Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.69 KB, 112 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




ĐINH THỊ THÚY HẰNG




XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI
TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH Ở LỚP 11

Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀN








THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung
thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác.


Tác giả luận văn




Đinh Thị Thúy Hằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Trọng

Hoàn - người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, khoa Sau
đại học trường ĐHSP Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên em trong
quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn BGH trường THPT Việt Vinh,
những đồng nghiệp, người thân trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều
kiện cho tôi trong suốt thời gian qua.


Thái Nguyên, ngày tháng năm
Tác giả



Đinh Thị Thúy Hằng









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii

BẢNG KÝ HIỆU

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

GV
HS
HDHB
PPDH
THPT
TPVC
SGK

Giáo viên
Học sinh
Hướng dẫn học bài
Phương pháp dạy học
Trung học phổ thông
Tác phẩm văn chương
Sách giáo khoa


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Cấu trúc của luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HỆ
THỐNG CÂU HỎI TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH 10
1.1. Cơ sở lí luận 10
1.1.1. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn 10
1.1.1.1. Vai trò, tác dụng của hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn 10
1.1.1.2. Những nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ
văn 11
1.1.1.3. Chức năng của câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK Ngữ văn 13

1.1.2. Khái niệm thơ trữ tình 14
1.1.3. Đặc điểm thơ trữ tình 14
1.1.4. Phương pháp dạy thơ trữ tình 15
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
1.2.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn 11 18
1.2.1.1. Mục đích khảo sát 18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
1.2.1.2. Thống kê phân loại 19
1.2.1.3. Đánh giá hệ thống câu hỏi hướng dẫn học các bài thơ trữ tình trong
SGK Ngữ văn 11 21
1.2.2. GV THPT với việc sử dụng câu hỏi khi dạy thơ trữ tình ở lớp 11 32
1.2.3. Học sinh THPT với việc tiếp nhận thơ trữ tình ở lớp 11 34
1.2.4. Mối quan hệ giữa hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn 11 với chất
lượng giờ dạy học tác phẩm văn chương 35
1.2.5. Kết luận bước đầu về thực trạng sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy
học thơ trữ tình ở lớp 11 hiện nay 39
1.2.5.1. Về phía giáo viên 39
1.2.5.2. Về phía học sinh 42
Chƣơng 2:XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI TRONG DẠY HỌC
THƠ TRỮ TÌNH Ở LỚP 11 44
2.1. Giới thiệu khái quát các bài thơ trữ tình ở lớp 11 44
2.1.1. Các bài thơ trữ tình Việt Nam 44
2.1.2. Các bài thơ trữ tình nước ngoài 49
2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi cho một số bài thơ trữ tình ở lớp 11 50
2.2.1. Hệ thống câu hỏi trong dạy học các bài thơ trữ tình Việt Nam 50
2.2.3. Hệ thống câu hỏi trong dạy học các bài thơ trữ tình nước ngoài 63
2.3. Những đề xuất góp phần xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ

trữ tình ở lớp 11 69
2.3.1. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của HS, giúp
HS nắm bắt được các dạng thức của cái “tôi” trữ tình 69
2.3.2. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với năng lực thiết kế giáo án của
người GV, qua đó thấy được đặc trưng thể loại của thơ trữ tình 72
2.3.3. Câu hỏi đưa ra phải khơi gợi được sự liên tưởng, tưởng tượng của
học sinh khi tiếp nhận các bài thơ trữ tình 75
2.3.4. Hệ thống câu hỏi đưa ra phải khơi gợi được cảm xúc, tâm tư, tình
cảm, những rung động trong tâm hồn mỗi học sinh 77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
2.3.5. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học thơ trữ tình để kích thích
sự đa dạng hóa các hoạt động của học sinh trên lớp 79
2.3.6. Xây dựng hệ thống câu hỏi trong giáo án phải vận dụng khoa học
những câu hỏi phần hướng dẫn học bài trong SGK, phải đạt được sự chuẩn
mưc và mang tính nghệ thuật cao 80
2.3.7. Các câu hỏi phải có sự chọn lọc và mang tính sáng tạo cao 82
Chƣơng 3:THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 84
3.1. Giới thuyết chung 84
3.2. Bài soạn thực nghiệm Đây thôn Vĩ Dạ 85
3.2.1. Mục đích thực nghiệm 85
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm 85
3.2.3. Cách thức tiến hành thực nghiệm 85
3.3. Bài soạn thực nghiệm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 86
3.4. Đánh giá kết quả thực nghệm 95
PHẦN KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhận thức về vị trí của câu hỏi hướng dẫn học bài trong hệ thống
SGK hiện nay
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây
dựng một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề
giáo dục đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt chú trọng. Yêu
cầu giải phóng và phát huy tiềm năng sáng tạo của thế hệ trẻ là một vấn đề
chiến lược của giáo dục và là một đòi hỏi bức bách đối với mọi nhà trường
hiện nay. Vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là những yêu cầu
cơ bản của chiến lược giáo dục và luôn là những vấn đề thời sự .
Dạy học văn là một quá trình nhận thức trải qua nhiều bước khác nhau.
Mỗi bước có một vai trò, nhiệm vụ riêng. Trong đó, việc tìm hiểu hệ thống
câu hỏi trong sách giáo khoa (SGK) là một bước rất quan trọng, có tác dụng
quyết định chất lượng học tập, tạo tâm thế cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm,
giúp học sinh hình thành và rèn luyện một phương pháp tự tìm hiểu, tự khám
phá, liên hệ và cảm nhận tác phẩm văn học.
1.2. Xuất phát từ nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người có cá tính, bản lĩnh,
sáng tạo, nên nhất định trong giờ lên lớp, người giáo viên không thể duy trì
mãi nếp giảng dạy cổ truyền, áp đặt. Vậy muốn dạy tốt, học tốt thì phải đề cập
đến nhiều yếu tố, trong đó đòi hỏi phải có một phương pháp khoa học. Trong
giảng dạy tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông, vấn đề người học
với tư cách là chủ thể của giờ học ngày càng được quan tâm. Tác phẩm văn
chương (TPVC) không phải là một văn bản duy nhất trong mối quan hệ đơn
phương với người giáo viên. Trong lớp học, một văn bản ít nhất có ba chủ thể

với ba điểm nhìn khác nhau: Nhà văn - giáo viên - học sinh. Vậy nhiệm vụ
của giờ văn là làm sao tạo được sự tương tác của ba mối quan hệ đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Để có một giờ dạy học TPVC phù hợp với cơ chế dạy học mới đòi hỏi
phải có sự chuẩn bị của cả thầy và trò. Xây dựng một hệ thống câu hỏi phù
hợp với phương pháp dạy học và quy trình lên lớp là điều hết sức cần thiết để
có định hướng đúng đắn và hiểu biết sâu sắc về TPVC, kích thích hoạt động
tích cực, sáng tạo của học sinh (HS), giúp giáo viên (GV) thực hiện tốt vai trò
cố vấn, điều khiển dẫn dắt học sinh tiếp cận TPVC. Điều này đòi hỏi năng lực
không nhỏ đối với người GV.
Muốn làm tốt vai trò người “trọng tài khoa học”, người GV phải tự rèn
luyện, không ngừng sáng tạo, có năng lực tự học và tự nghiên cứu; không
những phải giỏi về chuyên môn mà còn giỏi về nghiệp vụ sư phạm, đó chính
là các kĩ năng dạy học. Trong các kĩ năng dạy học thì đặt câu hỏi là một trong
những kĩ năng quan trọng.
Hệ thống câu hỏi trong tác phẩm văn chương không phải là vấn đề mới
mẻ nhưng trong quan niệm cũng như trong cách vận dụng của giáo viên phổ
thông còn nhiều lúng túng. Giáo án của giáo viên không thể không tính đến
nội dung và cách thức xây dựng những câu hỏi. Có thể nói, hệ thống câu hỏi
trong dạy học chính là “linh hồn” của bài học. Những kiến thức mà học sinh
chuẩn bị ở nhà theo SGK và nội dung trong giáo án của giáo viên tuy có sự
khác nhau nhưng cùng hướng đến một mục đích chung là giúp học sinh tự
mình tìm hiểu tác phẩm bằng cách tự học, tự suy nghĩ, liên hệ, tìm tòi, sáng
tạo. Vì thế chúng có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau.
1.3. Những trăn trở của các nhà sư phạm trong giờ dạy TPVC
Trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương, tình hình đặt câu hỏi và sự
phụ thuộc vào câu hỏi trong SGK của GV và HS đã làm cho giờ học trở nên

khô khan, HS như cái máy hoạt động theo lập trình có sẵn. Thực tế, trong giờ
học có nhiều câu hỏi ngẫu hứng, tái hiện kiến thức, vụn vặt, không thể hiện
đặc trưng giờ dạy TPVC nên đã giảm đi ít nhiều tính sáng tạo và sự sinh động
của giờ học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Vấn đề câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn chương đã được các nhà
nghiên cứu khoa học bàn đến từ lâu và đã có nhiều công trình nghiên cứu giải
quyết vấn đề đó. Riêng ở Việt Nam có một cuốn sách và hai cuốn luận án làm
riêng về hệ thống câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn chương như “Câu hỏi
trong giảng văn” (Trương Dĩnh), “Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học”
(Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Cương), “Câu hỏi nêu vấn đề trong giờ
giảng văn” (Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngân). Nhưng chưa có ai bàn
đến câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11.
Trong chương trình và SGK Ngữ văn 11 có một số lượng bài thơ trữ tình
không nhỏ. Thực tiễn cho thấy số lượng các bài thơ đó lại được sáng tác ở
những thời điểm khác nhau, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, cho nên việc
xây dựng hệ thống câu hỏi cho các giờ học thơ trữ tình như thế nào để phù
hợp với đặc trưng loại thể là một vấn đề còn nhiều vướng mắc đối với các GV
đang trực tiếp giảng dạy ở các trường phổ thông hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên và thực tiễn giảng dạy của người viết,
chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học
thơ trữ tình ở lớp 11” cho luận văn thạc sĩ của mình nhằm góp thêm tiếng nói
về vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề câu hỏi trong dạy học văn đã thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Trong đó, chúng ta có thể kể đến một số công trình sau:
Các tác giả cuốn Phương pháp luận dạy văn học (do Ia. Rez chủ biên)

đã cho rằng: "Xây dựng hệ thống câu hỏi lôgíc chặt chẽ có thể dẫn dắt một
cách liên tục sự suy nghĩ của học sinh từ quan sát đến phân tích hiện tượng, từ
những kết luận mang tính chất bộ phận đến những kết luận khái quát hơn. Hệ
thống câu hỏi tạo nên cuộc đàm thoại gợi tìm, không những phải đưa học sinh
đến những tri thức tự tìm lấy, mà còn phải chỉ ra các phương hướng, phương
pháp nhằm đạt tới các tri thức đó nữa" [45,tr.57].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Trong công trình Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ
thông, tác giả Nhikônxki đã nhấn mạnh: các câu hỏi đặt ra cho học sinh phải
tạo ra cho các em khả năng trả lời câu hỏi tương đối tự do và có khả năng để
các em thảo luận bàn bạc. Đồng thời, tác giả còn lưu ý: Việc trình bày câu hỏi
phải được suy nghĩ cẩn thận, không nên đặt câu hỏi một cách tùy tiện và ngay
tại lớp vì có thể diễn đạt không chính xác [35].
Luận án tiến sĩ Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở THPT của
Nguyễn Thị Ngân khẳng định: Câu hỏi nêu vấn đề đã được sử dụng khá rộng
rãi và có hiệu quả trong các môn khoa học tự nhiên. Trên cơ sở tôn trọng các
đặc thù của văn chương, việc nghiên cứu ứng dụng loại câu hỏi nêu vấn đề
trong giờ học tác phẩm văn chương là một hướng tiếp cận có khả năng làm
thay đổi bản chất của câu hỏi giảng văn và góp phần thực thi vào việc đổi mới
phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông hiện
nay [36].
Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương, TS Nguyễn Trọng Hoàn đã đi sâu vào trình bày những biện pháp
nhằm rèn luyện tư duy cho học sinh. Tác giả có phân loại các loại câu hỏi
trong dạy học Văn. Theo tiến sĩ, “việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong quá
trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói
cách khác là mở tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học

sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức”. “Các câu hỏi liên tưởng và tưởng
tượng trong hệ thống các câu hỏi sáng tạo trong bài học tác phẩm văn
chương được xem như một trong các giải pháp liên kết phương hướng triển
khai quá trình hình thành kiến thức, góp phần làm phong phú các hướng tiếp
nhận tích cực ở học sinh”[17].
Như vậy, theo tác giả, hệ thống câu hỏi và bài tập trong giờ học Văn có ý
nghĩa tạo ra các tình huống có vấn đề cho học sinh tìm hiểu và giúp học sinh
tiếp nhận bài học một cách tích cực.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể,
tác giả Nguyễn Viết Chữ cũng đề cập đến vấn đề: "Lý thuyết câu hỏi cảm thụ
tác phẩm văn chương và sự vận dụng trong dạy học theo loại thể như một
phương tiện thiết yếu" [9,tr.37]. Ở đây tác giả đã xây dựng những cơ sở lý
luận và thực tiễn của vấn đề câu hỏi trong dạy học văn. Từ đó đề ra những
yêu cầu có tính nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học
tác phẩm văn chương và xác lập một hệ thống câu hỏi cảm thụ để dạy học tác
phẩm văn chương ở nhà trường Việt Nam. Ở chuyên luận này, PGS Nguyễn
Viết Chữ tiếp nối quan điểm của các nhà sư phạm Nga đã vận dụng linh hoạt
hệ thống câu hỏi cảm thụ để dạy học TPVC ở nhà trường Việt Nam, chuyên
luận gồm ba nhóm câu hỏi: cảm xúc, hình dung tưởng tượng, hiểu biết với
chín loại câu hỏi. Ông đã đưa ra những cơ sở lí luận, những yêu cầu có tính
nguyên tắc cho việc đặt câu hỏi trong quá trình dạy học và vận dụng cách
thức đặt câu hỏi cho những thể loại văn học tiêu biểu. Hệ thống câu hỏi cảm
xúc: câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc bị tác động bởi TPVC
gồm câu hỏi cảm xúc vật chất, câu hỏi cảm xúc nghệ thuật.
Đặc biệt, chúng tôi thấy có công trình nghiên cứu chuyên biệt về hệ
thống câu hỏi trong SGK văn học. Đó là “Câu hỏi và bài tập với việc dạy học

tác phẩm văn chương trong nhà trường” của TS Nguyễn Quang Cương. Nội
dung bao trùm cuốn sách là những vấn đề xung quanh hệ thống câu hỏi, bài
tập văn học, từ thực trạng dạy học đến các vấn đề lí luận, từ mô hình lí thuyết
đến sự vận dụng trong thực tế dạy học tác phẩm văn chương. Tác giả đã dành
nhiều thời gian, công sức để tìm hiểu một số SGK văn học của Liên Xô (cũ)
và của Pháp. Khảo sát, đánh giá hệ thống câu hỏi trong SGK văn học cải
cách. Từ đó xây dựng một số nguyên tắc cũng như đưa ra những tiêu chí để
xây dựng hệ thống câu hỏi cho SGK môn Ngữ văn THPT với mong muốn
mang lại cho SGK văn học một diện mạo mới với hệ thống câu hỏi có chất
lượng cao. Tác giả cho rằng: “Hệ thống câu hỏi (trong SGK văn học) một mặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
phải hấp dẫn, phong phú, kích thích trí tuệ và sự sáng tạo của mỗi học sinh,
mặt khác phải đảm bảo tính hệ thống, nhất quán để tạo nên kĩ năng cần thiết
trong việc hình thành và rèn luyện khả năng tự tiếp nhận, năng lực cảm thụ
thẩm mĩ, khả năng đánh giá , phân tích văn học” [8,tr.5]
Bài viết Phân tích nêu vấn đề với khả năng phát huy năng lực cảm thụ
văn chương của học sinh trong cuốn Văn chương bạn đọc sáng tạo của GS.
Phan Trọng Luận, đã khẳng định loại câu hỏi trong hoạt động tái hiện thường
vụn vặt, rời rạc và đưa ra những yêu cầu có tính nguyên tắc của câu hỏi nêu
vấn đề:
+ Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một dung lượng rộng lớn, mang tính
chất tổng hợp, bao gồm nhiều mối liên hệ giữa các yếu tố, các sự kiện nhằm
sáng tỏ quan điểm chung của tác giả trong tác phẩm.
+ Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung, chứa
đựng mâu thuẫn.
+ Câu hỏi nhất thiết phải vạch ra được (hoặc định hướng) vào mối quan hệ
hữu cơ giữa các yếu tố cụ thể với những vấn đề tổng hợp của tác phẩm.

+ Câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục. Mỗi câu hỏi là một cái mốc
trong quá trình khám phá. Câu sau bổ sung cho câu trước, câu trước chuẩn bị
cho câu sau.
+ Câu hỏi phải sát hợp với tác phẩm văn học, khơi gợi được hứng thú
của bản thân học sinh.
Khi tiến hành biên soạn sách giáo khoa cải cách, nói về Phương hướng
biên soạn sách giáo khoa cải cách lớp 10, GS Nguyễn Lộc đã đề cập đến vấn
đề câu hỏi và bài tập:
“Chúng tôi coi việc nêu lên những câu hỏi để học sinh chuẩn bị trong
phần hướng dẫn học tập gần như là chiếc chìa khoá của việc giảng dạy.
Tuyệt đối tránh những câu hỏi mà học sinh không cần nghiên cứu văn bản
cũng có thể trả lời được đại khái, hay những câu hỏi chỉ chú trọng mặt đạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
đức xã hội của tác phẩm mà hoàn toàn coi nhẹ giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.
Phải nghiên cứu thật kỹ các văn bản giảng văn để nêu lên những câu hỏi cụ
thể, gợi mở để học sinh có thể trả lời từng bước từ chi tiết đến khái quát. Bám
sát câu hỏi, học sinh tự mình phát hiện ra cái hay, cái đẹp của văn bản”.
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong bài “Đa dạng và hiệu quả của câu
hỏi trong dạy học Văn” (Tạp chí Giáo dục số 148/2006) khẳng định: “Xây
dựng được hệ thống câu hỏi có chất lượng là công việc khó nhất trong dạy
học Ngữ văn”. Ông quan niệm: tính hệ thống của câu hỏi phụ thuộc vào
cách tiếp cận đối tượng cũng như vấn đề: Tiếp cận tái hiện, chúng ta có câu
hỏi nhằm vào dạng thức bên ngoài, về số lượng, tính chất và đặc điểm của số
lượng, vào trí nhớ, việc học, việc đọc thuộc lòng và liệt kê. Tác giả còn xây
dựng những tiêu chí của câu hỏi tốt và nội dung câu hỏi ngắn, rõ, chính xác,
trực tiếp, tránh đánh đố; câu hỏi có tác dụng kích thích HS, phải thách thức
gợi trí tò mò đòi hỏi muốn trả lời phải vận dụng kiến thức đã học; câu hỏi

phù hợp lứa tuổi, khả năng và mối quan tâm của HS; câu hỏi phải tác động
cảm xúc, thẩm mĩ của HS. Ngoài ra tác giả còn khuyên GV đặt câu hỏi phải
có kĩ thuật mới hiệu quả.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu có quy mô lớn là các bài trao đổi,
tổng kết kinh nghiệm đăng trên các báo, tạp chí như Lập hệ thống câu hỏi
trong giảng văn của Phùng Huy Triệu, NCGD, 3/1970; Một cách đặt câu hỏi
trong giảng văn của Ngô Cẩn, NCGD, 11/1972.
Những công trình nghiên cứu trên bằng hình thức này hay hình thức
khác, tiếp cận hệ thống câu hỏi trong tác phẩm văn chương từ góc độ này hay
góc độ khác cũng đều khẳng định: nếu GV biết sử dụng có hiệu quả các câu
hỏi trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn chương sẽ mạng lại niềm say mê
học tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông. Tuy các vấn đề được nêu ra
chưa được nghiên cứu một cách hệ thống nhưng những gì các tác giả cung
cấp cũng sẽ là tiền đề lý thuyết quan trọng, để từ đó, chúng tôi có thể kế thừa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
trong việc nghiên cứu và thực hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn về “Xây
dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11”.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một hệ thống câu hỏi cho việc dạy học các bài thơ trữ tình ở
lớp 11.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu về lí thuyết
- Xác định cơ sở lý thuyết cho việc giải quyết đề tài và những vấn đề
liên quan.
- Giới thuyết về thơ trữ tình (các khái niệm về thơ trữ tình và phân loại thơ).
- Lí thuyết về phương pháp dạy thơ trữ tình (dùng hệ thống câu hỏi để
dạy học tích cực hóa hoạt động cho học sinh).

4.2. Khảo sát thực tiễn
- Hiện nay giáo viên Ngữ văn dạy học thơ trữ tình như thế nào?
- Giáo viên Ngữ văn đã có những biện pháp gì để tích cực hóa hoạt động
của HS ở trường THPT hiện nay.
- Hệ thống câu hỏi của họ hiện nay như thế nào?
4.3. Thực nghiệm sư phạm
4.4. Đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng đặt câu hỏi trong dạy học
thơ trữ tình của GV
4.5. Thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của giả thuyết
khoa học
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu các vấn đề trên, luận văn kết hợp vận dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
6.1. Phương pháp tổng hợp lí luận: Dựa trên cơ sở lí luận, quy trình xây
dựng câu hỏi, các biện pháp rèn luyện kĩ năng đặt câu hỏi đã đưa ra, chúng tôi
tiến hành thực nghiệm câu hỏi ở một số bài học thơ trữ tình ở lớp 11.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra thực tiễn giảng dạy của GV để có cách nhìn nhận rõ ràng hơn
về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình
ở lớp 11 trong nhà trường hiện nay để điều chỉnh, bổ sung hệ thống câu hỏi .
- Thống kê, phân loại các câu hỏi trong SGK hiện hành (Bộ chuẩn-
2006), tìm những câu hỏi nền móng, trọng tâm, từ đó bổ sung những kĩ năng
đặt câu hỏi để kích thích tính chủ động, sáng tạo của HS.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

- Thiết kế giờ học một bài thơ trữ tình theo hướng vận dụng hệ thống
câu hỏi hướng dẫn học bài theo đặc trưng loại thể.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính đúng đắn và tính
khả thi của hệ thống câu hỏi mà luận văn đã đề xuất.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, nội dung luận văn
được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng hệ thống
câu hỏi trong dạy học tác phẩm thơ trữ tình ở lớp 11.
Chương 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HỆ THỐNG
CÂU HỎI TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn
1.1.1.1. Vai trò, tác dụng của hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn
Như chúng ta đã biết, hệ thống câu hỏi trong SGK là những định hướng
ban đầu rất cần thiết để giúp các em tự hiểu, tự khám phá tác phẩm văn học
một cách đúng hướng về cả nội dung và nghệ thuật. Vậy câu hỏi trong dạy
học văn có những vai trò như sau:
Một là: Câu hỏi trong dạy học văn sẽ giúp học sinh hiểu đúng và cảm
nhận đúng những tác phẩm văn học được học trong nhà trường. Tức là thông

qua những câu hỏi này, người HS có thể tự mình bước đầu cảm được, hiểu
được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học về cả nội dung lẫn hình thức
nghệ thuật.
Hai là: Thông qua hệ thống câu hỏi này sẽ giúp học sinh hình thành và
tự rèn luyện được một phương pháp tự tìm hiểu, khám phá và cảm nhận về
một tác phẩm văn học. Trong nhà trường phổ thông hiện nay, vấn đề học sinh
hiểu và tự cảm thụ được những tác phẩm văn học đã học trong SGK còn rất
yếu, do các em chưa được hình thành và rèn luyện tốt phương pháp đọc hiểu
cũng như phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học.
Ba là: Hệ thống câu hỏi trong SGK văn học nếu tốt còn giúp người GV
xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy tối ưu, thích hợp với hoàn
cảnh và đối tượng giảng dạy. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi thấy rằng việc
đưa ra những câu hỏi trên lớp của thầy và sự chuẩn bị câu hỏi của học sinh ở
nhà tuy có sự khác nhau nhưng đều hướng chung đến một mục đích là hỗ trợ
nhau để cùng làm sáng tỏ một cách dễ dàng hơn những điều mà nhà văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
muốn gửi gắm trong các tác phẩm của mình. Nếu như giáo án của GV chỉ có
những câu hỏi phần hướng dẫn học bài trong SGK, mà không có những câu
hỏi bổ sung thì bài giảng sẽ thiếu tính sáng tạo, thiếu sự hấp dẫn, lôi cuốn học
sinh, điều đó sẽ làm cho tiết học tẻ nhạt, học sinh sẽ không hình thành cho
mình một văn hóa đọc, không biết cách đọc đúng tác phẩm văn học.
Có thể nói, hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn có vai trò rất to lớn
trong việc hình thành và rèn luyện kĩ năng tự tiếp nhận, tự phân tích và đánh
giá TPVH - một kĩ năng hết sức cần thiết cho học sinh ngay cả khi còn ngồi
trên ghế nhà trường cũng như khi đã bước vào cuộc sống đời thường. Không
những thế, hệ thống câu hỏi này còn có vai trò hết sức quan trọng, thậm chí,
nó còn “quyết định sự thành công” trong việc dạy học văn nói chung.

Với vai trò và tầm quan trọng của hệ thống câu hỏi trong dạy học văn
như trên, chúng tôi nhận thấy: quá trình tiếp nhận TPVH của học sinh ở trên
lớp muốn có hiệu quả cao, thì khâu then chốt, quyết định đến sự thành công
của tiết học chính là hệ thống câu hỏi. Thông qua quá trình tiếp thu bài trên
lớp, học sinh có thể tự kiểm tra, bổ sung và điều chỉnh những điều mà bản
thân mình chưa hiểu, chưa rõ khi chuẩn bị bài ở nhà. Đây chính là cơ sở để
đảm bảo cho việc dạy và học theo định hướng lấy học sinh làm trung tâm,
phát huy tính tích cực và sáng tạo của người HS.
1.1.1.2. Những nguyên tắc xây dựng hê thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn
Nguyên tắc 1: Phải đảm bảo được tính khoa học và hệ thống
Câu hỏi cần đảm bảo tính chính xác về nội dung cũng như hệ thống thuật
ngữ, khái niệm. Nguyên tắc này còn biểu hiện ở tính hệ thống của câu hỏi.
Tính hệ thống thể hiện ở việc trình bày, sắp xếp và lựa chọn các câu hỏi sao
cho chúng không trùng lặp mà có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung và
làm sáng tỏ cho nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Nguyên tắc 2: Thông qua hoạt động và khuyến khích sáng tạo
Hệ thống câu hỏi này cần chú ý nhiều đến tính sáng tạo, những câu hỏi
tái hiện không thể bỏ qua nhưng không được nhiều, hay nói đúng hơn câu hỏi
tái hiện chỉ là cái cớ để nêu ra những câu hỏi sáng tạo. Những câu hỏi có vấn
đề đòi hỏi sự sáng tạo, buộc học sinh phải suy nghĩ, tìm tòi tự luận, không chỉ
đơn giản tìm thấy câu trả lời đã có trong SGK hoặc sao chép ở đâu đó.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính sư phạm và phát triển
Cần xây dựng được hệ thống câu hỏi theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Mỗi câu hỏi mới lại phức tạp hơn vì nó có mối quan
hệ với những câu hỏi phía trước đã được chuẩn bị. Hệ thống câu hỏi cần
chú ý tới tính toàn diện trong việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và tiếp

nhận tác phẩm văn học. Hỏi ở nhiều cấp độ, nhiều bình diện không chỉ nội
dung mà còn chú ý tới hình thức nghệ thuật và đặc biệt là mối quan hệ giữa
nội dung và hình thức nghệ thuật ấy. Không chỉ yêu cầu nắm bắt được nội
dung mà còn là việc hình thành cách thức, phương pháp tự học, tự nghiên
cứu của cả GV và HS.
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính nghệ thuật
Nghệ thuật mà người viết muốn nói ở đây chính là nghệ thuật sư phạm,
đó là việc sử dụng hệ thống câu hỏi một cách hấp dẫn, kích thích được trí tò
mò, muốn khám phá và tìm hiểu của người học…Tức là phải chú ý tới cách
nêu câu hỏi để gây được hứng thú cho học sinh.
Từ bốn nguyên tắc trên, chúng ta có thể rút ra những yêu cầu của câu hỏi
như sau:
- Hệ thống câu hỏi cần phải bám sát vào văn bản, tập trung vào giá trị
độc đáo của tác phẩm và có cách diễn đạt trong sáng.
- Hệ thống câu hỏi phải tập trung kích thích được trí thông minh, tư duy
sáng tạo của học sinh, tức là phải tập trung chú ý vào loại câu hỏi nêu vấn đề,
câu hỏi tìm tòi phát hiện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
- Hệ thống câu hỏi vừa phải vạch ra được quá trình phân tích, cắt nghĩa,
đánh giá tác phẩm, vừa phải nêu ra được những nhận thức về tri thức cũng
như tác dụng của tác phẩm đối với đời sống học sinh.
- Hệ thống câu hỏi phải giúp học sinh hình thành được phương pháp và
kỹ năng tự đọc, tự khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Câu hỏi
phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, tính nghệ thuật, tính sư phạm và
phải phù hợp với quy luật tiếp nhận tác phẩm văn chương.
- Để kiểm tra được những rung động thật sự của học sinh về một tác
phẩm nào đó cũng như làm tăng hứng thú học tập của các em cần có hệ thống

câu hỏi phát biểu cảm xúc, bình giá.
- Cần tránh những câu hỏi bột phát ngẫu hứng, chắp vá vụn vặt không
hệ thống, những câu hỏi mà khi hỏi đã hàm chứa câu trả lời, tránh đưa những
dữ kiện không cần thiết vào câu hỏi. Trong một câu hỏi tránh gộp những vấn
đề không hoàn toàn đồng nhất với nhau làm một.
1.1.1.3. Chức năng của câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK Ngữ văn
Quá trình đọc tác phẩm văn học trong nhà trường có nhiều điểm khác
biệt với đọc những tác phẩm văn học ngoài nhà trường. Vậy điểm khác biệt
đó là gì? Đó là một bên đọc tác phẩm có sự định hướng của người thầy, còn
một bên đọc hoàn toàn tự do, một bên đọc theo nhu cầu tìm hiểu, khám phá, lí
giải, còn bên kia đọc hoàn toàn nhằm mục đích giải trí… Như vậy, việc tiếp
nhận văn học của học sinh được học qua nhà trường là sự tiếp nhận một cách
có hệ thống, có ý thức, mang tính chủ động, tích cực. Có thể nói, hệ thống câu
hỏi trong SGK là những định hướng ban đầu rất cần thiết để từ đó giúp các
em tự tìm hiểu khám phá tác phẩm văn học đúng hướng cả về nội dung và
hình thức nghệ thuật. Từ đó có thể thấy được câu hỏi hướng dẫn học bài có
những chức năng cơ bản sau đây:
- Câu hỏi hướng dẫn học bài giúp học sinh chiếm lĩnh sơ bộ tác phẩm ở
nhà: qua việc chuẩn bị bài ở nhà, đã bước đầu xây dựng sự hiểu biết, khám

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
phá tác phẩm theo từng cấp độ của câu hỏi phần hướng dẫn học bài. Chính
con đường này đã tạo điều kiện cho các em phát triển tri thức văn học, ngôn
ngữ, tư duy, tình cảm… đó là điểm cần đạt tới của câu hỏi trong SGK. Có thể
nói, học sinh là người tự tìm hiểu tác phẩm, đây là quá trình sáng tạo chứ
không phải thụ động, điều này phải diễn ra từ sự chủ động của bản thân các
em. Chính vì vậy mà người thầy cần tìm cách tác động vào quá trình tiếp nhận
của các em, giúp các em tư nhận thức, suy nghĩ, sáng tạo hơn trong quá trình

tiếp nhận tác phẩm văn học.
- Câu hỏi định hướng cho học sinh vào những vấn đề cốt lõi của tác
phẩm: dạy học văn không phải dạy tất cả những gì có trong văn bản, mà
người GV phải biết lựa chọn, tìm ra những điểm quan trọng, toát lên được
thần thái của tác phẩm. Mỗi tác phẩm văn học có nhiều vấn đề, điều đặt ra với
câu hỏi hướng dẫn học bài là làm sao đưa người học đến với những vấn đề
trung tâm, hướng học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp, của tác phẩm nghệ thuật,
cũng có nghĩa là định hướng cho học sinh khám phá chiều sâu của tác phẩm.
Định hướng là quá trình tìm hiểu theo con đường tư duy về bản thân tác
phẩm. Con đường ấy gồm nhiều thao tác, tạo khả năng tiếp cận của học sinh,
nhằm mục đích lớn nhất là để các em tự hiểu biết tác phẩm, tự khám phá điều
mà tác giả gửi gắm trong đó.
1.1.2. Khái niệm thơ trữ tình
Theo Từ điển thuật ngữ văn học,“Tính chất các thể hóa của cảm nghĩ
và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ
trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới
những chính kiến, những tư tưởng triết học. Thuật ngữ thơ trữ tình được sử
dụng nhằm phân biệt với thơ tự sự thuộc loại tự sự”[17].
1.1.3. Đặc điểm thơ trữ tình
Nghiên cứu thơ trữ tình, chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm cơ bản sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
- Đặc điểm thứ nhất: Thơ trữ tình có nội dung chủ yếu là thế giới nội tâm
chủ quan của nhà thơ. Hiện thực khách quan được phản ánh như là đối tượng
để nhà thơ bày tỏ cảm xúc, tình cảm, tâm trạng, thái độ, tư tưởng của mình và
thế giới khách quan ấy đã mang đậm cảm xúc, tình cảm của tác giả.
- Đặc điểm thứ hai: Như chúng ta đã biết, xét về mặt kết cấu thì các bài

thơ trữ tình thường có một trục kết cấu chính đó là mạch cảm xúc và suy tư
của nhà thơ. Nó là quá trình diễn biến, phát triển xúc cảm qua một số chặng.
Và thông thường, các chặng của cảm xúc đó nương tựa vào các chặng đường
phát triển của hình tượng khách thể. Như vậy thì trong một bài thơ trữ tình sẽ
có hình tượng chủ thể trữ tình và hình tượng khách thể trữ tình đan xen vào
nhau để thể hiện một chủ đề. Hay nói cách khác, nó có kết cấu tâm trạng và
kết cấu hình ảnh.
- Đặc điểm thứ ba: Xét về mặt ngôn ngữ, lời thơ nói chung đều hàm súc,
cô đọng, nó chứa đầy, nén chặt những tình cảm, tư tưởng và giàu sức khơi gợi
trí tưởng tượng, cảm xúc ở người đọc. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ được tổ
chức một cách đặc biệt để tạo ra âm thanh, nhịp điệu, có sự kết hợp khác
thường về ngôn từ để tạo ra một ý nghĩa riêng. Đặc biệt ở ngôn ngữ thơ, các
biện pháp nghệ thuật về ngôn từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa…
được sự dụng ở mật độ cao và sáng tạo.
1.1.4. Phương pháp dạy thơ trữ tình
Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể,
GS Trần Thanh Đạm có viết: Thơ có tác dụng lớn lao đối với việc giáo dục
con người. Thơ như là một nghệ thuật của ngôn ngữ cân đối, hài hòa, du
dương, xưa nay vốn rất gần gũi, dễ tiếp nhận, dễ quen thân đối với tâm hồn
và trí tuệ của thế hệ trẻ. Trẻ em ngay từ lúc bé đã thuộc rất dễ dàng những
bài thơ cũng như các em đã thuộc những bài hát hay nhớ những câu chuyện
đời xưa… Thực tế hiện nay ở phổ thông, chúng tôi nhận thấy là các em học
sinh vẫn còn thờ ơ, lãnh đạm với thơ, các em thường ít hiểu, ít yêu thơ hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Rất ít khi gặp các em dùng những quyển sổ nhỏ để ghi chép lại những bài thơ,
những câu thơ mà mình yêu thích. Đối với nhiều em, thế giới thơ ca còn là
một thế giới hoàn toàn xa lạ, các em chỉ tiếp xúc các bài thơ trong SGK mà

thôi, còn các bài thơ hay khác thì các em hoàn toàn không biết.
Vấn để đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay, trong đó việc đổi
mới phương pháp dạy học thơ là một vấn đề hết sức cần thiết. Các nhà sư
phạm đang băn khoăn để tìm ra những phương pháp tối ưu nhất sao cho học
sinh hiểu thơ và ngày càng yêu thơ hơn. Có thể nói, những nét đặc trưng của
thơ trữ tình sẽ chi phối, quy định phương pháp chiếm lĩnh nó. Dạy thơ có
những điểm cần chú ý riêng, nhưng trước hết dạy thơ cũng phải phục tùng
những phép tắc và phương pháp của việc dạy một tác phẩm văn học nói
chung. Là một tác phẩm văn học, mỗi bài thơ có tính độc đáo về nội dung và
hình thức, ở đó một hình thức nhất định biểu hiện một nội dung nhất định.
Giảng thơ chủ yếu là giảng hình tượng thơ, là qua hình thức để giảng nội
dung, là thông qua việc phân tích các yếu tố về loại thể, kết cấu, ngôn ngữ để
làm sống dậy hình tượng với tất cả vẻ đẹp chiều sâu của nó, từ đó mà tiếp thu
và truyền đạt tư tưởng, tình cảm của tác phẩm phù hợp với yêu cầu giáo
dưỡng và giáo dục.
Ngoài ra, khi dạy thơ thì người dạy cần chú trọng đến đặc trưng riêng
của thơ, thể hiện ở cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ thơ. Học thơ là cảm và hiểu,
khi cảm và hiểu, đọc và giảng thơ đều cần lưu ý đến đặc trưng của thơ. Như
chúng ta đã biết, thơ là hình tượng trong ngôn ngữ lắng đọng và ngân vang,
thơ khêu gợi, rung động tâm hồn bằng hình và nhạc. Nếu học sinh học thơ,
mà bài thơ không gợi được cho tâm hồn, trí tuệ các em hình tượng và âm
điệu, thì các em không thể nào cảm và hiểu rồi yêu và nhớ được bài thơ đó…
Cho nên, việc dạy thơ, đọc diễn cảm và học thuộc lòng là rất quan trọng. Khi
đọc thơ, phải làm cho mỗi tiếng thơ trong sáng hết hình và ngân hết nhạc.
Phải đọc chậm rãi, thong thả, người đọc vừa say sưa với tác phẩm, vừa phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
sáng suốt để truyền cảm cho học sinh. Giọng đọc cần tự nhiên, bình tĩnh, có

sức rung động từ bên trong. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cách điệu, nhưng ở
những bài thơ hay, tính cách điệu hòa hợp với tính tự nhiên, nên khi đọc thơ,
thầy giáo vừa phải là rõ được tính cách điệu của lời thơ vừa giữ được tính tự
nhiên của giọng đọc. Các yếu tố âm, thanh, vần của thơ trong giọng đọc vẫn
nổi rõ mà vẫn gắn liền với nội dung tình cảm, tư tưởng của bài thơ, chứ không
phải tách rời nội dung đó.
Dạy thơ trong nhà trường không thể không chú ý đến việc ngâm thơ.
Qua con đường tập ngâm thơ, nghe ngâm thơ giáo viên bồi dưỡng cho học
sinh lòng yêu mến và sự hiểu biết về thơ.
Cùng với việc đọc thơ, ngâm thơ thì còn có vấn đề thuộc thơ. Thuộc thơ
là biểu hiện rõ rệt của lòng yêu thơ và mức độ hiểu thơ. Việc thuộc thơ sẽ
giúp ta hiểu thêm nhiều khía cạnh mà trước đó ta chưa thấy hết.
Vì vậy, theo chúng tôi, phương pháp chiếm lĩnh một bài thơ trữ tình có
thể theo các hướng sau:
* Yêu cầu lí tưởng: Phải làm sao cho học sinh biết “lắng nghe cho được
nhịp đập của sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim mình rung cảm trở lại
cái rung cảm của tác giả, cũng vui buồn, căm giận, thương nhớ, đợi chờ,
nâng mình lên cảm xúc với cái đẹp trong hình tượng thơ văn, nghe nhạc mà
thấy mùi hương, nghe tiếng động mà thấy tĩnh mịch, thấy bóng đèn mà bóng
tối hóa thân u… Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của thơ bằng cả con đường
thông minh, nhạy cảm, tinh vi của mình…”(Lê Trí Viễn, Những bài giảng ở
đại học).
* Quy trình tiếp cận văn bản:
- Tiếp xúc bước đầu với văn bản
+ Đọc diễn cảm: mục đích là biến văn bản thành tác phẩm trong từng
học sinh, làm sống dạy tâm tư, tình cảm của nhà thơ gửi gắm, giãi bày
trong đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
+ Giải tỏa những vướng mắc về từ ngữ.
+ Tác giả và hoàn cảnh ra đời của bài thơ (giới thiệu qua).
+ Nhìn tổng quát bài thơ: nhan đề, bố cục và hình tượng (khách thể và
chủ thể trữ tình).
- Thâm nhập vào hình tượng chủ thể trữ tình (hoặc nhân vật trữ tình).
+ Hình tượng khách thể: là bức tranh cuộc sống được tái tạo lại bằng
cảm xúc của nhà thơ với các chặng đường phát triển của nó.
+ Hình tượng chủ thể trữ tình: là mạch cảm xúc và suy tư của nhà thơ bộc
lộ trực tiếp qua ngôn từ, hình ảnh, kết cấu và qua các chặng đường phát triển
của nó.
Hai hình tượng trên nương tựa vào nhau, lồng vào nhau trong bài thơ.
- Khám phá chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
+ Vấn đề đặt ra ở đây là gì?
+ Thái độ xử lí vấn đề đó như thế nào? Điều sâu kín mà nhà thơ muốn
bày tỏ? Ý nghĩa khách quan toát ra từ hình tượng thơ?.
Lưu ý: Mỗi bài thơ là một sáng tạo độc đáo nên người dạy không thể
máy móc áp dụng quy trình trên. Tùy từng bài cụ thể mà vận dụng sáng tạo
cách tiếp cận trên.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn 11
1.2.1.1. Mục đích khảo sát
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là: “phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn
học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng lí
thuyết vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho học sinh”. Từ những định hướng trên, chúng tôi đưa
ra những mục đích của việc khảo sát như sau:

×