Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.45 KB, 125 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
========





LÊ THỊ THƢ



HÀNH VI NGÔN NGỮ GIÁN TIẾP TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Thị Vân









THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu 6
2.2 Phạm vi nghiên cứu 6
3. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu 6
3.1 Mục tiêu nghiên cứu 6
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Lịch sử vấn đề 7
4.1 Về tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp 7
4.2 Về tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện
ngắn Nam Cao 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 11
5.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại 11
5.3. Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh 11
6. Cấu trúc của luận văn 11
NỘI DUNG 12
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 12

1.1. Một số lí thuyết về ngữ dụng học 12
1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ 12
1.1.1.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ 12
1.1.1.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành vi ngôn ngữ gián tiếp 13
1.1.1.3. Phát ngôn ngữ vi tƣờng minh và phát ngôn ngữ vi nguyên cấp 15
1.1.1.4. Một số phƣơng tiện đánh dấu hành vi ở lời 16
1.1.2 Sơ lƣợc về hội thoại 20
1.1.2.1. Khái niệm 20
1.1.2.2. Các đơn vi hội thoại 21
1.1.2.3. Các quy tắc hội thoại 24
1.1.3. Ngữ cảnh 27
1.1.3.1. Khái niệm 27
1.1.3.2. Các nhân tố của ngữ cảnh 27
1.2. Khái quát lí thuyết về từ, cụm từ, câu tiếng Việt 31
1.2.1. Sơ lƣợc về từ tiếng Việt 31
1.2.1.1.Khái niệm 31
1.2.1.2 Phân loại 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3
1.2.2. Sơ lƣợc về cụm từ tiếng Việt 33
1.2.2.1. Khái niệm 33
1.2.2.2. Phân loại 29
1.2.3. Sơ lƣợc về câu tiếng Việt 34
1.2.3.1. Khái niệm 30
1.2.3.2. Phân loại 31
1.3. Kết luận chƣơng 36
CHƢƠNG 2: BIỂU THỨC DIỄN ĐẠT HÀNH VI NGÔN NGỮ GIÁN TIẾP
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO 37
2.1. Nhận xét chung 37

2.2. Miêu tả cấu trúc ngữ pháp của các biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ
gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao 38
2.2.1. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu đơn 38
2.2.1.1. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu đơn
đầy đủ thành phần nòng cốt 38
2.2.2. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu phức 41
2.2.3. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu ghép 43
2.2.3.1. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu
ghép chuỗi 44
2.2.3.2. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu
ghép đẳng lập 45
2.2.3.3. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là câu
ghép chính phụ 47
2.2.4. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là một chuỗi
câu 53
2.2.5. Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp có cấu tạo là một bộ
phận của câu 55
2.3. Kết luận chƣơng 56
CHƢƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA HÀNH VI NGÔN NGỮ
GIÁN TIẾP TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO 57
3.1. Các nhóm hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo hành vi
ngôn ngữ trực tiếp 57
3.1.1. Nhận xét chung 57
3.1.2. Kết quả thống kê và phân loại 58
3.1.3. Miêu tả các hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo hành
vi ngôn ngữ trực tiếp 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4
3.1.3.1. Nhóm hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc thể hiện bằng một hành

vi ngôn ngữ trực tiếp 60
3.1.3.2. Nhóm hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc thể hiện bằng hai hành
vi ngôn ngữ trực tiếp 87
3.2. Các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo lý thuyết
hội thoại 91
3.2.1 Nhận xét chung 91
3.2.2 Kết quả thống kê và phân loại 92
3.2.3. Miêu tả các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn
Nam Cao đƣợc phân loại theo lý thuyết hội thoại 93
3.2.3.1. Các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo chức
năng của chúng trong cuộc hội thoại 93
3.1.3.2. Các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo chức
năng trong một tham thoại 98
3.3. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo chủ ngôn 103
3.3.1. Nhận xét chung 103
3.3.2. Kết quả thống kê và phân loại 104
3.3.3. Miêu tả hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc phân loại theo chủ ngôn 104
3.3.3.1. Hành vi ngôn ngữ có chủ ngôn là nhân vật 104
3.2.3.2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp có chủ ngôn là tác giả 105
3.4. Tác dụng của hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn của
Nam Cao 106
3.4.1 Sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao
có tác dụng tăng tính lịch sự cho phát ngôn 106
3.4.2. Sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao
có tác dụng bộc lộ thái độ, tâm trạng, tính cách nhân vật 108
3.4.3. Sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp có tác dụng thể hiện thái độ
tác giả 113
3.4.4. Sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp có tác dụng làm tăng tính hấp
dẫn cho tác phẩm 115
3.5. Kết luận chƣơng 117

KẾT LUẬN 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Hành vi ngôn ngữ gián tiếp là một địa hạt còn ẩn chứa rất nhiều điều bí
ẩn. Lịch sử Ngữ dụng học đã có không ít công trình khám phá về hành vi
ngôn ngữ này nhƣng những công trình ấy lại còn nhiều vấn đề chƣa thống
nhất với nhau.
1.2 Trong giao tiếp, hành vi ngôn ngữ gián tiếp có vai trò hết sức quan trọng.
Để diễn đạt một điều gì đó, ngƣời ta không phải lúc nào cũng có thể nói ra
một cách tƣờng minh, trực tiếp mà có những trƣờng hợp phải dùng lối nói
gián tiếp mới đem lại hiệu quả nhƣ ý muốn.
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp là kiểu hành vi ngôn ngữ có hình thức diễn
đạt và mục đích diễn đạt không phù hợp với nhau. Nói cách khác, đây là kiểu
hành vi ngôn ngữ mà khi nói ngƣời ta sử dụng hành vi ngôn ngữ này nhƣng
lại nhằm đạt đƣợc hiệu quả ở lời của một hành vi ngôn ngữ khác. Vì thế mà
hành vi ngôn ngữ gián tiếp chính là một trong những cơ chế tạo ý nghĩa hàm
ẩn cho lời nói. Sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp hợp lí sẽ góp phần tạo nên
hiệu quả cao trong giao tiếp.
1.3 Truyện ngắn là một bộ phận quan trọng và chủ yếu trong sáng tác của
Nam Cao. Có thể nói, Nam Cao viết không nhiều nhƣng hầu nhƣ truyện ngắn
nào của ông cũng đặc sắc. Đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu về
truyện ngắn Nam Cao. Song phần lớn những công trình nghiên cứu này mới
dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung và thể loại, còn địa hạt ngôn ngữ, đặc biệt là
ngôn ngữ hội thoại lại chƣa đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức.

Đến nay mới chỉ thấy những khảo luận lẻ tẻ về đại từ, hay thành ngữ, quán
ngữ trong truyện ngắn của ông. Về vấn đề nghiên cứu hành vi ngôn ngữ, ở
các công trình nghiên cứu mới thấy những trích đoạn trong truyện ngắn Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6
Cao đƣợc đƣa vào để làm dẫn chứng chứ chƣa thấy có công trình nào nghiên
cứu hành vi ngôn ngữ nhƣ một chỉnh thể độc lập.
Những điều vừa nói trên đây cho thấy, tìm hiểu hành vi ngôn ngữ gián
tiếp nói chung và hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao nói
riêng là một việc làm cần thiết. Nghiên cứu nghiêm túc vấn đề này không chỉ
giúp ta hiểu thêm về lí thuyết hành vi ngôn ngữ mà còn giúp ta thấy đƣợc
phần nào nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của một nhà văn có tên tuổi trong lịch
sử văn học nƣớc nhà.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trong truyện ngắn của Nam Cao.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc Nam Cao sử dụng khá nhiều trong sáng
tác của mình, cả trong tiểu thuyết lẫn truyện ngắn. Song luận văn này chỉ tìm
hiểu các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn của ông và cũng chỉ
nghiên cứu đối tƣợng này về 3 phƣơng diện:
- Cấu trúc cú pháp của các biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp;
- Một số đặc điểm ngữ dụng: các hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc biểu
đạt bởi hành vi ngôn ngữ trực tiếp nào, chức năng của hành vi ngôn ngữ gián
tiếp trong hội thoại;
- Vai trò của hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn của Nam Cao.
3. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này nhằm hai mục đích chính: 1)làm rõ các hành vi
ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao về các phƣơng diện nhƣ đã
trình bày ở mục phạm vi nghiên cứu và 2) Luận văn có thể làm tài liệu cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
những ai muốn nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ nói chung và hành vi ngôn
ngữ gián tiếp nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu đề ra, luận văn xác định một số nhiệm vụ chính
phải thực hiện sau đây:
- Nghiên cứu, trình bày một số lí thuyết ngôn ngữ đƣợc chọn làm căn cứ
lí luận cho luận văn.
- Thống kê, phân loại các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc Nam Cao
sử dụng trong truyện ngắn của mình theo các tiêu chí định trƣớc.
- Miêu tả, phân tích các hành vi ngôn ngữ gián tiếp theo các nhóm đã
phân loại.
- Phân tích vai trò của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc Nam Cao sử
dụng.
- Tổng kết các kết quả đã nghiên cứu, rút ra kết luận.
4. Lịch sử vấn đề
Mục này trình bày hai nội dung: 1)Tình hình nghiên cứu hành vi ngôn
ngữ gián tiếp và 2)Giới thiệu tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
đến hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao.
4.1 Về tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp
Ngữ dụng học là một bộ phận của Ngôn ngữ học. Đây là một phân ngành
mới mẻ trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ. Mặc dù đƣợc manh nha từ lâu
nhƣng một vài thập kỉ gần đây nó mới đƣợc quan tâm và thực sự phát triển.
Song các ý kiến xung quanh những vấn đề thuộc Ngữ dụng học vẫn chƣa thực
sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Vì thế, có thể nói những vấn đề thuộc

Ngữ dụng học nói chung và hành vi ngôn ngữ gián tiếp nói riêng vẫn còn là
mảnh đất cần đƣợc khai phá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
Trên thế giới, tƣ liệu điều tra của chúng tôi cho thấy có khá nhiều những
công trình nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ, trong đó có hành vi ngôn ngữ
gián tiếp. Trƣớc tiên phải kể đến Austin với công trình How do you things
with words (Hành động nhƣ thế nào bằng lời nói), xuất bản năm 1962. Ở công
trình này, Austin đã bàn khá kĩ về hành vi ngôn ngữ nói chung và các tiêu chí
phân loại chúng, song rất tiếc ông mới chỉ giới thiệu sơ lƣợc về hành vi ngôn
ngữ gián tiếp. Phải đến năm 1969, khi Searle công bố công trình Speech acst
(Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp) thì vấn đề hành vi ngôn ngữ mới thực sự
đƣợc giới nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm. Searle đã đƣa ra khái niệm, một vài
đặc điểm và cơ chế hình thành của hành vi ngôn ngữ gián tiếp (10 bƣớc hình
thành hành vi ngôn ngữ gián tiếp).
Sau Searle, nhiều nhà ngôn ngữ học vẫn tiếp tục tìm hiểu hành vi ngôn
ngữ gián tiếp. Chẳng hạn nhƣ: D. Gordon và G. Cakoff với công trình nghiên
cứu Conversationnal portulate xuất bản năm 1975, J Morgan với công trình
nghiên cứu Two types of convertion indirect speech acts xuất bản năm
1978,v.v… Ở các công trình nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu chủ yếu đi
tìm hiểu nguyên nhân vì đâu mà có hành vi ngôn ngữ gián tiếp. J. Morgan cho
rằng hành vi ngôn ngữ gián tiếp hình thành là do quy ƣớc về sử dụng ngôn
ngữ. Sự quy ƣớc này chi phối cách dùng của câu qua nghĩa trên bề mặt của
câu chữ theo một mục đích nào đó chứ không phải do hội thoại mà câu đó nảy
sinh hàm ý. K. Rube trong công trình Statut semantique des actes indirectes
xuất bản năm 1980 lại có ý kiến khác. Theo ông, hành vi ngôn ngữ gián tiếp
đƣợc hình thành trên cơ sở siêu ngôn ngữ, nghĩa là nó hình thành trên cơ sở
ngữ nghĩa hơn là ngữ dụng. Nhƣ vậy, có thể thấy những công trình nghiên
cứu sau này là sự kế thừa những tiền đề lí thuyết mà Searle đã đặt ra, song

phần lớn các công trình mới chỉ dừng lại ở việc nêu khái niệm, trình bày một
vài cách biểu hiện của hành vi ngôn ngữ gián tiếp mà chƣa hệ thống đƣợc tất
cả các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp cũng nhƣ chủ ngôn của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9
Ở Việt Nam, hành vi ngôn ngữ gián tiếp đã và đang thu hút đƣợc sự quan
tâm của rất nhiều nhà ngôn ngữ học, đặc biệt là các nhà Việt ngữ. Có thể kể ra
đây một số công trình nghiên cứu của các giáo sƣ có tên tuổi nhƣ Đỗ Hữu
Châu với công trình Đại cương về ngôn ngữ học, tập 2, NXBGD, 2009,
Nguyễn Đức Dân với công trình Ngữ dụng học, NXBGD, 1998, Nguyễn
Thiện Giáp với công trình Dụng học Việt ngữ, NXBDHQGHN, 2000,v.v
Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã vận dụng lí thuyết về
hành vi ngôn ngữ gián tiếp mà các nhà dụng học thế giới đã đƣa ra để nghiên
cứu nó trong tiếng Việt. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián
tiếp vẫn còn sơ lƣợc.
Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trên đây cho thấy hành vi ngôn ngữ gián tiếp là một hiện tƣợng ngôn ngữ
đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, song các ý kiến xoay quanh nó vẫn còn nhiều
vấn đề cần phải bàn. Nhƣ đã nói ở mục lí do chọn đề tài, đây là vấn đề còn bỏ
ngỏ nên cần nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu.
4.2 Về tình hình nghiên cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn
Nam Cao
Nam Cao là nhà văn có biệt tài về thể loại truyện ngắn. Làm nên thành công
của truyện ngắn Nam Cao có sự đóng góp không nhỏ của ngôn ngữ nghệ thuật.
Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao nhƣng các công trình này chủ yếu nghiên
cứu về phƣơng diện nội dung nhƣ các công trình: Nam Cao về tác gia tác
phẩm, Bích Thu tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, 2007; Chủ nghĩa hiện
thực Nam Cao, Trần Đăng Suyền, Nxb KHXH, 2001; Con đường đi vào thế

giới nghệ thuật của nhà văn, sách do nhiều tác giả viết, Nxb Giáo dục, 2002;
Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, Nxb Văn Hóa, 1961; Nam Cao đời văn
và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, 1976 cùng của tác giả Hà Minh Đức…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10
Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ trong truyện ngắn Nam Cao hiện nay đã
thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiêu nhà nghiên cứu, đặc biệt là những vấn đề
thuộc ngành Dụng học tuy còn mới mẻ nhƣng đã bắt đầu đƣợc đề cập đến
trong một số luận văn cũng nhƣ luận án. Có thể kể ra đây ít công trình nghiên
cứu là luận án tiến sĩ Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Các hình thức
thoại dẫn) của Mai Thị Hảo Yến, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 2000,
luận văn thạc sĩ “Hội thoại trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng
tháng Tám (đặc điểm sử dụng từ ngữ trong quan hệ với nhân vật)” của Phạm
Văn Khanh, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 2006 và luận văn cử nhân Tìm
hiểu liên kết đoạn thoại trong truyện ngắn Nam Cao của Nguyễn Thị Ngân
Hà, ĐHSP Thái Nguyên.
Trong luận án tiến sĩ của mình, Mai Thị Hảo Yến đã chú ý đi tìm hiểu về
vấn đề thoại dẫn (tức là lời dẫn thoại) chứ không đi sâu nghiên cứu các hành
vi ngôn ngữ của lời thoại (trong đó có hành vi ngôn ngữ gián tiếp).
Trong luận văn thạc sĩ đã dẫn của Phạm Văn Khanh, tác giả chủ yếu tìm
hiểu đặc điểm sử dụng từ ngữ trong hội thoại của các nhân vật, qua đó thấy
đƣợc sự phù hợp giữa ngôn ngữ hội thoại và hình tƣợng nhân vật mà cũng
chƣa tìm tìm hiểu đến các hành vi ngôn ngữ.
Cũng nhƣ tác giả Mai Thị Hảo Yến, Phạm Văn Khanh, tác giả Nguyễn
Thị Ngân Hà trong luận văn của mình cũng nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao
dƣới góc nhìn của lí thuyết hội thoại. Luận văn này cũng đề cập đến hành vi
ngôn ngữ gián tiếp nhƣng chỉ với tƣ cách là một phƣơng tiện liên kết chứ
chƣa nghiên cứu nó nhƣ một đơn vị của hội thoại.
Nhƣ vậy, từ những công trình đã dẫn trên một lần nữa cho thấy vấn đề

hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao đã bắt đầu thu hút đƣợc
sự quan tâm của ngƣời nghiên cứu. Song mới chỉ thấy nó đƣợc giới thiệu sơ
lƣợc ở một số công trình. Chƣa thấy có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và hệ
thống về hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện ngắn Nam Cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11
Kế thừa kết quả nghiên cứu của một số ngƣời đi trƣớc, tiến hành nghiên
cứu hành vi ngôn ngữ gián tiếp theo quan điểm Ngữ dụng học và Ngữ pháp
học truyền thống chúng tôi hy vọng công trình này sẽ góp phần làm sáng tỏ
thêm về các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp cũng nhƣ nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ của Nam Cao, một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Các phƣơng pháp nghiên cứu này đƣợc dùng để thống kê, phân loại các hành
vi ngôn ngữ gián tiếp mà Nam Cao đã sử dụng trong truyện ngắn của mình.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Các phƣơng pháp này đƣợc dùng trƣớc hết để phân tích các kết quả khảo
sát. Sau đó, tổng hợp chúng lại thành từng nhóm và tổng kết các kết quả
nghiên cứu đƣợc.
5.3. Phương pháp đối chiếu, so sánh
Phƣơng pháp nghiên cứu này đƣợc dùng để đối chiếu, so sánh cách sử
dụng hành vi ngôn ngữ trực tiếp với các hành vi ngôn ngữ gián tiếp tƣơng ứng
đã thống kê, từ đó tìm ra giá trị, tác dụng của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trong truyện ngắn Nam Cao.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết

Chương 2: Biểu thức diễn đạt hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong truyện
ngắn của Nam Cao
Chương 3: Phân loại và vai trò của hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong
truyện ngắn của Nam Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Chƣơng này trình bày một số lí thuyết đƣợc chọn làm căn cứ lí luận
cho luận văn, cụ thể là:
- Một số lí thuyết về ngữ dụng học;
- Sơ lƣợc về từ, cụm từ, câu.
1.1. Một số lí thuyết về ngữ dụng học
1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
1.1.1.1. Khái niệm hành vi ngôn ngữ
Khi giao tiếp, con ngƣời có thể sử dụng rất nhiều phƣơng tiện khác nhau,
trong đó có ngôn ngữ. Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp nhằm gây ra các hiệu
quả, tác động nào đó đối với nhân vật giao tiếp chính là ngƣời nói đã dùng các
hành vi ngôn ngữ.
Nhà ngôn ngữ học ngƣời Anh – Austin đã khẳng định nói năng cũng là
một hành động, một loại hành động đặc biệt mà phƣơng tiện là ngôn ngữ.
Hành vi ngôn ngữ (hay nói cách khác là hành động nói, hành động phát ngôn,
hành động ngôn ngữ là một loại hành động của con ngƣời. Theo Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên- Nxb Giáo dục 1998)
thì hành động ngôn ngữ là “Một đoạn lời có mục đích nhất định thực hiện
trong những điều kiện nhất định được tách biệt bằng các phương tiện trên
ngữ điệu và hoàn chỉnh thống nhất về mặt cấu âm- âm học mà người nói,
người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau, trong hoàn cảnh giao

tiếp nào đó. Hành vi ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (người viết)
nói (viết) ra một phát ngôn cho người nghe (người đọc) trong một ngữ cảnh
nhất định”[48, 176]. Hành vi ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong xã hội. Nó có
khả năng làm thay đổi trạng thái, tâm lí, hành động của ngƣời nghe, thậm chí
của cả ngƣời nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13
Theo J. Austin, trong một phát ngôn có ba loại hành vi:
- Hành vi tạo lời (hành động tạo ngôn);
- Hành vi ở lời (hành động ngôn trung);
- Hành vi mƣợn lời (hành động dụng ngôn).
Hành vi tạo lời là hành vi mà ngƣời nói sử dụng các yếu tố ngữ âm, từ,
và các qui tắc kết hợp từ thành câu khi nói năng để tạo ra một phát ngôn về
hình thức và nội dung. Ví dụ: để có hành vi hỏi “Mai bạn có đi Hà Nội
không?”, ngƣời nói trƣớc hết phải sử dụng các từ và kết hợp các từ theo một
quy tắc nhất định để có đƣợc phát ngôn nhƣ đã dẫn.
Hành vi ở lời là những hành vi mà ngƣời nói thực hiện ngay khi nói
năng. Chúng gây ra một phản ứng tƣơng ứng với chúng ở ngƣời nhận. Ví dụ:
hành vi hỏi đã dẫn ở trên (“Mai bạn có đi Hà Nội không?”) đƣợc thực hiện
ngay khi ngƣời nói phát âm ra phát ngôn này và ngƣời nghe lập tức có trách
nhiệm trả lời ngƣời hỏi.
Hành vi mượn lời là hành vi mƣợn các phƣơng tiện ngôn ngữ, nói cho
đúng hơn là mƣợn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào
đó ở ngƣời nghe, ngƣời nhận hoặc ở chính ngƣời nói. Ví dụ: khi nghe cô giáo
nói “Ngày mai sẽ kiểm tra môn này”, học sinh có thể có những phản ứng tâm
lí hay hành động nhƣ lo lắng, bình tĩnh chờ đợi, học suốt đêm,… Đó là hiệu
quả của hành vi mƣợn lời.
Hành vi tạo lời và hành vi mƣợn lời không thuộc đối tƣợng nghiên cứu
của ngữ dụng học.

1.1.1.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp, hành vi ngôn ngữ gián tiếp
Hành vi ngôn ngữ xét trong mối quan hệ giữa mục đích diễn đạt và hình
thức diễn đạt có thể chia thành hai loại là hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành
vi ngôn ngữ gián tiếp.
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp là hành vi đƣợc thực hiện đúng với đích ở lời
và điều kiện sử dụng. Ví dụ để khuyên một ai đó làm nên làm một việc gì đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14
ngƣời nói sử dụng hành vi khuyên, chẳng hạn: “Tôi khuyên bạn nên xin lỗi
anh ấy”. Hành vi ngôn ngữ này là hành vi ngôn ngữ trực tiếp.
Nếu hành vi ngôn ngữ trực tiếp đƣợc thực hiện đúng với đích ở lời và
điều kiện sử dụng thì hành vi ngôn ngữ gián tiếp lại là kiểu hành vi ngôn ngữ
đƣợc sử dụng với bề mặt của hành vi ngôn ngữ này nhƣng lại nhằm đạt hiệu
quả ở lời của hành vi ngôn ngữ khác.
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp là thuật ngữ do Searle đặt ra. Theo ông thì
“chừng nào còn có một mối liên hệ gián tiếp giữa cấu trúc và một chức năng
thì ta có một hành động nói gián tiếp”[6, 147] và với các hành vi ngôn ngữ
gián tiếp, chúng ta đi vào thế giới “nếu không phải là của những phù phép thì
cũng đầy cạm bẫy…” [6,147]. Vì vậy, khi ngƣời nói sử dụng một hành vi
ngôn ngữ gián tiếp thì ngƣời nghe phải dựa vào cả những hiểu biết về ngôn
ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai ngƣời để suy ra hiệu lực ở lời của
hành vi ngôn ngữ ấy.
Ví dụ: A- Ngày mai về hộ tôi nhé.
B- Mai tôi bận.
Trong ví dụ này, Sp1 nhờ Sp2 hộ mình nhƣng Sp2 không trả lời là có hay
không mà lại đƣa ra một thông báo tôi bận với ý gián tiếp từ chối là tôi không hộ
đƣợc vì bận. Sp2 đã sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp và Sp1 trong ngữ cảnh
nhƣ vậy sẽ suy ra đƣợc đích ngôn trung mà Sp2 muốn diễn đạt.
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp có mối quan hệ

rất gắn bó với nhau. Có thể nói, hiệu lực ở lời gián tiếp là cái thêm vào hiệu
lực ở lời trực tiếp. Muốn nhận biết đƣợc hành vi ngôn ngữ gián tiếp thì trƣớc
hết ngƣời nghe phải nhận biết đƣợc hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Nhận ra đƣợc
hành vi ngôn ngữ gián tiếp là kết quả của hoạt động suy ý từ hành vi ngôn
ngữ trực tiếp mà Sp1 phát ngôn.
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong tiếng Việt rất phong phú và cơ chế cấu
tạo nên hành vi ngôn ngữ gián tiếp cũng rất đa dạng. Một hành vi ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15
gián tiếp có thể đƣợc thực hiện qua những hành vi tại lời (hành vi ngôn ngữ
trực tiếp) khác nhau và ngƣợc lại, một hành vi tại lời cũng có thể tạo ra những
hành vi ngôn ngữ gián tiếp khác nhau. Nắm đƣợc điều đó sẽ giúp ta tạo lập và
sử dụng chính xác các hành vi ngôn ngữ gián tiếp.
1.1.1.3. Phát ngôn ngữ vi tường minh và phát ngôn ngữ vi nguyên cấp
Những biểu thức ngữ vi, tức biểu thức ngữ vi trực tiếp có hiệu lực ở lời
có thể có động từ ngữ vi và không có động từ ngữ vi. Austin gọi các phát
ngôn có động từ ngữ vi là biểu thức ngữ vi tƣờng minh.
Chẳng hạn:
- Tôi khuyên anh đừng đến đó.
- Tôi hỏi anh có làm không?
- Tôi mời anh mai tới nhà tôi chơi.
- Tôi hứa sẽ giúp bạn việc đó.
Còn các phát ngôn tuy có hiệu lực ở lời nhƣng không có động từ ngữ vi
đƣợc ông gọi là phát ngôn ngữ vi nguyên cấp hay phát ngôn ngữ vi hàm ẩn.
Chẳng hạn:
- Anh đừng đến đó.
- Anh có làm không?
- Mai anh tới nhà tôi chơi.
- Tôi sẽ giúp bạn việc đó.

Theo ngữ pháp tiền dụng học, các kiểu câu phân theo mục đích nói
trong thực tế là những kiểu câu phân chia theo hiệu lực ở lời, tức theo hành vi
ở lời tạo ra chúng. Bởi số lƣợng các hành vi ở lời rất lớn cho nên những kiểu
hành vi ngôn ngữ đó chƣa phản ánh đƣợc hết các hành vi ở lời của ngôn ngữ.
Chúng tuy đƣợc phân lập theo những tiêu chí ngữ nghĩa và những tiêu chí
hình thức nhƣng chƣa thật trùng hợp với hiệu lực ở lời và các chỉ dẫn hiệu lực
ở lời. Nhất là ở các kiểu câu trần thuyết, tức các kiểu câu do hành vi miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16
tạo ra. Vì các biểu thức ngữ vi miêu tả không có các chỉ dẫn hiệu lực ở lời đặc
trƣng nên dễ lẫn với các phát ngôn ngữ vi nguyên cấp của các hành vi ngôn
ngữ không phải miêu tả tạo ra.
Chẳng hạn, cho phát ngôn sau: “Mai tôi sẽ kiểm tra”. Đây có thể là phát
ngôn ngữ vi nguyên cấp của hành vi hứa cũng có thể là phát ngôn ngữ vi của
hành vi đe dọa.
Để xác định một phát ngôn nào đó là do hành vi nào tạo ra, tức là xác định
phát ngôn đó là biểu thức ngữ vi nguyên cấp nào, chúng ta phải căn cứ vào:
- Ngữ cảnh;
- Khả năng tái lập và bổ sung các chỉ dẫn hiệu lực ở lời cho phát ngôn đó;
- Phát ngôn hồi đáp của ngƣời nghe.
Trong thực tế giao tiếp bằng ngôn ngữ, biểu thức ngôn ngữ thƣờng đƣợc
dùng là biểu thức ngữ vi nguyên cấp. Nhƣ thế, các biểu thức ngữ vi nguyên
cấp với các chỉ dẫn hiệu lực ở lời đặc trƣng ứng với từng hành vi ở lời là cơ
sở để lí giải những phát ngôn nghe đƣợc, đọc đƣợc. Bằng cách quy một phát
ngôn mơ hồ về hiệu lực ở lời, tức mơ hồ về tƣ cách biểu thức ngữ vi của nó
về một biểu thức ngữ vi nào đó mà cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ mới diễn ra
thuận lợi.
1.1.1.4. Một số phương tiện đánh dấu hành vi ở lời
Có nhiều dấu hiệu xác định hành vi ngôn ngữ. Dƣới đây là một số dấu

hiệu cơ bản:
a. Động từ ngữ vi
Austin và Searle đã tiến hành phân biệt động từ chỉ hành động vật lí và động
từ nói năng. Theo đó, động từ nói năng là động từ chỉ các hành vi ngôn ngữ.
Trong các động từ nói năng, ta thấy có những động từ có thể thực hiện
chức năng ngữ vi, tức là thực hiện chức năng ở lời, đó là động từ ngữ vi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17
Động từ ngữ vi là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với biểu
thức ngữ vi (có khi không cần biểu thức ngữ vi đi kèm) là ngƣời nói thực hiện
luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu thị.
Ví dụ: Tôi cược là đội tuyển Thái Lan sẽ thua đội tuyển Việt Nam.
Khi ngƣời nói phát âm ra phát ngôn trên với động từ cược thì đồng thời
ngƣời đó cũng đã thực hiện luôn hành vi cƣợc của mình. Cược là động từ ngữ
vi, nhờ nó mà chúng ta biết phát ngôn trên là hành vi ngôn ngữ gì (cụ thể ở
đây là hành vi cược trong hội thoại).
Một động từ nói năng muốn trở thành động từ ngữ vi phải đảm bảo đƣợc
một số điều kiện dùng nhất định. Đó là:
- Chủ thể của động từ nói năng ở ngôi thứ nhất;
- Phát ngôn xảy ra ở thì hiện tại, cũng tức là động từ nói năng phải dùng
ở thì hiện tại;
- Đối tƣợng tiếp nhận của động từ nói năng phải ở ngôi thứ hai;
- Phát ngôn không chứa các yếu tố tình thái.
Các động từ ngữ vi: thề, hứa, cảm ơn, xin lỗi, thách…đều có khả năng
thực hiện một hành vi ở lời, tức là chúng đều có thể đƣợc dùng với tƣ cách là
một động từ ngữ vi.
Ví dụ:
- Tôi thề với anh tôi không làm việc đó.
- Tôi hứa là sẽ cho bạn mƣợn quyển sách này.

- Tôi xin lỗi vì đã đến muộn.
Động từ ngữ vi là dấu hiệu đầu tiên và là một trong những dấu hiệu
quan trọng nhất để giúp ta nhận biết các biểu thức ngữ vi tƣờng minh. Vì vậy,
động từ ngữ vi trong biểu thức ngữ vi sẽ giúp ta biết chính xác hành vi ngôn
ngữ nào đó đang đƣợc thực hiện.
b, Những kiểu kết cấu ngữ pháp đặc trưng cho hành vi ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18
Kiểu kết cấu là kiểu câu hiểu theo ngữ pháp truyền thống. Nó cũng là
những kết cấu cụ thể ứng với từng hành vi ở lời. Kết cấu ngữ pháp không phải
chỉ là kiểu câu có mục đích nói sơ lƣợc nhƣ hỏi, trần thuật, cầu khiến, cảm
thán…với những dấu hiệu hình thức rất chung chung nhƣ các nhà ngôn ngữ
học tiền dụng học đã nói mà còn bao gồm cả những kết cấu cụ thể ứng với
từng hành vi ở lời.
Ví dụ: các kết cấu thuộc hành vi cầu khiến trong tiếng Việt thƣờng là
hãy, đừng…nữa, làm ơn…; hành vi hỏi thƣờng có cấu trúc là có…không, có
phải… không…; hành vi cảm thán lại bao gồm hai kiểu kết cấu từ ngữ cảm
thán kết hợp với cấu trúc trần thuyết (chẳng hạn: Ôi! Bầu trời thật đẹp.) và từ
ngữ cảm thán kết hợp với câu hỏi (Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?)…
c, Những từ ngữ chuyên dụng cho một kiểu hành vi ngôn ngữ
Những từ ngữ chuyên dụng là những từ ngữ chuyên dùng để tổ chức kết
cấu cho một biểu thức ngữ vi cụ thể. Chẳng hạn, với biểu thức ngữ vi hỏi, ta
có các từ chuyên dùng nhƣ: có…không, đã… chưa, ai, cái gì,…
Ví dụ:
- Bác An có nhà không?
- Ai đấy?
- Minh đã đi học đƣợc chưa?
- Đây là cái gì thế cậu?
Những từ ngữ chuyên dụng đƣợc in nghiêng trên cho ta biết hành vi

ngôn ngữ đƣợc thực hiện trong các ví dụ trên là hành vi ngôn ngữ hỏi.
Tƣơng tự, những từ ngữ chuyên dụng trong biểu thức ngữ vi cầu khiến
là: hãy, đừng, chớ, làm ơn…
Ví dụ:
- Hãy tránh xa nó ra.
- Đừng buồn nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19
- Làm ơn đóng hộ tôi cái cửa.
Những từ đƣợc in nghiêng trên cho ta biết hành vi ngôn ngữ đƣợc thực
hiện trong các biểu thức đã dẫn là hành vi ngôn ngữ cầu khiến.
Những từ ngữ chuyên dụng trong biểu thức ngữ vi khuyên lại là: nên,
không nên…
Ví dụ:
- Anh nên tha thứ cho lỗi lầm của chị ấy.
- Mày không nên làm nhƣ thế.
Ngoài ra, ta còn thấy những từ ngữ mở đầu chuyên dùng cho các biểu
thức đánh giá nhƣ: thật là…, quả là…hay những từ ngữ chuyên dùng cho các
hành vi biểu cảm: ôi, trời ơi, ối cha mẹ ôi…
Ví dụ:
- Cứ nhìn cô ấy mà xem. Quả là đẹp!
- Ôi! Con búp bê dễ thƣơng quá!
Tóm lại, những từ ngữ chuyên dùng trên thƣờng đƣợc sử dụng trong
các biểu thức ngữ vi đặc thù. Nó là dấu hiệu quan trọng để ta nhận biết những
biểu thức ngữ vi mà ngƣời nói đang thực hiện.
d, Ngữ điệu
Cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp nhất định đƣợc phát âm với những
ngữ điệu khác nhau sẽ cho ta các biểu thức ngữ vi khác nhau ứng với các
hành vi ngôn ngữ có đích ở lời cụ thể.

Một phát ngôn đƣợc nói ra tuỳ thuộc vào ngữ điệu của ngƣời nói mà tác
động đến ngƣời nghe với những đích ở lời khác nhau.
Chẳng hạn, một phát ngôn nhƣ Tôi sẽ thông báo việc này đến bố mẹ cậu.
Nếu đƣợc phát âm với ngữ điệu bình thƣờng thì nó chỉ là một lời thông báo.
Nhƣng nếu nó đƣợc phát âm với một giọng điệu thiết tha thì đó là một lời hứa
hẹn còn với giọng điệu nhấn mạnh, dằn từng tiếng thì đó lại là một lời đe doạ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20
e, Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ tham thể tạo nên nội dung
mệnh đề được nêu trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ cảnh
Các đặc tính ngữ nghĩa nhƣ tự nguyện hay cƣỡng bức, tích cực hay tiêu
cực, có lợi hay có hại…của các hành động đối với ngƣời tạo ra hành vi và với
ngƣời nhận hành vi ngôn ngữ đó cũng có giá trị nhƣ những dấu hiệu nhận biết
hành vi ngôn ngữ.
Ví dụ: so sánh hai phát ngôn sau đây
- Cậu quét nhà đi.(a)
- Cậu quét hộ tớ cái nhà.(b)
Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ tham thể trong hai phát
ngôn vừa dẫn cho ta biết (a) là một phát ngôn cầu khiến còn (b) là một phát
ngôn nhờ vả.
Có thể nói, quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ tham thể tạo
nên nội dung mệnh đề đƣợc nêu lên trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố
của ngữ cảnh cũng là một dấu hiệu để nhận ra hành vi ngôn ngữ gì đang đƣợc
thực hiện.
Trên đây là những dấu hiệu cơ bản để nhận biết hành vi ngôn ngữ. Mỗi
dấu hiệu là một đặc trƣng nhận diện cụ thể. Khi tìm hiểu và tri nhận hành vi
ngôn ngữ, chúng ta phải biết kết hợp các dấu hiệu ấy để xác định sao cho
chính xác.
1.1.2 Sơ lược về hội thoại

1.1.2.1. Khái niệm
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời. Trong
giao tiếp, có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một
chiều, chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận. Hình thức này gặp trong
những mệnh lệnh quân sự, trong diễn văn, trong lời của phát thanh viên
truyền hình hay truyền thanh…Đó là độc thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21
Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại.
Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói
lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại.
Hội thoại là hình thức giao tiếp thƣờng xuyên, phổ biến của ngôn ngữ.
Nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác.
Các cuộc thoại có thể khác nhau ở:
Thứ nhất, đặc điểm hoàn cảnh giao tiếp (thời gian, không gian) ở đó
diễn ra hội thoại. Đó có thể là không gian công cộng (hội trƣờng, chợ…) hay
không gian riêng tƣ (phòng ngủ, nhà riêng…)
Thứ hai, ở số lƣợng ngƣời tham gia. Số nhân vật hội thoại hay còn gọi là
đối tác hội thoại thay đổi từ hai đến số lƣợng lớn. Có thể là song thoại, tam
thoại, đa thoại.
Thứ ba, ở cƣơng vị và tƣ cách của những ngƣời tham gia hội thoại.
Cƣơng vị và tƣ cách của những ngƣời tham gia hội thoại là khác nhau tuỳ
theo các cuộc hội thoại.
Thứ tƣ, các cuộc thoại khác nhau ở tính có đích hay không có đích.
Những cuộc thoại nhƣ thƣơng thuyết ngoại giao, hội thảo khoa học có đích
đƣợc xác định trƣớc rõ ràng. Những cuộc tán gẫu đƣợc xem là không có đích.
1.1.2.2. Các đơn vi hội thoại
Các nhà ngữ dụng học cho rằng hội thoại là một tổ chức tôn ti nhƣ tổ
chức một đơn vị cú pháp. Các đơn vị cấu trúc của hội thoại từ lớn đến đơn vị

tối thiểu là cuộc thoại, đoạn thoại, cặp trao đáp, tham thoại và hành vi ngôn
ngữ. Ba đơn vị đầu có tính lƣỡng thoại tức là chúng hình thành do vận động
trao đáp của các nhân vật hội thoại. Hai đơn vị sau có tính chất đơn thoại, tức
là chúng do một ngƣời nói ra.
a, Cuộc thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22
Cuộc thoại là đơn vị hội thoại lớn nhất. Ngƣời ta phải dựa vào các tiêu
chí sau để xác định một cuộc thoại:
Thứ nhất, nhân vật hội thoại: theo tiêu chí này, một cuộc thoại đƣợc xác
định bởi sự gặp mặt và sự chia tay của hai ngƣời hội thoại, nói chung một
cuộc thoại đƣợc xác định bởi sự đƣơng diện liên tục của những ngƣời hội
thoại. Khi số lƣợng hay tính chất của ngƣời hội thoại thay đổi thì chúng ta có
cuộc thoại mới.
Thứ hai, tính thống nhất về thời gian và địa điểm: tiêu chí này cũng có
chỗ hạn chế: một cuộc thoại giữa hai ngƣời có thể chuyển chỗ hoặc có thể
đƣợc gác lại sang một ngày khác chừng nào mà họ thấy chƣa kết thúc đƣợc.
Thứ ba, tính thống nhất về đề tài diễn ngôn: một cuộc thoại phải theo
một hƣớng nhất định từ đầu cho đến kết thúc.
Thứ tƣ, ranh giới cuộc thoại: thông thƣờng có những dấu hiệu mở đầu
cuộc thoại (nhƣ ở cuộc họp ngƣời điều khiển có thể tuyên bố khai mạc, tuyên
bố đề tài) và dấu hiệu kết thúc (tuyên bố bế mạc). Trong trò chuyện thông
thƣờng, giữa những ngƣời lạ, dấu hiệu mở đầu có thể là lời chào hỏi, dấu hiệu
kết thúc có thể là những câu nhƣ: còn gì nữa không? hay thế thôi nhé.
b, Đoạn thoại
Về nguyên tắc có thể định nghĩa đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do
một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ
dụng. Về ngữ nghĩa, đó là sự liên kết chủ đề. Về ngữ dụng, đó là tính duy
nhất về đích.

Thực ra việc phân định đoạn thoại cũng không thật rành mạch.Tuy
nhiên, đây vẫn là đơn vị có thực dù đƣờng ranh giới có mơ hồ và nhiều khi sự
phân định vẫn phải dựa vào trực cảm và võ đoán.
c, Cặp thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

23
Cặp thoại là đơn vị lƣỡng thoại nhỏ nhất của cuộc thoại do các tham
thoại tạo nên. Căn cứ vào số lƣợng các tham thoại, ngƣời ta phân ra thành các
loại cặp thoại sau:
- Cặp thoại một tham thoại:
Nhƣ đã nói cặp thoại về nguyên tắc phải có hai tham thoại của hai nhân
vật giao tiếp. Cặp thoại một tham thoại là trƣờng hợp tham thoại Sp1 không
đƣợc Sp2 hƣởng ứng hồi đáp bằng một hành vi tƣơng ứng. Chẳng hạn:
- Sp1: Chào cháu. Cháu năm nay bao nhiêu tuổi?
- Sp2: Cháu 7 tuổi.
Trong tham thoại của Sp1 hành vi chào không có tham thoại hồi đáp
tƣơng ứng của Sp2. Sp2 chỉ đáp lại hành vi hỏi của Sp1. Có thể nói ở đây
chúng ta gặp một tham thoại hẫng nhƣng rất hay gặp trong thực tế hội thoại.
- Cặp thoại hai tham thoại (cặp thoại đôi) là cặp thoại gồm hai tham
thoại. Tham thoại thứ nhất đƣợc gọi là tham thoại dẫn nhập, tham thoại thứ
hai đƣợc gọi là tham thoại hồi đáp.
- Cặp thoại ba tham thoại (cặp thoại ba):
Về nguyên tắc, cặp thoại đủ chỉ cần hai tham thoại. Tuy nhiên, trong
thực tế, có những cặp thoại nhƣ:
- Sp1: Làm gì đấy?
- Sp2: Nấu cơm.
- Sp1: Nấu cơm à!
Tham thoại thứ ba do sp1 phát ra có tính chất đóng lại cặp thoại đó để
mở ra một cặp thoại mới.

d, Tham thoại
Tham thoại là đơn vị đơn thoại. Về cấu tạo, tham thoại do một hay
một số hành vi ngôn ngữ tạo nên. Một tham thoại có một hành vi chủ hƣớng
và có thể có một hoặc một số hành vi phụ thuộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

24
Hành vi chủ hƣớng là hành vi trụ cột, quyết định hƣớng của tham
thoại và quyết định hành vi đáp thích hợp của ngƣời đối thoại. Hành vi phụ
thuộc thì chỉ có tác dụng giải thích, bổ sung…
e, Hành vi ngôn ngữ
Hành vi ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Các ứng
xử bằng lời đều căn cứ vào hành vi ngôn ngữ đi trƣớc, không phải căn cứ vào
các đơn vị ngữ pháp thông thƣờng nhƣ từ và câu. Vì vậy hành vi ngôn ngữ
cần phải đƣợc xem xét trong hội thoại.
Vai trò và chức năng của hành vi ngôn ngữ là nằm trong mạng lƣới
hội thoại. Tức là nó không chỉ có vai trò và chức năng trong quan hệ một lần
giữa ngƣời nói với ngƣời nghe mà qua trọng hơn là vai trò chức năng ấy còn
thuộc quan hệ giữa các lời thoại tổ chức nên tham thoại, cặp thoại và tác
động liên tục lên các nhân vật giao tiếp trong từng thời điểm tạo nên cuộc
thoại. Căn cứ quan hệ này ngƣời ta chia hành vi ngôn ngữ ra làm hai loại:
hành vi ngôn ngữ chủ hƣớng và hành vi ngôn ngữ phụ thuộc gọi tắt là hành vi
chủ hƣớng và hành vi phụ thuộc.
Ví dụ:
A: Đƣờng thì xa mà trời thì mƣa quá!
B: Cậu yên tâm chƣa vào lớp đâu.
Cặp thoại trên đƣợc cấu tạo bởi hai tham thoại của A và của B. Tham
thoại của A không chỉ là một lời thông báo mà hành vi chủ hƣớng của nó là
hành vi bày tỏ, bào chữa, giải thích vì sao tới muộn. Vì hành vi chủ hƣớng là
vậy nên đáp lại lời của A, tham thoại của B là hành vi an ủi, chứ không phải

là hành vi hồi đáp cho hành vi phụ thuộc (hành vi thông báo là đƣờng xa và
trời mƣa).
1.1.2.3. Các quy tắc hội thoại
Hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất định. Hội thoại gồm có
những quy tắc sau: quy tắc điều hành luân phiên lƣợt lời, quy tắc chi phối cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

25
trúc hội thoại, quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân, quy tắc điều hành nội
dung hội thoại.
a. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Các quy tắc điều hành sự luân phiên lƣợt lời gồm một hệ thống những
điều khoản nhƣ sau:
Thứ nhất, vai nói và vai nghe thƣờng xuyên thay đổi nhau trong một
cuộc thoại. Theo điều khoản này thì một cuộc thoại lý tƣởng là cuộc thoại có
sự cân bằng về lƣợt lời.
Thứ hai, mỗi lần chỉ có một ngƣời nói.
Thứ ba, cần có dấu hiện báo trƣớc sự kết thúc lƣợt lời.
Thứ tƣ, giữa hai lƣợt lời phải đảm bảo khoảng thời gian cho phép,
không đƣợc quá lâu, không đƣợc quá nhanh giữa hai lƣợt lời.
Thứ năm, trật tự nói trƣớc sau nói sau của các vai không cố định, trái
lại luôn thay đổi. Do đó một số phƣơng tiện đƣợc dùng để chỉ định và phân
phối lƣợt lời là cần thiết.
Việc chỉ định và phân phối lƣợt lời tất nhiên không đặt ra đối với những
cuộc song thoại đối mặt. Ở những cuộc thoại này, thông thƣờng ngƣời đang nói
nói xong thì ngƣời nói sau sẽ tiếp lời. Nếu nhƣ ngƣời đang nói nói xong mà
ngƣời nói sau không nói hoặc kéo quá dài quãng ngừng thì ngƣời đang nói hoặc
phải tiếp tục nói hoặc tìm cách khơi gợi để cho ngƣời nói sau nói.
b.Quy tắc điều hành nội dung hội thoại
Nội dung của một cuộc hội thoại đƣợc phân phối thành nội dung của

các lƣợt lời. Quy tắc luân phiên lƣợt lời có mục đích phục vụ cho sự phát triển
của vấn đề mà cuộc hội thoại chấp nhận làm nội dung. Không thể có một cuộc
hội thoại mà sự liên hoà phối các lƣợt lời đƣợc đảm bảo một cách hoàn hảo
nhƣng nội dung của các lƣợt lời lại không tƣơng ứng. Bởi vậy, một cuộc hội
thoại còn cần đến những quy tắc điều hành nội dung của nó, đúng hơn là điều
hành quan hệ giữa nội dung các lƣợt lời tạo nên cuộc hội thoại đó.

×