quan trọng của mơn
Ngữ văn trong kì thi tốt nghiệp THPT và Đại học. Từ đó, học sinh sẽ có những
đầu tư thích đáng với mơn học, việc tiếp nhận và phân tích giá trị nhân văn trong
đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” sẽ trở nên dễ dàng hơn.

1.3.2. Đối tƣợng khảo sát, kết quả và phân tích kết quả khảo sát
1.3.2.1. Học sinh
 Hứng thú học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” của
học sinh
Hứng thú học là điều rất cần thiết đối với bất kì môn học nào. Và hứng
thú học là điều mà người giáo viên cần tạo dựng được ở học sinh trước và
trong mỗi giờ dạy học.
Ở THCS, các em học theo lối truyền thống: Thầy giảng, trị tiếp thu chưa có khuynh hướng nghề nghiệp, thái độ học chưa được thúc đẩy bởi động
cơ nghề nghiệp trong tương lai. Nhưng đến THPT lại khác, lúc này mơn học
đã có sự lựa chọn. Học sinh tích cực học nhiều với những mơn các em cho là
quan trọng, gắn với nghề nghiệp mình sẽ lựa chọn. Học sinh lớp 10, đa phần
là nhận thức cảm tính. Song đến lớp 11 - 12, tư duy của các em đã phát triển
một cách độc lập, sáng tạo; phát triển khả năng tiếp nhận giá trị thẩm mĩ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt


Trần Hồi Thu

19

nhân văn của tác phẩm.
Việc đưa đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” vào chương trình
học là điều hồn tồn hợp lí bởi ở lứa tuổi 17 - 18 các em đã biết phân tích,
tổng hợp, so sánh, tưởng tượng, khái quát hoá vấn đề. Biết suy nghĩ và biết
cắt nghĩa vấn đề. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phát huy năng lực
chủ động, sáng tạo của học sinh đến mức tối đa vì ở lứa tuổi này các em ln

có nhu cầu khám phá đời sống, tìm hiểu các vấn đề và nhiều khía cạnh của
cuộc sống nhằm làm phong phú vốn sống cho mình… Từ đó khả năng tiếp
nhận đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của học sinh THPT là có cơ
sở thực tế và khoa học. Một thực tế đáng mừng đã diễn ra, sau khi học xong
đoạn trích một em học sinh đã phát biểu rằng: “Đoạn trích hay và sâu sắc
hơn nhiều so với những suy nghĩ ban đầu của em!”.
Bên cạnh đó, học sinh lớp 12 đã có đủ điều kiện và khả năng trong
việc tiếp nhận giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của kịch bản văn học trên
cơ sở định hướng của giáo viên. Các em không lĩnh hội tri thức một chiều,
theo kiểu thụ động, theo kiểu là bình chứa để giáo viên “rót kiến thức vào”.
Các em biết phát hiện điểm sáng thẩm mĩ, biết nghi ngờ những kết luận và
luôn sẵn sàng thắc mắc hay yêu cầu giáo viên giải đáp… Khơng chỉ vậy, học
sinh lớp 12 cịn biết tìm đọc tài liệu, biết nhào nặn những kiến thức cơ bản
mà giáo viên cung cấp để biến nó thành kiến thức của mình.
Ở tuổi sắp trưởng thành, học sinh cần và luôn muốn nắm bắt những bài
học làm người từ cuộc sống. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một minh
chứng cụ thể, điển hình cho các em tìm hiểu, học tập về cách sống, cách đối
nhân xử thế. Toàn bộ tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng đã dạy các em
biết khao khát sống, biết khao khát một cuộc sống đích thực, trên cơ sở đó giúp
các em hình thành cho mình lối sống bao dung và nhân cách cao đẹp.
Tuy nhiên, cùng là học sinh lớp 12 nhưng học sinh ban khoa học tự
nhiên khác học sinh ban khoa học xã hội và nhân văn, khác học sinh các lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LL và PP DH Văn - Tiếng việt



×