Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.47 KB, 19 trang )

1

Rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện
hình tượng trong dạy học thơ trữ tình ở
lớp 11 trung học phổ thông
Wrought perceptual skills and language teaching reproduced image in lyrical poetry in
grade 11 high school
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 109 tr. +

Trần Thị Hồng


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn);
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Viết Chữ
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu các vấn đề lý thuyết có liên quan làm cơ sở cho những nghiên cứu
về việc rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng. Khảo sát thực tiễn dạy học và
những biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng cho học sinh trong dạy
học thơ trữ tình ở lớp 11trung học phổ thông (THPT). Đề xuất một số biện pháp rèn kỹ
năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 THPT.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.

Keywords: Ngữ văn; Phương pháp dạy học; Thơ trữ tình; Hình tượng văn học; Kỹ năng
tri giác.

Content
1. Lí do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay đòi hỏi con người phải có năng lực,


trình độ nhận thức, hiểu biết và phải có tầm khái quát toàn diện và sâu sắc. Để đáp ứng được yêu
cầu trên thì chất lượng giáo dục phổ thông phải được nâng cao. Cùng với các môn học khác, Ngữ
văn có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục việt Nam. Ngữ văn là bộ môn nghệ thuật,
chất liệu xây dựng là ngôn từ. Hình tượng là vấn đề sống còn của nghệ thuật ngôn từ. Chính nhờ
hình tượng được ngôn ngữ tạo thành mà hình tượng văn học có tính phi hình thể và sự tổng hợp
khái quát kì lạ.
Để hiểu tác phẩm văn chương, người đọc phải huy động thoạt đầu là tri giác và sau đó là
tái hiện, liên tưởng, tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Nếu quá trình
này không xảy ra thì người đọc, dù bằng cách nào đi nữa, cũng khó có thể hiểu được sâu sắc văn
bản mình đọc.
Một xu hướng dạy học hiện đại và tiến bộ được đưa ra đó là thay đổi vị trí của người thầy
và người trò: người thầy đóng vai trò chủ đạo, thầy là người cố vấn, người kích thích, người điều
2

khiển, tổ chức và hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức, học sinh đóng vai trò tích cực, chủ động,
tự giác, tự lực trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Thực trạng các giờ dạy học văn nói chung và giờ dạy học tác phẩm trữ tình nói riêng còn
đơn điệu, tẻ nhạt, không lôi cuốn học sinh, thậm chí nhiều học sinh có tâm lí chán học văn do đó
hiệu quả dạy học không cao. Hơn nữa, các tác phẩm văn học thực sự có giá trị lại chưa có được vị
trí, chỗ đứng xứng đáng trong lòng những người yêu văn chương.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhưng nguyên nhân chính là do khi tìm
hiểu, phân tích tác phẩm văn chương chúng ta không xác định đúng “chất của loại” trong thể,
chưa bám sát đặc trưng thể loại. Mỗi tác phẩm văn chương đều tồn tại dưới hình thức một loại thể
nhất định vì thế đòi hỏi một phương pháp, một cách thức giảng dạy phù hợp. Bên cạnh đó nhiều
giáo viên trong quá trình dạy văn chưa có sự đổi mới phương pháp dạy học, chỉ chú ý đến đọc
văn, hay nói cho đúng phát âm mà không chú ý giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng tiếp nhận văn
học, đặc biệt là kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng cho học sinh.
Các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 11 đều là những tác phẩm đạt
tới trình độ nghệ thuật cao. Để đọc hiểu các tác phẩm đó đòi hỏi học sinh phải được rèn luyện thực sự,
đúng phương pháp để bồi dưỡng, phát huy hết khả năng tiềm ẩn, tạo cho các em niềm yêu thích bộ

môn và có những năng lực văn học nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khi giảng dạy, giáo viên
chưa chú ý tới việc tri giác ngôn ngữ của học sinh, không giúp học sinh rèn luyện trí tưởng tượng tái
hiện để khai thác chiều sâu tư tưởng, giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài : Rèn kỹ năng tri giác ngôn
ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 trung học phổ thông. Với đề tài
này, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp, cách thức rèn luyện kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái
hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình để góp phần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở
cấp trung học phổ thông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi lưu tâm đến những ý kiến thuộc hướng nghiên cứu về
năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình.
Trong chuyên đề Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông, tác giả Nguyễn Viết Chữ đã khẳng định: “phát triển năng lực tiếp nhận của học sinh là hạt
nhân của quá trình dạy học văn hiện đại”. Trong Hiểu văn, dạy văn, tác giả Nguyễn Thanh Hùng
cũng cho rằng muốn cắt nghĩa văn bản “…phải nghiên cứu và xác định mối quan hệ bên trong
mỗi tác phẩm trữ tình thông qua tác động và chức năng của hình tượng âm thanh, của cấu trúc câu
thơ, của khổ thơ, của tính hình ảnh”. Như vậy, để cắt nghĩa văn bản đòi hỏi người dạy và người
học phải nhận diện được hình thức nghệ thuật, các mối quan hệ bên trong của tác phẩm trữ tình.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu có giá trị như: Tác phẩm trữ tình và
phương pháp giảng dạy của Nguyễn Thanh Hùng, Về sự phân tích tác phẩm ngôn ngữ trong nhà
3

trường (Tạp chí ngôn ngữ số 2/1975) của Đinh Trọng Lạc, Suy nghĩ về một phương pháp phân
tích văn bản thơ của Trần Ngọc Thêm đăng trên Tạp chí văn học số 5/1981, Phương pháp giảng
dạy văn, Văn chương bạn đọc sáng tạo, Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn… của Phan Trọng
Luận, Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương của Nguyễn Trọng Hoàn
Bên cạnh đó còn có một số luận văn, khóa luận nghiên cứu về phương pháp dạy học thơ trữ
tình trong nhà trường phổ thông như: Lê Thị Thúy Huân với đề tài: Giảng dạy Thơ mới (1930-1945)
trong trường Trung học phổ thông, Phương pháp giảng dạy thơ mới từ góc độ thi pháp của Nguyễn
Thị Lượm, Nguyễn Thị Na với Tận dụng lợi thế của phương pháp đọc sáng tạo trong dạy học các tác

phẩm Thơ mới ở lớp 11, ban cơ bản, trung học phổ thông
Trân trọng, kế thừa các tư tưởng đi trước và vận dụng linh hoạt, chúng tôi tiến hành thực
hiện luận văn này mong muốn tìm ra các biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao chất lượng dạy
học thơ trữ tình ở cấp trung học phổ thông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học thơ trữ tình để xác định các biện pháp rèn kỹ năng tri
giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng cho học sinh.
- Góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung và rèn năng lực cảm thụ, năng
lực tiếp nhận văn học trong dạy học thơ trữ tình nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý thuyết có liên quan làm cơ sở cho những nghiên cứu về việc
rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy
học thơ trữ tình ở lớp 11 THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Điều tra dạy học thực nghiệm một số lớp 11 của trường THPT Kinh Môn II và trường
THPT Kinh Môn. Cả hai trường đề nằm trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tập trung vào việc rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong
dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 THPT, cụ thể là vận dụng các biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn
ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học một số tác phẩm thơ trữ tình tiêu biểu như Vội vàng của
Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp phân tích , tổng hợp
5.2. Nhóm phương pháp điều tra, khảo sát
4


5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5.4. Phương pháp thống kê
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
- Góp phần hệ thống hoá lý luận về dạy học văn THPT nói chung và và dạy học thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn 11 nói riêng.
- Góp thêm cơ sở khoa học cho việc đổi mới phương pháp dạy và học văn THPT.
6.2. Về thực tiễn
- Đề xuất các cách thức rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học
thơ trữ tình lớp 11cho học sinh THPT. Luận văn đưa ra một số thiết kế cụ thể cho một số văn bản
được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 11, giúp giáo viên tham khảo và vận dụng trong
giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn
được trình bày trong 03 chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận về rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng
trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 trung học phổ thông.
Chương 2: Thực tiễn dạy học và những biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ, tái hiện
hình tượng cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11trung học phổ thông
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

CHƢƠNG 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÈN KỸ NĂNG TRI GIÁC
NGÔN NGỮ, TÁI HIỆN HÌNH TƢỢNG TRONG DẠY HỌC
THƠ TRỮ TÌNH Ở LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái niệm về kỹ năng
Theo từ điển Tiếng Việt, kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức trong một lĩnh
vực nào đó vào thực tế.
Có nhiều quan điểm về vấn đề này, chúng tôi chấp nhận cho rằng kỹ năng như là phương
thức, cách thức hành động được con người nắm vững, là khả năng con người thực hiện hành động

một cách có kết quả.
1.2. Ngôn ngữ và hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng
1.2.1. Ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật và đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu thực hiện các chức năng nhận thức và giao tiếp trong quá
tình hoạt động của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người có thể truyền đạt cho nhau những tư
tưởng, tình cảm… của mình.
5

Ngôn ngữ nghệ thuật được cấu tạo nên từ hệ thống ngôn ngữ tự nhiên nhưng được tổ chức,
cấu tạo lại chức năng thẩm mỹ trong toàn bộ cấu trúc tác phẩm và trong quan hệ với những nhân tố
của hoạt động sáng tác, tiếp nhận văn chương.
Đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật: tính cấu trúc của ngôn ngữ nghệ thuật, tính hình tượng của
ngôn ngữ nghệ thuật, tính truyền cảm, tính cá thể hóa của ngôn ngữ nghệ thuật, tính cụ thể hóa
của ngôn ngữ nghệ thuật.
1.2.2. Hình tượng, hình tượng nghệ thuật và đặc trưng của hình tượng nghệ thuật
Trong nghiên cứu văn học, hình tượng là khái niệm được xem xét ở nhiều khía cạnh: Hình
tượng như là một chi tiết có màu sắc, hình ảnh, một ẩn dụ hoặc một hình thức chuyển nghĩa khác
gắn với nghĩa bóng; hình tượng như là một nhân vật văn học
Hình tượng nghệ thuật là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng, sáng
tạo trong tác phẩm nghệ thuật.
Mỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ không phải là một thực thể vật thể mà là một hệ thống ký
hiệu ngôn ngữ.
Để tái hiện hình tượng nghệ thuật một cách hoàn chỉnh thì phải tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật, và để tri giác ngôn ngữ thì cần tri giác được nghĩa từ vựng. Trên cơ sở nghĩa từ vựng, người
đọc mới liên tưởng, tưởng tượng để tìm ra nghĩa hình tượng.
1.3. Năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tƣợng nghệ thuật
1.3.1. Năng lực và năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật
Năng lực là “sức làm việc, trình độ thành thạo của một người có điều kiện tự nhiên hay do
rèn luyện, học tập… tạo ra để làm tốt mọi việc” .
Năng lực tri giác ngôn ngữ ở đây là cảm nhận được những thông tin nghệ thuật từ hệ thống

tín hiệu ngôn ngữ hình tượng. Không tri giác được ngôn ngữ nghệ thuật, lớp vỏ vật chất của tác
phẩm thì không thể đi vào thế giới sống động, phập phồng hơi thở bên dưới các con chữ - các kí
hiệu câm lặng của tác phẩm.
Biểu hiện tiếp theo của năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật là khả năng giải mã các
thông tin nghệ thuật vừa tri giác được, nếu không giải mã được các thông tin nghệ thuật thì sẽ
không hiểu được tác phẩm.
Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của học sinh còn được biểu hiện ở khả năng biết tri
giác “điểm sáng thẩm mĩ” có định hướng.
1.3.2. Năng lực tái hiện hình tượng trong tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật ngôn từ
Tái hiện hình tượng nghệ thuật là làm cho nhân vật “đi đứng, nói năng, khóc cười, cuộc
sống đang vận động, đang chuyển trước mắt người đọc”. Nói như Stanilapxki là phải làm cho
người đọc “nhìn bên trong” tác phẩm. Muốn được như vậy, học sinh cần có khả năng tưởng tượng
để dựng lại hiện thực cuộc sống mà nhà văn đã xây dựng.
6

Năng lực tái hiện hình tượng của học sinh được biểu hiện ở chỗ các em biết bám sát bài
thơ, trung thành với văn bản, tái hiện chính xác các chi tiết nghệ thuật do tác giả xây dựng nên. Có
như vậy công việc tái hiện hình tượng mới không rơi vào trạng thái qua loa, hời hợt, “diễn nôm”.
Bên cạnh đó, người có năng lực tái hiện hình tượng sẽ biết hướng sự tái hiện vào việc làm nổi bật
tư tưởng, chủ đề của bài thơ, biết lấy ý nghĩa của các hình tượng thơ làm đích cho sự tái hiện của
mình.
Muốn tái hiện hình tượng tốt cần phải biết tưởng tượng. Vấn đề năng lực tưởng tượng lệ
thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện vốn sống, vốn văn hóa, thói quen văn học, năng lực đọc và hiểu
biết về ngôn ngữ nghệ thuật…
1.3.3. Năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình
của học sinh lớp 11 THPT
Học sinh lớp 11 THPT, ở lứa tuổi này tuy các em chưa trưởng thành như những học sinh
khối lớp 12 nhưng các em cũng không còn non nớt , bỡ ngỡ như học sinh lớp 10. Vì vậy, hoạt
động tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng của học sinh lớp 11 có bước phát triển hơn so với học
sinh lớp dưới. Hơn nữa, lứa tuổi này dễ xúc động, vui buồn chuyển hóa dễ dàng. Sự phát triển

mạnh mẽ về cảm xúc giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình – là
tiếng nói của cảm xúc thi nhân.
Bên cạnh đó, sự chuyển biến trong phát triển năng lực văn ở lứa tuổi học sinh lớp 11 cũng
ảnh hưởng quyết định đến năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng ngôn từ
của các em.
Nhìn chung, với học sinh lớp 11, các phẩm chất tư duy đã có bước phát triển nhưng việc
cảm thụ còn chưa nhanh, chưa trúng; khả năng tái hiện hình tượng ở nhiều học sinh còn hạn chế.
Vì thế, rất cần các biện pháp hỗ trợ, kích thích của giáo viên thì khả năng đó mới có thể phát triển
bền vững và ổn định.
1.4. Thể loại văn học
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (Đồng chủ biên) xác định thể loại văn học như sau: Thể loại văn học là dạng thức của
tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử
văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện
tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng
đời sống ấy.
Các tác giả trong cuốn “Lí luận văn học” quan niệm: “Thể loại tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung nhất định có một
hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể”
Có nhiều cách hiểu về thể loại văn học nhưng theo chúng tôi: Thể loại văn học là phương
thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản.
7

Tác phẩm văn học được chia ra làm ba loại chính: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ
tình, loại tác phẩm kịch.
1.5. Thơ trữ tình và yêu cầu dạy học thơ trữ tình
1.5.1. Thơ trữ tình
Thơ trữ tình là một thể thơ thuộc loại trữ tình, thể hiện trực tiếp những cảm xúc, suy tư của
nhà thơ trước các hiện tượng của đời sống, mang đậm tính cá thể hóa và dấu ấn chủ quan của nhà
thơ.

1.5.2. Đặc điểm thơ trữ tình
1.5.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật thơ trữ tình
Ngôn ngữ thơ trữ tình vừa mang đặc điểm chung của ngôn ngữ tác phẩm văn học là tính
hình tượng và tính hàm súc nhưng cũng có những đặc điểm riêng.
Trước hết, ngôn ngữ thơ trữ tình cô đọng, gợi cảm, bão hòa cảm xúc. Ngôn ngữ thơ trữ
tình không khách quan như ngôn ngữ tự sự; lời thơ trữ tình thường là lời đánh giá trực tiếp, thể
hiện một quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Hơn nữa, lời thơ trữ tình phải khác thường.
Một trong những đặc điểm nổi bật nữa của ngôn ngữ thơ trữ tình là ngôn ngữ thơ giàu
nhạc tính.
1.5.2.2. Đặc điểm hình tượng thơ trữ tình
Hình tượng thơ trữ tình là hình tượng con người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm
trạng trong tác phẩm. Để tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng thơ trữ tình, chúng ta
cần phân biệt nhân vật trữ tình và nhân vật trong thơ trữ tình.
Thơ trữ tình luôn mang lại quan niệm về một cá nhân con người cụ thể, sống động, một cái
“tôi” có nỗi niềm riêng.
Trong thơ trữ tình, nhà thơ có thể hóa thân trong một nhân vật khác, tạo thành nhân vật trữ
tình nhập vai.
Rèn kĩ năng tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng ngôn từ là giúp học sinh
nhân ra nhân vật trữ tình, nhân vật trong tác phẩm thơ trữ tình và nhân vật trữ tình nhập vai. Phải
phát hiện ra mạch vận động cảm xúc của chủ thể trữ tình để từ đó làm sống dậy hình tượng cảm
xúc của bài thơ.
1.6. Yêu cầu luyện tập kỹ năng cho học sinh
Theo quan điểm của dạy học hiện đại là dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, các đối
tượng học sinh đều được suy nghĩ, tìm tòi, khám phá,…Để có thể nhận diện và giải mã các “điểm
sáng thẩm mĩ”, tái hiện chuẩn xác hình tượng để dựng lại bức tranh đời sống mà nhà văn phản ánh
trong tác phẩm. Từ đó, lần ra “điều mới mẻ” mà nhà văn gửi gắm tới bạn đọc.
Việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng trên trong dạy học thơ trữ tình cần thiết hơn cả và
cũng thuận lợi, khó khăn hơn cả. Cần thiết là do thơ trữ tình mở ra cảm xúc điển hình tiêu biểu
cho con người. Thuận lợi là bởi ngôn ngữ nghệ thuật thơ trữ tình hàm súc và giàu nhạc tính. Hình
8


tượng thơ là hình tượng cảm xúc, dễ gây cảm hứng cho người đọc. Bên cạnh những thuận lợi, khó
khăn của việc tiếp thu thơ ca trữ tình cũng chính ở nội dung hàm súc và hình thức tinh tế của bài
thơ.
Đáp ứng yêu cầu rèn luyện kỹ năng cơ bản của học sinh trong quá trình dạy học văn nói
chung và dạy học thơ trữ tình nói riêng, người giáo viên Ngữ văn cần định hướng rèn luyện cho
các em những năng lực nhất định. Một trong những năng lực cần thiết đối với các em là năng lực
tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng nghệ thuật.

CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN DẠY HỌC VÀ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG TRI GIÁC NGÔN NGỮ, TÁI
HIỆN HÌNH TƢỢNG TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH Ở LỚP 11 TRUNG HO
̣
C PHÔ
̉

THÔNG
2.1. Khảo sát khả năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tƣợng thơ trữ tình của học sinh
2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát thực trạng dạy và học thơ trữ tình ở trường THPT để thấy được những ưu điểm và
hạn chế của năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng thơ trữ tình, nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế, yếu kém để từ đó đề xuất những biện pháp cụ thể cho đề tài của luận văn.
2.1.2. Đối tượng khảo sát
Chúng tôi chọn đối tượng khảo sát là:
- Giáo viên trực tiếp giảng dạy: 33 giáo viên thuộc ba trường THPT Kinh Môn II, THPT
Kinh Môn và THPT Phúc Thành.
- Học sinh khối 11 thuộc ba trường THPT Kinh Môn II, THPT Phúc Thành và THPT Kinh
Môn trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
2.1.3. Phương pháp khảo sát
- Chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra giáo viên và học sinh.

- Dự giờ, quan sát hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học của sinh lớp 11.
- Thống kê, nghiên cứu định hướng nội dung, phương pháp dạy học các tác phẩm thơ trữ
tình trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
2.1.4. Nội dung khảo sát
- Đặc điểm, định hướng rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ trữ tình qua
hệ thống câu hỏi tìm hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn 11.
- Phương pháp tổ chức học sinh tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ
trữ tình.
- Khảo sát năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ trữ tình của học sinh qua
giờ học văn.
2.1.5. Thời gian, địa điểm khảo sát
9

Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành làm đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát trong thời
gian tháng 1 và tháng 2 năm 2012. Địa điểm cụ thể là ba trường THPT: Khối 11- Trường THPT
Kinh Môn II, khối 11 - Trường THPT Phúc Thành và khối 11- Trường THPT Kinh Môn.
2.1.6. Kết quả khảo sát
2.1.6.1.Khảo sát việc rèn năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ trữ tình đặt ra
trong sách giáo khoa.
Bảng 2.1. Thống kê số câu hỏi tri giác ngôn ngữ và tái hiện
hình tượng thơ trữ tình của các bài thơ trữ tình hiện đại lớp 11
STT
Tên bài thơ
Tổng số
câu hỏi
phần
hƣớng
dẫn học
bài
Câu hỏi

tri giác
ngôn ngữ
Tỉ lệ %
Câu hỏi
tái hiện
hình
tƣợng
Tỉ lệ %


2.1.6.2. Khảo sát phương pháp dạy thơ trữ tình của giáo viên trung học phổ thông
- Tiến hành khảo sát giáo án của giáo viên đang dạy trực tiếp Ngữ văn 11 ở ba trường:
THPT Kinh Môn II, THPT Kinh Môn và THPT Phúc Thành (ba trường đều thuộc huyện Kinh
Môn, Hải Dương)
- Tiến hành khảo sát giáo viên bằng phiếu 5 câu hỏi với tất cả giáo viên của tổ Ngữ văn ở ba
trường trên (33 giáo viên)
Kết quả như sau:
Bảng 2.2. Thống kê kết quả khảo sát giáo án
STT
Tên trƣờng
THPT
Số
giáo
án
khảo
sát
Kết quả khảo sát
Có chú trọng
rèn năng lực tri
giác ngôn ngữ,

tái hiện hình
tƣợng
Tỉ lệ
%
Chƣa chú trọng
rèn năng lực tri
giác ngôn ngữ,
tái hiện hình
tƣợng
Tỉ lệ
%

Bảng 2.3. Thống kê kết quả phiếu khảo sát giáo viên
Nội dung khảo sát
Số giáo viên lựa chọn
Tỉ lệ %

2.1.6.3. Khảo sát năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ trữ tình của học sinh qua
giờ học văn
10

Chúng tôi đo năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng thơ trữ tình của
học sinh bằng điều tra qua phiếu bài tập để học sinh làm bài (thời gian 15 phút). Mỗi phiếu được
khảo nghiệm trên học sinh khối 11 ở 3 trường: THPT Phúc Thành, THPT Kinh Môn và THPT
Kinh Môn II.
Bảng 2.4. Thống kê kết quả khảo sát năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật
Bài
Trƣờng
Lớp
Tổng

số học
sinh
Kết quả tri giác

Tốt
%
Chƣa
tốt
%
Tri
giác
sai
%

Bảng 2.5. Thống kê kết quả khảo sát năng lực tái hiện hình tượng
thơ trữ tình
Bài
Trƣờng
Lớp
Tổng
số học
sinh
Kết quả tái hiện hình tƣợng
Tốt
%
Chƣa
hoàn
chỉnh
%
Không

tái
hiện
%

2.1.7. Kết luận về năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng nghệ thuật trong dạy học thơ
trữ tình ở lớp 11 THPT
Các văn bản thơ trữ tình ở chương trình lớp 11 bao gồm thơ trữ tình trung đại và thơ trữ tình
hiện đại. Số lượng các tác phẩm thơ trữ tình so với số lượng văn bản chiểm tỉ lệ khá lớn.
Khảo sát hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài trong tất cả các bài thơ hiện đại ở lớp 11, tác giả luận
văn cũng nhận thấy có 39,5% là câu hỏi tri giác ngôn ngữ nghệ thuật; 11,6% câu hỏi yêu cầu học
sinh tái hiện hình tượng nghệ thuật. Số liệu trên chứng tỏ sách giáo khoa đã có chú ý tới việc rèn
năng lực tri giác ngôn ngữ cho học sinh, nhưng việc rèn luyện năng lực tái hiện hình tượng nghệ
thuật lại chưa được chú trọng.
Qua dự giờ, xem xét giáo án các tiết dạy thơ trữ tình hiện đại; dựa vào kết quả khảo sát giáo
viên, tác giả luận văn thấy nhìn chung các thầy cô đã chú ý khai thác tác phẩm thơ trữ tình trong
mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức và nội dung.
Điều đáng lưu tâm hơn cả ở các tiết đọc hiểu văn bản thơ là có ít hoặc thiếu hệ thống bài tập
rèn luyện. Các thầy cô chỉ cố truyền tải cho xong kiến thức. Hầu hết bài giảng không khai thác sâu
hình thức biểu hiện, có bài tập thì cũng chỉ là các bài tập đánh giá, cảm thụ, nhưng số lượng bài
tập dạng này cũng rất ít. Bài tập rèn cho học sinh năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng
thơ hầu như bỏ trống.
11

Căn cứ vào kết quả khảo sát, có đến 23,3% học sinh tri giác ngôn ngữ nghệ thuật sai và
43,7% số học sinh ngôn ngữ nghệ thuật chưa tốt. Như vậy,
năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của học sinh rất yếu
Khảo sát về năng lực tái hiện hình tượng: 75,6 % số học sinh được khảo sát bỏ trống hoặc
tái hiện hình tượng không tốt. Điều này cho thấy năng lực tái hiện hình tượng của học sinh còn
yếu hơn cả năng lực tri giác ngôn ngữ.
Tuy nhiên, có 24,4% học sinh khảo sát được hình tượng tốt. Các em đã làm sống dạy hình

tượng ẩn đằng sau những câu chữ, hình tượng được tái hiện hoàn chỉnh, trọn vẹn và biết hướng sự
tái hiện vào việc làm nổi rõ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
2.2. Biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tƣợng trong dạy học thơ trữ
tình ở lớp 11 trung học phổ thông
2.2.1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc
Dạy thơ trước hết phải bám vào phương pháp giảng dạy các tác phẩm văn học nói chung.
Dạy thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình hiện đại nói riêng phải bám vào đặc điểm thi
pháp của nó.
Biết tích hợp chặt chẽ với Tiếng Việt để đi sâu khai thác các yếu tố nghệ thuật ngôn từ.
Biết huy động quan niệm sống, vốn sống, kinh nghiệm trong việc liên tưởng, tưởng tượng
để tái hiện hình tượng trong thơ trữ tình.
Câu hỏi phải thích hợp với khuôn khổ của một giờ học trên lớp, phải giải mã được ngôn
ngữ, cắt nghĩa được ngôn từ và khơi gợi được khả năng tái hiện hình tượng của học sinh.
2.2.2. Một số biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng cho học sinh
2.2.2.1. Tích hợp kiến thức để giải mã ngôn ngữ nghệ thuật thơ trữ tình
Điều quan trọng và cũng là nghệ thuật dạy học của người thầy là biết gợi liên tưởng đúng
lúc để học sinh nhớ lại một cách hệ thống các kiến thức tiếng Việt liên quan. Từ đó, vận dụng vào
phân tích, cắt nghĩa ngôn từ tác phẩm trong mối quan hệ hữu cơ với tư tưởng chủ đề và mạch cảm
xúc của chủ thể trữ tình. Dạy Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cần định hướng cho học sinh
kiến thức về cách sử dụng danh từ, động từ, liên từ, từ láy… để khai thác giá trị từ, ngữ, hình ảnh
thơ. Các động từ: ôm, riết, say, thâu thể hiện thái độ chủ động chạy đua với thời gian của tác giả
để giành giật tuổi trẻ, tình yêu.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng phải chú ý: Học bài hôm nay phải ôn lại kiến thức hôm qua và
định hướng cho tiếp thu kiến thức ngày mai. Dạy bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử vận dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ, điệp ngữ….Nếu
không có tư duy tổng hợp kiến thức đã học, không thể phân tích sâu sắc giá trị các hình ảnh tác giả sử
dụng trong bài thơ.
Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong rèn luyện năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật, tái hiện hình tượng thơ trữ tình vừa phù hợp với yêu cầu đổi mới chương trình sách giáo
12


khoa; vừa là cơ sở khoa học tiên quyết để giải mã ngôn ngữ thơ; tạo cho học sinh tư duy chính
xác, nắm vững giá trị đặc sắc ngôn từ; từ đó rèn trí tưởng tượng không sáo mòn, gượng ép; năng
lực tái hiện hình tượng được phát huy.
Khi dạy học thơ trữ tình, ngoài việc bám sát đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng thể
loại, giáo viên cần chú ý vận dụng đúng hướng và linh hoạt quan điểm tích hợp.
2.2.2.2. Bằng biện pháp đọc thơ để phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng nghệ
thuật
Xuất phát từ đặc thù của môn học, đọc là một hoạt động không thể thiếu. Trong dạy học
thơ trữ tình, đọc càng có vai trò quan trọng vì nó gắn liền với tiếp nhận, là biểu hiện của tiếp nhận,
mang đậm dấu ấn cá nhân của người đọc trong từng cảm nhận của mình về tác phẩm. Đọc văn
không chỉ là việc phát âm thông thường mà là quá trình tri giác ngôn ngữ nghệ thuật; đồng thời
với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm của bản thân người đọc để lựa chọn nét nghĩa thích hợp
cho văn bản.
Để hoạt động đọc góp phần vào tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng thơ cần phải
chú ý cách đọc cho tốt.
Muốn đọc tốt phải đi từ việc đọc đúng. Đọc đúng là đọc hoàn trả trung thành thông tin về
nội dung bài thơ. Phải khắc phục tối đa những lỗi về phát âm, chính tả, ngữ pháp khi đọc.
Từ khi đọc đúng đến đọc hay. Đọc hay là khả năng biết phối hợp tốt nhất chất giọng của người
đọc để làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của bài thơ.
Từ đọc đúng, đọc hay tới đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là khả năng đọc làm sáng rõ tính chất
hình tượng, cảm xúc trong thơ trữ tình, để làm sáng hết hình ảnh và vang ngân nhạc tính của thơ
như Giáo sư Trần Thanh Đạm nói: “Đọc cho vang nhạc sáng hình’
Bên cạnh đó, đọc thầm cũng là biện pháp quan trọng giúp học sinh tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật và tái hiện hình tượng thơ.
Ngoài ra, đọc chậm bài thơ cũng hỗ trợ cho tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình
tượng cảm xúc.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý tìm đọc và huy động những tri thức mang tính tạo
đà, đóng vai trò làm ngữ cảnh rộng cho một bài thơ trữ tình nhằm khởi động, định hướng học sinh
tìm hiểu, cắt nghĩa ý nghĩa hàm ẩn trong thơ. Đó là những tri thức về bối cảnh xã hội, văn hóa;

những tri thức về tác giả (như tiểu sử, sự nghiệp văn học, đặc trưng tư duy nghệ thuật, phong cách
nghệ thuật của tác giả); và sau hết là tri thức về chính bài thơ trữ tình được học (gồm hoàn cảnh ra
đời của bài thơ, các dị bản hay sửa chữa, những thay đổi mang tính quyết định tới nội dung cảm
xúc của toàn bài).
2.2.2.3. Sử dụng câu hỏi để phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng nghệ thuật
trong dạy học thơ trữ tình
13

Câu hỏi nhằm phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng nghệ thuật cho học
sinh là một bộ phận trong hệ thống câu hỏi dạy học tác phẩm văn chương. Đó là câu hỏi dựa trên
đặc trưng tư duy văn học, hướng vào khai thác tính nghệ thuật của tác phẩm, tính lôgic khoa học
của kiến thức trên cơ sở phù hợp với khả năng tự phát triển của học sinh.
Việc đặt câu hỏi nói chung và câu hỏi phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình
tượng nói riêng trong giờ dạy học văn giúp khắc phục nhược điểm của kiểu dạy học truyền thụ
kiến thức một chiều. Bên cạnh đó, nó đòi hỏi những yêu cầu chặt chẽ của tính khoa học và tư duy
tiếp nhận nghệ thuật. Xây dựng hệ thống câu hỏi phải dựa trên nghiên cứu về:
- Nguyên tắc cấu tạo hình tượng thơ trữ tình
- Đặc trưng tư duy và tâm lí của lứa tuổi học sinh THPT
- Mục tiêu bài học
Câu hỏi tri giác ngôn ngữ nghệ thuật trong giờ dạy học văn là những câu hỏi phát hiện;
cũng có thể là dạng câu hỏi gợi mở, dẫn dắt. Dạng câu hỏi này giúp giáo viên tìm ra phản ứng
trực giác của học sinh bị tác động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng
ban đầu. Qua câu trả lời của trò, giáo viên có thể phát hiện ngay sự “nhanh nhạy” trong cảm
thụ của trò. Ví dụ: Giáo viên có thể hỏi học sinh như sau
- Cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu?
- Điệp từ tôi muốn trong bốn dòng thơ đầu bài thơ Vội vàng gợi cho em ấn tượng gì?
- Ấn tượng của em khi đọc câu thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”?
Tuy nhiên, khi sử dụng câu hỏi tri giác ngôn ngữ nghệ thuật, giáo viên phải thận trọng để
không rơi vào tình trạng câu hỏi bị tản mạn, vụn vặt. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng tri giác vụn
lẻ, phá vỡ tính chỉnh thể của hình tượng.

Câu hỏi tái hiện hình tượng giúp người đọc xác nhận sự hình dung của
mình dưới tác động của hình tượng văn học. Muốn vậy, dạng câu hỏi này, nghiêng về khơi gợi trí
tưởng tượng của học sinh, khiến cho văn bản là thế giới những kí hiệu được sống dậy như một
sinh mệnh nghệ thuật đích thực. Ví dụ: Khi dạy Tràng giang của Huy Cận, giáo viên có thể đặt
câu hỏi cho học sinh như sau: Em hãy tưởng tượng và miêu tả bức tranh ở khổ cuối bài thơ Tràng
giang?
Loại câu hỏi tái hiện hình tượng chiếm tỉ lệ không lớn trong hệ thống câu hỏi của một giờ
dạy văn nhưng nó lại rất quan trọng; bởi nếu không có bước tiến tái hiện hình tượng sẽ không có
sự thâm nhập vào tác phẩm. 2.2.2.4. Sử dụng hệ thống bài tập rèn năng lực tri giác ngôn ngữ
nghệ thuật và tái hiện hình tượng thơ
a. Mục đích, nguyên tắc thiết lập bài tập.
b. Nội dung và hình thức bài tập rèn luyện năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng
nghệ thuật.
* Bài tập tri giác ngôn ngữ nghệ thuật thơ trữ tình
14

- Mục tiêu: Củng cố mức độ nhận thức, khả năng nhạy bén, tinh tế trước vẻ đẹp “điểm sáng
thẩm mĩ” trong văn bản.
- Hình thức: Là những bài tập trắc nghiệm rèn kỹ năng đọc, nghe để nhận biết biểu hiện của
ngôn ngữ nghệ thuật.
- Vận dụng: Sử dụng cho việc dẫn vào bài hay luyện tập để kiểm tra, nắm bắt tinh thần tự
đọc, đánh giá khả năng nhận biết ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm của học sinh.
- Yêu cầu đạt:
+ Thuộc lòng bài thơ, nắm vững kiến thức tác phẩm đã học trước và kiến thức liên môn có
liên quan để giải mã ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm.
+ Nhận biết được các yếu tố ngôn ngữ đặc sắc, các phép chuyển nghĩa… trong mạch cảm
xúc trữ tình và tư tưởng nghệ thuật ấy.
- Nội dung bài tập: Nhận biết khái quát giá trị tác phẩm, nghĩa ngôn từ, nghĩa văn cảnh,
mạch cảm xúc thơ; phát hiện hình ảnh đặc sắc, giọng điệu
tác phẩm….

* Bài tập tái hiện hình tượng thơ trữ tình
- Mục tiêu: Phát huy khả năng tưởng tượng, liên tưởng để tái hiện hình tượng cảm xúc của
bài thơ.
- Hình thức: Thiết lập chủ yếu theo hình thức tự luận.
- Vận dụng: Củng cố, luyện tập năng lực tư duy hình tượng.
- Yêu cầu cần đạt:
+ Học sinh biết tái hiện hình tượng một cách chân thực và chính xác các chi tiết nghệ thuật
do tác giả dựng nên. Biết hướng sự tái hiện của mình vào việc làm rõ chủ đề của bài thơ.
+ Với học sinh khá giỏi cần biết tái hiện có khái quát các chi tiết theo một hệ thống hình
tượng trọn vẹn.
- Nội dung dạng bài tập: vẽ tranh minh họa, tái hiện một tình huống then chốt hoặc toàn tác
phẩm, đặt lại tên tác phẩm, đọc diễn cảm….
CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm là một nhiệm vụ và là một khâu quan trọng mà người nghiên cứu
nhằm kiểm chứng, đánh giá tính khả thi, đúng đắn, hiệu quả của đề tài.
3.2. Yêu cầu thực nghiệm
Giáo án và quá trình thực nghiệm phải thể hiện được tương đối rõ nét việc vận dụng các
biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện hình tượng thơ trữ tình vào thực tế
dạy học; đồng thời quá trình vận dụng đó cũng phải thể hiện được những hiệu quả bước đầu trong
việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi tiếp nhận một văn bản văn học.
15

3.3. Địa bàn, đối tƣợng và bài thực nghiệm
Chúng tôi chọn đối tượng là học sinh lớp 11B, lớp 11C, lớp 11G, lớp 11 H
trường THPT Kinh Môn II; lớp 11D, 11E trường THPT Kinh Môn. Cả 2 trường đều trên địa bàn
huyện Kinh Môn, Hải Dương.
Bài dạy thực nghiệm là các văn bản Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận.
3.4. Nội dung và tiến trình thực nghiệm

3.4.1. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành tổ chức dạy học thực nghiệm ở khối lớp 11, nội dung bài học theo
Sách giáo khoa, theo phân phối chương trình và theo tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Cụ thể:
Tiết 77 + 78: Đọc văn Vội vàng của Xuân Diệu
Tiết 79 + 80: Đọc văn Tràng giang của Huy Cận
3.4.2. Tiến trình thực nghiệm
Sau khi chọn địa bàn, chọn lớp thực nghiệm, chọn giáo viên thực nghiệm, chọn bài thực
nghiệm và soạn giáo án thực nghiệm theo định hướng của đề tài, chuẩn bị bài kiểm tra chu đáo.
Chúng tôi tiến hành dạy học đối chứng và dạy học thực nghiệm, tổ chức kiểm tra, đánh giá một
cách khách quan, công bằng, chính xác. Tiếp đó tiến hành phân tích kết quả dạy đối chứng và dạy
thực nghiệm
3.5. Kết quả thực nghiệm
- Từ phía giáo viên thực nghiệm: Qua các tiết dạy thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy giáo
viên đã chú ý phát huy vai trò tích cực, chủ động của học sinh, khai thác “điểm sáng thẩm mĩ”, tái
hiện hình tượng tác phẩm. Đặc biệt với sự hỗ trợ của các biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ
và tái hiện hình tượng thơ trữ tình đã thực sự giúp học sinh mạnh dạn phát hiện vấn đề và có
những tưởng tượng phong phú độc đáo, tạo được một không khí học tập dân chủ, sôi nổi, khơi gợi
được hứng thú cho học sinh.
- Từ phía học sinh thực nghiệm: Qua quá trình tiếp xúc, quan sát, dự giờ, phiếu học tập,
trao đổi trực tiếp, chúng tôi nhận thấy các em đã có hứng thú với bài học, tích cực, chủ động trong
việc nắm bắt kiến thức. Năng lực tái
hiện hình tượng của các em đã có sự tiến bộ.
- Kết quả từ phiếu kiểm tra:
Bảng kết quả kiểm tra lớp đối chứng và lớp thực nghiệm
Bảng 3.1. Bảng kết quả kiểm tra lớp 11B, 11C
Xếp loại
Lớp
Giỏi (8- 10)
Khá (điểm 7)

Trung bình
(5-6)
Yếu – Kém
(dƣới 5)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp ĐC 11C
3
6,5
14
30,4
24
52,2
5
10,9
16

( 46 HS )
Lớp TN 11B
( 46 HS )
6
13,1
18
39,1

19
41,3
3
6,5

Bảng 3.2. Bảng kết quả kiểm tra lớp 11G, 11H
Xếp loại
Lớp
Giỏi (8- 10)
Khá
(điểm 7)
Trung bình
(5-6)
Yếu – Kém
(dƣới 5)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp ĐC 11H
( 45 HS )
4
8,9
15
33,3
21

46,7
5
11,1
Lớp TN 11G
( 45 HS )
7
15,6
17
37,8
20
44,4
1
2,2

Bảng 3.3. Bảng kết quả kiểm tra lớp 11D, 11E
Xếp loại
Lớp
Giỏi (8- 10)
Khá
(điểm 7)
Trung bình
(5-6)
Yếu – Kém
(dƣới 5)
SL
%
SL
%
SL
%

SL
%
Lớp ĐC 11E
( 45 HS )
4
8,9
17
37,8
20
44,4
4
8,9
Lớp TN 11D
( 45 HS )
6
13,3
21
46,7
16
35,6
2
4,4
Từ bảng tổng hợp kết quả phiếu thực nghiệm chúng tôi xin rút ra một
số nhận xét: Kết quả thực nghiệm như đã trình bày trong bảng cho thấy tỷ lệ học sinh tri giác ngôn
ngữ, tái hiện hình tượng của các lớp thực nghiệm là cao hơn các lớp đối chứng. Cụ thể, ở bảng 3.1
lớp thực nghiệm có học sinh đạt kết quả loại giỏi 13,1%, loại khá 39,1% cao hơn lớp đối chứng:
loại giỏi 6,5%, loại khá 30,4%. Ngược lại, học sinh bị điểm yếu ở lớp thực nghiệm là 6,5% còn
lớp đối chứng là 10,9%. Ở bảng 3.2 thì tỉ lệ học sinh ở lớp thực nghiệm đạt loại giỏi là 15,6%, loại
khá 37,8% cao hơn so với lớp đối chứng: loại giỏi là 8,9%, loại khá 33,3%. Ngược lại số học sinh
trung bình, yếu của lớp thực nghiệm ít hơn so với lớp đối chứng. Ở bảng 3.3 thì kết quả học sinh

đạt giỏi và khá ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, mục đích
thực nghiệm của chúng tôi không phải là chỉ qua một vài tiết dạy để khẳng định ưu thế tuyệt đối
của các biện pháp đề ra mà chỉ nhằm bước đầu đánh giá hiệu quả, rút kinh nghiệm để hoàn thiện
hơn việc ứng dụng một số biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng thơ vào
thực tế giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình ở lớp 11 THPT.
3.6.3. Kết luận rút ra qua thực nghiệm
17

Qua các tiết dạy thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy giáo viên đã chú ý phát huy vai trò tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt với sự hỗ trợ của các biện pháp rèn kỹ năng tri giác
ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ trữ tình đã thực sự giúp học sinh mạnh dạn phát hiện vấn đề
và có những tưởng tượng phong phú độc đáo.
Trong các tiết dạy thực nghiệm, việc sử dụng hợp lí các câu hỏi tri giác ngôn ngữ, câu hỏi
tái hiện hình tượng tạo cho học sinh dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm; từ đó
hình thành cho các em phương pháp đọc - hiểu thơ trữ tình: đi từ lớp vỏ ngôn ngữ tới lớp hình rồi
mới tới lớp ý. Đặc biệt, các câu hỏi đã phát huy tối ưu hiệu quả khi sử dụng liền sau biện pháp đọc
thơ.
Việc sử dụng bài tập rèn năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng
thơ ở cuối mỗi tiết học giúp giáo viên kiểm tra được khả năng tiếp thu bài
của các em để có những điều chỉnh phù hợp kịp thời.
Qua các tiết dạy thực nghiệm chúng tôi thấy năng lực tái hiện hình tượng của các em tuy có tiến
bộ nhưng chưa nhiều. Khi yêu cầu tái hiện hình tượng đối tượng tham gia chủ yếu vẫn là học sinh khá
giỏi. Vì vậy không khí lớp học trầm hẳn xuống, học sinh trung bình và yếu nếu có phát biểu thì hình
tượng được tái hiện phần lớn chưa hoàn chỉnh, đôi khi bị méo mó. Theo tác giả luận văn đây là một
trong những nguyên nhân chính làm các em chán học văn.
Các học sinh yếu khả năng tái hiện hình tượng có thể do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân chủ yếu là: vốn sống, vốn ngôn ngữ nghèo nàn, khả năng liên tưởng, tưởng tượng
kém, diễn đạt yếu.
Đề tài có khả năng ứng dụng vào thực tế dạy học thơ trữ tình cho học sinh không chỉ ở khối
lớp 11 mà cả khối lớp 10 và khối lớp 12 và đã mang lại hiệu quả nhất định, vì thế đề tài cần được tiếp

tục bổ sung và phát triển thêm.
KẾT LUẬN CHUNG
Lý thuyết về phương pháp giảng dạy tác phẩm văn chương theo loại thể đã khẳng định:
Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi một phương pháp,
một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp với nó.
Trong chương trình THPT, mỗi tác phẩm thơ trữ tình hiện đại đều là những tác phẩm
được chọn lọc, là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Bạn đọc trong nhà trường là học sinh. Đối
tượng tiếp nhận, chiếm lĩnh của học sinh trong giờ dạy học văn là tác phẩm. Tác phẩm văn
chương vốn là một hệ thống văn bản ngôn ngữ hình tượng sinh động và hoàn chỉnh, nhưng chỉ khi
nào được người đọc trực tiếp tiếp nhận và chiếm lĩnh qua kênh nghe và kênh hình, hình dung
tưởng tượng nó mới trở thành đối tượng. Nghĩa là chỉ khi nào người đọc trực tiếp tác động qua
việc tri giác ngôn ngữ, qua sức tái hiện, tái tạo hình tượng thì tác phẩm mới có thể trở thành
những gợi ý và đề án tiếp nhận mới làm xuất hiện nhu cầu, hứng thú tìm hiểu khai thác. Tri giác
ngôn ngữ nghệ thuật, tái hiện hình tượng thơ của học sinh trong giờ văn là
18

hoạt động tâm lí sáng tạo có ý nghĩa then chốt để hiểu, cảm, giao tiếp và
chiếm lĩnh giá trị tác phẩm.
Biện pháp rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng thơ đã giúp giáo viên hiểu
sâu hơn hướng khám phá tìm tòi tác phẩm thơ trữ tình: Từ bình diện ngôn ngữ (lớp vỏ vật chất)
tới lớp hình rồi mới đến lớp ý. Từ đó, giáo viên dễ dàng hơn trong việc biên soạn các bài tập ứng
dụng để rèn luyện năng lực tiếp nhận văn học cho học sinh trong quá trình giảng dạy.
Nội dung chính của đề tài là đưa ra các biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ
và tái hiện hình tượng trong dạy học thơ trữ tình ở lớp 11 THPT. Các biện pháp mà chúng tôi đề
xuất: thứ nhất là tích hợp kiến thức để giải mã ngôn ngữ nghệ thuật thơ trữ tình; thứ hai là bằng
biện pháp đọc thơ để phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng nghệ thuật; thứ ba là
sử dụng câu hỏi để phát huy năng lực tri giác ngôn ngữ và tái hiện hình tượng nghệ thuật trong thơ
trữ tình; thứ tư là sử dụng hệ thống bài tập rèn năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật và tái hiện
hình tượng thơ. Các biện pháp này đã được thử nghiệm và có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, khi
vận dụng, giáo viên cần có sự sáng tạo phù hợp với từng bài dạy. Cần phát huy đồng bộ vai trò

của các phương pháp, biện pháp dạy học; sử dụng có trọng điểm cho từng bài học cụ thể, từng
mục tiêu cụ thể.
Dạy học thơ trữ tình ở THPT không phải là hoạt động mới mẻ. Song, để cho học sinh có
những năng lực tiếp nhận văn học nhất định khi tìm hiểu văn bản thơ trữ tình là cả một quá trình
đòi hỏi sự kiếm tìm, nỗ lực của cả giáo viên và học sinh. Mong rằng những cố gắng trong luận văn
được sự đóng góp của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo tâm huyết để có những biện pháp của để
tài thực sự có hiệu quả thiết thực cho quá trình dạy học văn ở trường THPT hiện nay.
Cuối cùng, chúng tôi hi vọng những biện pháp mà luận văn đề xuất sẽ là những gợi ý có
ích cho giáo viên trong việc dạy học Văn nói chung và rèn kỹ năng tri giác ngôn ngữ, tái hiện
hình tượng trong dạy học thơ trữ tình nói riêng nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học Văn ở
bậc THPT.



References
1. Nguyễn Viết Chữ (2008), Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn ở
trường phổ thông, Tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên trung học phổ
thông về đổi mới phương pháp dạy học, Viện nghiên cứu sư phạm.
2. Nguyễn Viết Chữ (2008), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường, Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Văn Đạm (1999-2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin
4. Trần Thanh Đạm (1978), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, Nxb Giáo
19

dục.
5. Nguyễn Trọng Hoàn (2001), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương, Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Thanh Hùng (2001), Hiểu văn, dạy văn, Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục.
8. Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Dƣ Khánh (2006), “Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà
trường”, Nxb Giáo dục.
10. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
11. Phan Trọng Luận (1969), Rèn luyện tư duy giảng dạy văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
13. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2006), Thiết kế Ngữ Văn 11, Nxb GD.
14. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên)(2006), Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, Nxb GD, Hà Nội.
15. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2006), Sách giáo viên Ngữ Văn 11, Nxb GD, Hà Nội.
16. Phan Trọng Luận (2008), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học Sư phạm.
17. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK
Ngữ văn 11 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
18. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục
19. Hoài Thanh, Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học
20. Trần Ngọc Thêm (1981), “Suy nghĩ về một phương pháp phân tích tác phẩm văn bản thơ”,
Tạp chí văn học, Số 5.
21. Đỗ Lai Thúy (2000), “Mắt thơ”, Nxb Văn hóa thông tin.
22. Bùi Minh Toán (1989), “Những mối quan hệ hệ thống của ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm
văn học”, Ngôn ngữ, Số 3.
23. Nguyễn Trí – Nguyễn Trọng Hoàn (tuyển chọn, giới thiệu) (2001), Đổi mới phương pháp
dạy học Văn – Tiếng việt ở trường phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Trần Thanh Xuân (1982), “Vấn đề tái hiện hình tượng văn học trong quá trình giảng văn
trong nhà trường”, Tạp san Giáo dục cấp 3, Số 3.
25. Z.Ia.Rez (chủ biên) (1983), Phương pháp luận dạy văn học (Phan Thiều dịch), Nxb Giáo
dục.


×