Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
DƢƠNG HƢƠNG LAN
ĐẶC ĐIỂM TỪ XƯNG HÔ QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM TẮT ĐÈN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
DƢƠNG HƢƠNG LAN
ĐẶC ĐIỂM TỪ XƯNG HÔ QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TÁC PHẨM TẮT ĐÈN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS -TS. Đoàn Văn Phúc
Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ, em đã được
sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo.
Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS Đoàn Văn Phúc -
Người đã hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của thầy, cô
giáo trong Viện ngôn ngữ, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn và khoa sau
Đại học - Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã đọc và chỉ ra
những thành công và hạn chế của luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2012
Học viên: Dƣơng Hƣơng Lan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Dƣơng Hƣơng Lan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt iii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 7
1.1. Vấn đề hội thoại và lời thoại 7
1.1.1. Khái niệm hội thoại 7
1.1.2. Lời thoại nhân vật 8
1.2. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô trong hội thoại 9
1.2.1. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô 9
1.2.2. Sử dụng từ xưng hô trong hội thoại 12
1.3. Từ xưng hô trong tiếng Việt 15
1.3.1. Từ xưng hô chuyên dụng - đại từ nhân xưng 15
1.3.2. Từ xưng hô không chuyên dụng 16
1.4. Nhân vật và ngôn ngữ nhân vật trong hội thoại 17
1.4.1. Khái niệm nhân vật 17
1.4.2. Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả 19
1.5. Vài nét về Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn 20
1.5.1. Vài nét về Ngô Tất Tố 20
1.5.2. Về tác phẩm Tắt đèn 21
1.5.3. Tình hình nghiên cứu về Tắt đèn 22
1.6. Tiểu kết 23
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO, CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƢNG HÔ
QUA LỜI THOẠI NHÂN VẬT TRONG TẮT ĐÈN 25
2.1. Các yếu tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
2.1.1. Không gian 25
2.1.2. Thời gian 29
2.2. Đặc điểm cấu tạo TXH qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn 30
2.2.1. Kết quả thống kê định lượng 30
2.2.2. Kết quả thống kê định tính 41
2.3. Đặc điểm sử dụng từ xưng hô qua lời thoại nhân vật 53
2.3.1. Một từ xưng hô được dùng ở các ngôi khác nhau 53
2.3.2. Từ thân tộc dùng làm từ xưng hô ngoài xã hội 55
2.3.3. Các TXH biểu hiện thái độ, tình cảm của nhân vật giao tiếp 57
2.3.4. TXH thay đổi theo diễn biến nội dung cuộc thoại 60
2.3.5. Dùng từ xưng hô phản ánh quan hệ giai cấp 66
2.3.6. Dùng từ xưng hô thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày . 68
2.3.7. Dùng từ xưng hô thuộc phương ngữ Bắc Bộ 70
2.4. Vai trò của TXH qua lời thoại nhân vật trong Tắt đèn 71
2.4.1. Định vị xã hội 71
2.4.2. Thể hiện quan hệ liên cá nhân 75
2.4.3. Dựng lại bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945 76
2.5. Tiểu kết 80
Chƣơng 3. SO SÁNH CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ QUA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TẮT ĐÈN VÀ TRUYỆN NGẮN NAM CAO 82
3.1. Dẫn nhập 82
3.2. Những tương đồng và khác biệt về việc sử dụng TXH qua lời thoại
nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn và truyện ngắn Nam Cao 84
3.2.1. Những tương đồng 84
3.2.2. Những khác biệt 93
3.3. Tiểu kết 100
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
DANH MỤC VIẾT TẮT
TXHCD
:
Từ xưng hô chuyên dụng
ĐTCĐ
:
Đại từ chỉ định
TXH
:
Từ xưng hô
TTT
:
Từ thân tộc
ĐTNX
:
Đại từ nhân xưng
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, từ xưng hô (TXH) là yếu tố đầu tiên
mà các vai giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Do đó, sử
dụng TXH không chỉ giúp cuộc hội thoại được tiến hành mà còn ảnh hưởng
tới hiệu quả giao tiếp. Qua cách sử dụng TXH người ta có thể biết được tình
cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn của các nhân vật tham gia giao
tiếp. Tìm hiểu TXH không phải là cách tiếp cận cấu trúc luận ngôn ngữ đơn
thuần mà trong tiếng Việt, TXH rất đa dạng và phong phú về chủng loại, linh
hoạt và giàu màu sắc biểu cảm trong sử dụng. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên
cứu TXH có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để tìm hiểu khám phá thế giới
hình tượng, làm sáng tỏ tâm lý nhân vật và các lớp nội dung ý nghĩa của văn
bản nghệ thuật, từ đó, khẳng định những thành tựu và đóng góp của nhà văn
cho nền văn học dân tộc.
Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán và
là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Chỉ với ba thập kỉ cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn chương
phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện kí
lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí… và ở thể loại nào ông cũng
để lại những dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là
tiếng nói đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo mà còn thể
hiện tấm lòng yêu thương đối với nhân dân lao động. Năm 1996, Nhà nước đã
trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho di sản văn học của Ngô Tất Tố.
Trong gần một thế kỉ qua, kể từ tác phẩm đầu tiên “Cẩm hương đình”
ra đời (1932), sự nghiệp văn học của Ngô Tất Tố đã thu hút sự quan tâm, yêu
mến của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và đông đảo công chúng. Kết
quả là đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ông. Song, hầu hết các công trình đó mới chỉ đề cập đến những vấn đề như
cách đặt tiêu đề, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ đôí
thoại… Việc tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ nói chung, đặc biệt việc nghiên cứu
về từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố
đến nay dường như còn bỏ ngỏ.
Tiếp cận tiểu thuyết Tắt đèn để tìm hiểu đặc điểm TXH qua lời thoại
nhân vật nhằm góp thêm một tiếng nói khẳng định những cống hiến của Ngô
Tất Tố đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Mặt khác, việc thực hiện đề
tài này sẽ là một gợi dẫn bổ ích cho việc khai thác giá trị của một tác phẩm
văn học thông qua hệ thống TXH trong lời thoại nhân vật.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và tiến hành nghiên cứu
đề tài: Đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về từ xưng hô tiếng Việt
Từ lâu, TXH đã trở thành lĩnh vực được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học quan tâm từ góc độ đại cương đến tiếng Việt, từ phương diện miêu tả đến
đối chiếu lẫn dụng học. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
TXH. Các tác giả đi theo ba hướng nghiên cứu:
- Bàn về TXH ở góc độ lý luận chung.
- Bàn về TXH được sử dụng trong phạm vi gia đình và xã hội.
- TXH được nghiên cứu từ góc độ đối chiếu.
Về hướng thư nhất có thể kể đến công trình nghiên cứu Grammaire de
la lenggua annamite, Trương Vĩnh Kí đã dành 30 trang để nói về đại từ, trong
đó là đại từ nhân xưng. Theo Nguyễn Phú Phong (1996) thì “cho đến nay,
người đã cung cấp một bảng đại danh từ nhân xưng sớm nhất và đầy đủ nhất
… là Trương Vĩnh Ký”.
Trong công trình Studies in Vietnamese Grammar (Ngữ pháp tiếng
Việt, 1951), tác giả M.B. Emeneau đã dành nhiều trang viết về đại từ. Ông tập
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trung bàn về đại từ xưng hô và chú ý nhiều đến nhóm từ xưng hô lâm thời
(TXHLT) có nguồn gốc danh từ.
Các nhà Việt ngữ học cũng có những công trình nghiên cứu về TXH
Các tác giả Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Nguyễn Kim Thản
(1963)… đã nhấn mạnh vào chức năng trỏ hay thay thế của đại từ nhân xưng
(ĐTNX). Đỗ Hữu Châu (trong các công trình viết năm1982, 1986, 1987) đã
chú ý đến chức năng chiếu vật của các TXH trong hội thoại.
Gần đây, một số tác giả như Nguyễn Văn Chiến, Đố Hữu Châu, Bùi
Minh Yến chú trọng đến nghiên cứu hoạt động hành chức của các TXH. Bùi
Minh Yến với hàng loạt bài viết trên Tạp chí, với luận án Từ xưng hô trong
gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người Việt (2002) đã khảo sát đầy đủ
tất cả các phương tiện ngôn ngữ mà các cặp giao tiếp cá thể sử dụng trong
những tình huống giao tiếp khác nhau. Lê Thanh Kim (2002) lại nghiên cứu
về Từ xưng hô và cách xưng hô trong phương ngữ tiếng Việt. Trương Thị
Diễm (2002) đã miêu tả khảo sát toàn diện đặc điểm của TXH có nguồn gốc
từ thân tộc trong giao tiếp của người Việt.
Theo hướng thứ ba, vài chục năm trở lại đây, một số người đã tiến hành
nghiên cứu đối chiếu TXH tiếng Việt với các ngôn ngữ khác: tiếng nước
ngoài, tiếng dân tộc thiểu số… Đó là các ông trình nghiên cứu của Nguyễn
Văn Chiến (1992), Hoàng Anh Thi (2001), Dương Thị Nụ (2003), Nguyễn
Minh Hoạt (2007)…
Như thế, chúng ta thấy, hướng nghiên cứu từ xưng hô trong tác phẩm
văn học chưa được giới nghiên cứu quan tâm chú ý. Gần đây, Mai Thu
Hương (2007) đã nghiên cứu về Từ xưng hô trong truyện ngắn Nam Cao.
Song, theo chúng tôi được biết, đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu
về từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2. Về việc nghiên cứu tác phẩm Tắt đèn
Nhắc đến Ngô Tất Tố, người ta không thể không nhớ đến những tác
phẩm trong dòng văn học hiện thực phê phán, trong đó nổi bật là tác phẩm
Tắt đèn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã trở thành tài liệu nghiên cứu cho giới
nghiên cứu phê bình. Trong số những công trình đó là sự nghiên cứu về bình
diện văn học và bình diện ngôn ngữ.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chúng
tôi thấy các công trình tập trung làm sáng tỏ một số phương diện như: Cách
thức tổ chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết, các phương tiện đặc trưng trong
ngôn ngữ nghệ thuật, thành ngữ, đồng nghĩa trong tiểu thuyết Tắt đèn Đó là
các công trình của Lê Thị Hoàn (2005), Nguyễn Thị Huệ (2010), Nguyễn Thị
Nguyệt (2008)
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài “Đặc điểm từ xưng hô qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt
đèn” nhằm tìm hiểu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm thông qua
việc sử dụng các TXH (bao gồm ĐTNX và lớp TXH) cũng như đặc điểm ngữ
nghĩa, ngữ dụng của chúng trong các hoàn cảnh giao tiếp. Chính điều này đã
làm nên giá trị nghệ thuật khi Ngô Tất Tố xây dựng các hình tượng nhân vật
trong tác phẩm của mình. Đồng thời, luận văn sẽ so sánh và chỉ ra những
tương đồng và khác biệt qua cách sử dụng TXH trong tác phẩm Tắt đèn của
Ngô Tất Tố để tạo nên hình ảnh một "người đàn bà lực điền" dám phản kháng
và chống lại một tầng lớp quan lại nông thôn của xã hội phong kiến Việt Nam
trước cách mạng với cách xưng hô của nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao
để xây dựng nên được những nhân vật "anh Chí", "cụ Bá"
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có ba nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu, tập hợp cơ sở lý luận về vấn đề TXH (trong lí
luận đại cương và tiếng Việt), lời thoại.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thứ hai, miêu tả TXH, đặc điểm sử dụng TXH qua lời thoại nhân vật
trong Tắt đèn (thông qua thống kê định lượng và định tính), đồng thời xác
định chức năng của TXH qua lời thoại nhân vật, cũng như chỉ ra các đặc điểm
ngữ nghĩa của TXH mà Ngô Tất Tố sử dụng trong tác phẩm.
Thứ ba, so sánh những tương đồng và khác biệt cách sử dụng TXH qua
lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố với các truyện ngắn
của Nam Cao để thấy được đặc điểm phong cách ngôn ngữ của hai nhà văn
hiện thực phê phán khi xây dựng nhân vật.
4. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu các TXH (qua lời thoại nhân vật) mà thực
chất là cách sử dụng TXH trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Khi so
sánh những tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng TXH trong Tắt đèn
của Ngô Tất Tố với truyện ngắn Nam Cao, chúng tôi cũng nghiên cứu một số
truyện ngắn của Nam Cao để có ví dụ so sánh, minh họa, còn chủ yếu dựa vào
kết quả nghiên cứu của chị Mai Thị Hương [25].
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết áp dụng một số phương pháp, thủ pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Trên cơ sở các tư liệu thu thập được, chúng tôi
sử dụng các thủ pháp luận giải bên trong và luận giải bên ngoài để tiến hành
thống kê, phân loại, hệ thống hóa các TXH trong tác phẩm Tắt đèn thành các
nhóm, các tiểu hệ thống cho việc miêu tả, nhận xét và phân tích để từ đó
miêu tả đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của chúng qua lời thoại nhân
vật. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các thủ pháp thống kê, tâm lý, văn
hóa để lý giải các từ này trên bình diện văn hóa.
- Phương pháp so sánh cũng được sử dụng khi so sánh giá trị ngữ nghĩa,
ngữ dụng của các TXH trong tiếng Việt với các từ này trong tác phẩm Tắt đèn
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của Ngô Tất Tố hay so sánh các TXH trong tác phẩm Tắt đèn với các truyện
ngắn của Nam Cao.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, đề tài còn áp dụng một số phương
pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác: Phương pháp quy nạp, diễn
dịch vốn là những phương pháp của tư duy lôgíc cũng được áp dụng.
6. Đóng góp mới của luận văn
Lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu tương đối đầy đủ về đặc điểm
của TXH qua lời thoại nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn theo hướng tiếp cận
ngôn ngữ học. Luận văn góp phần làm sáng tỏ đặc điểm TXH trong tiếng Việt
thông qua việc sử dụng chúng trong lời thoại nhân vật ở một tác phẩm cụ thể,
ở một tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Đồng thời, việc
thực hiện đề tài này sẽ là một gợi dẫn bổ ích cho việc khai thác giá trị của một
tác phẩm văn học thông qua hệ thống TXH qua lời thoại nhân vật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng để biên
soạn các tài liệu phục vụ cho việc dạy học tiếng Việt, về đặc điểm TXH trong
tác phẩm văn học nói riêng, cũng như việc dạy-học tác phẩm văn chương
trong trường phổ thông nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo, cách sử dụng từ xưng hô qua lời thoại
nhân vật trong tác phẩm Tắt đèn.
Chương 3: So sánh cách sử dụng từ xưng hô qua lời thoại nhân vật
trong tác phẩm Tắt đèn và truyện ngắn Nam Cao.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vấn đề hội thoại và lời thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là phương tiện phổ biến và cơ bản nhất để dẫn dắt công việc
của con người. Đồng thời, giao tiếp hội thoại cũng là hoạt động cơ bản của
hoạt động ngôn ngữ, một trong những vấn đề chính được ngữ dụng học quan
tâm, là một trong những bộ phận chủ yếu của Ngữ dụng học vĩ mô. Nhiều nhà
Việt ngữ học đã bàn tới vấn đề hội thoại. Qua các cách trình bày, định nghĩa
về vấn đề hội thoại, các nhà Việt ngữ học đều nêu lên những đặc điểm cơ bản
nhất của hội thoại. Những đặc điểm này cũng được tác giả Nguyễn Đức Dân
[8;80], Nguyễn Thiện Giáp [16; 219-221)] nêu ra và trình bày với hai đặc
điểm là đặc điểm bên trong (nội tại) và đặc điểm bên ngoài.
Theo ông, đặc điểm nội tại của hội thoại bao gồm:
1. Sự tương tác qua lại (nguyên tắc luân phiên lượt lời).
2. Sự liên kết (nguyên tắc liên kết hội thoại).
3. Tính mục đích.
4. Nguyên lý hội thoại (nguyên lý cộng tác và nguyên lý tế nhị).
Những đặc điểm bên ngoài của hội thoại gồm:
1. Về số lượng người tham dự.
2. Về quan hệ giữa những người tham dự.
3. Về chu cảnh của những cuộc thoại (thời gian và không gian)
Tác giả cũng đưa ra những lưu ý về không gian hội thoại: sự có mặt của
người đối thoại có tầm quan trọng đáng kể trong hội thoại. Theo quan điểm
ngữ dụng, sự có mặt hiện thực hoặc tưởng tượng cuả người đối thoại là yếu tố
cần thiết cho việc dùng ngôn ngữ được bình thường trong quá trình hội thoại.
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Có những câu hỏi, câu chào, câu gọi, câu cầu khiến, có những đại từ như này,
kia, ấy, nọ… mà sự quy chiếu của chúng liên quan đến người nói, người nghe,
ngữ cảnh, sự định hướng không gian.
Gần đây, Nguyễn Thiện Giáp [16; 219-221] cũng giải thích khá kĩ về
khái niệm này cũng như đặc điểm của hội thoại. Dưới đây là một vài ý kiến cụ
thể của các nhà nghiên cứu về vấn đề này.
Theo Nguyễn Như Ý thì: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời, ở
dạng nói, giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và
liên cá nhân theo đích được đặt ra.” [40;122]
Còn theo Đỗ Hữu Châu, “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động
ngôn ngữ khác.” [4;20]
Còn Nguyễn Đức Dân, “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói, bên kia
nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi. Bên nghe lại
trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại. Hoạt động
giao tiếp phổ biến và căn bản nhất của con người là hội thoại…” [8;76].
Hay Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng "mỗi cuộc thoại đều diễn ra vào lúc
nào đó, ở đâu đó, trong hoàn cảnh nào đó. Nhân tố ngữ cảnh có vai trò to lớn
trong việc tạo lập và lĩnh hội các phát ngôn trong hội thoại". [16 ;219-220].
1.1.2. Lời thoại nhân vật
Lời thoại nhân vật có thể là độc thoại, có thể là đối thoại.
Theo tác giả Lê Bá Hán, “Đối thoại là cuộc giao tiếp song phương mà
lời này xuất hiện như một phản ứng đáp lại lời nói của đối phương giao tiếp.
Lời đối thoại có sự tiếp xúc phi quan phương và không công khai, không bị
thúc trong không khí bình đẳng của người đối thoại. Lời đối thoại thường kèm
theo các động tác cử chỉ biểu cảm và tạo nên bởi phát ngôn của nhiều
người.”[17;159]
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cũng theo tác giả Lê Bá Hán, “Độc thoại là hình thức thoại không đòi
hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận và được thể hiện
thoải mái cả trong hình thức nói lẫn viết” [17;159].
Tính độc thoại có biểu hiện bên ngoài là một dòng lời nói liên tục,
không hề bị ngắt quãng bởi những lời nói của người khác. Độc thoại được
phân làm hai loại: độc thoại cô lập và độc thoại có hướng.
Trong tác phẩm văn học, lời thoại có vai trò rất quan trọng. Thông qua
ngôn ngữ nhân vật trong những cuộc giao tiếp, tính cách nhân vật được bộc lộ
rõ nét. Không chỉ có thế, thông qua lời nói của nhân vật, người đọc còn có thể
cảm nhận được tính cách, trình độ văn hóa và kinh nghiệm sống của nhân vật.
Ngôn ngữ của nhân vật khi giao tiếp còn thể hiện đời sống nội tâm phong phú
của nhân vật, những diễn biến tâm lý, tình cảm theo suốt cuộc đời nhân vật.
Thông qua nhân vật và những cuộc thoại mà nhân vật tham gia, các tác
giả thường thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Có thể nói ngôn ngữ nhân
vật chính là bức thông điệp mà nhà văn gửi tặng lại độc giả. Ngôn ngữ nhân
vật góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
1.2. Khái niệm xƣng hô và từ xƣng hô trong hội thoại
1.2.1. Khái niệm xưng hô và từ xưng hô
Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong giao tiếp ở tất
cả các cộng đồng người. Theo Từ điển tiếng Việt [Hoàng Phê, 1997] thì xưng
hô là ''tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị
tính chất của mối quan hệ với nhau''. Xưng hô là một bộ phận của lời nói. Nó
được biểu thị qua giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội.
Xưng là một hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa
mình vào cuộc thoại, để người nghe biết rằng mình đang nói và chịu trách nhiệm
về lời nói của mình. Đây là hành động tự quy chiếu của người nói (ngôi 1).
Hô là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa người
nghe vào trong cuộc thoại. Hô được hiểu là tập hợp những biểu thức mà
người nói dùng để chỉ người đối thoại với mình.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đặc điểm của xưng hô là phải có sự hiện diện của người nói và người
nghe. Có thể nói, trong bất kỳ một cuộc giao tiếp nào không thể thiếu được từ
xưng và từ hô. Ngay cả khi trong trường hợp vắng mặt (zezo), cũng có thể coi
là một sự có mặt không hiện hữu mang tới một ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên,
do ngôn ngữ của một dân tộc phản ánh và thể hiện đặc điểm tư duy, văn học,
phong tục, truyền thống riêng của dân tộc đó, nên việc đánh giá về sự xuất
hiện hay không xuất hiện từ xưng hô cũng như cách xưng và hô là có khác
nhau. Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao khi giao tiếp bằng
ngoại ngữ, người ta thường ít nhiều mang thói quen lối tư duy bản ngữ vào
việc sử dụng TXH trong câu, như dùng TXH vào trong những câu (đáng lẽ
không cần dùng TXH) và không dùng TXH trong những câu (đúng là phải
dùng TXH). Ngay trong một dân tộc, giao tiếp bằng ngôn ngữ của một dân
tộc đó, ở mỗi giai đoạn lịch sử và ở các cộng đồng nói năng khác nhau do
nhiều lý do khác nhau mà cũng có cách xưng hô khác nhau và nhìn nhận khác
nhau về cách xưng hô.
Cần phân biệt xưng hô và xưng gọi. Nếu như xưng gọi là một phát ngôn
của người nói (thường chỉ là một lần trong hội thoại) hướng vào người nghe để
người nghe biết được người hô gọi muốn thực hiện cuộc hội thoại với anh ta thì
xưng hô là một hoạt động ngôn từ diễn ra thường xuyên liên tục trong cuộc
thoại, nó được diễn tiến qua ngôn ngữ của các nhân vật tham gia hội thoại.
Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ đều có hệ thống TXH và có cách dùng chúng,
để một mặt thực hiện chức năng xưng gọi, mặt khác thể hiện được những đặc
điểm văn hoá giao tiếp của dân tộc đó. TXH, từ trước tới nay đã được nhiều
nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm ở hai bình diện cấu trúc và chức năng.
Với sự phát triển của ngôn ngữ học theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong
hoạt động hành chức, trước hết là hành chức trong giao tiếp, vấn đề xưng hô
được xem xét trong phạm vi rộng hơn. Nó không còn là vấn đề thuần tuý
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trong ngôn ngữ học cấu trúc, mà còn là vấn đề của ngữ dụng học, của xã hội
ngôn ngữ học, của vấn đề ngôn ngữ học xuyên văn hoá, Hiện nay, các lý
thuyết hội thoại, ngữ dụng học, văn hoá học, đã rọi nhiều ánh sáng, từ đó
định ra nhiều hướng tìm hiểu mới cho việc nghiên cứu TXH. Rõ ràng, việc
nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở mặt cấu trúc mà còn mở hướng
nghiên cứu ở các mặt chức năng, ngữ dụng học.
Xưng hô trong tiếng Việt chịu áp lực mạnh mẽ của sự chuẩn mực xã
hội. Chuẩn mực xã hội quy định việc lựa chọn TXH. Đối với tiếng Việt, vận
dụng khái niệm quyền thế và liên kết để xem xét cách xưng gọi trong giao
tiếp khác với một số ngôn ngữ Ấn Âu. Các từ dùng để xưng hô trong giao tiếp
tiếng Việt bao gồm không chỉ các ĐTNX gốc mà còn có rất nhiều từ thuộc từ
loại khác chuyển sang, trong đó đáng chú ý là nhóm TTT. Cùng với một số từ
xưng gọi khác, các TTT có đặc điểm đáng lưu ý là, chúng vừa dùng để ''xưng''
vừa dùng để ''hô'' (gọi khách thể giao tiếp) cả trong giao tiếp gia đình lẫn
trong giao tiếp xã hội. Hầu hết các TXH tiếng Việt được phân bố cách sử
dụng theo thang độ quyền thế, kết liên, lịch sự ở cả trong ''xưng'' lẫn ''gọi''.
Vì thế, thông qua cách sử dụng từ xưng hô có thể thấy được thái độ, quan
điểm của các thành viên tham gia giao tiếp. Trong giao tiếp có rất nhiều yếu
tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ xưng hô. Và, ngay trong mối quan hệ giữa
''xưng'' và ''hô'' cũng hình thành nên hai mối quan hệ: mối quan hệ tương hỗ
và mối quan hệ phi tương hỗ.
Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ và là một hành vi ở lời bởi hành vi ở
lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng.
Hiện nay nhiều nhà Việt ngữ đã dùng thuật ngữ Từ xưng hô gồm nhiều
từ loại khác nhau để chỉ các từ, ngữ, các cấu trúc ngôn ngữ dùng để trỏ người
trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng nói và viết. Với quan điểm này, hệ
thống TXH trong tiếng Việt được chia làm hai nhóm, gồm:
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
a) Nhóm TXH chuyên dụng (các ĐTNX).
b) Nhóm từ (ngữ) xưng hô không chuyên dụng (từ, ngữ thuộc các từ
loại khác nhau được lâm thời dùng để xưng hô).
Rõ ràng, khái niệm TXH có ngoại diên rộng hơn ĐTNX. Trong hệ
thống TXH, ngoài các ĐTNX chuyên dụng còn có lớp TXH lâm thời phong
phú và đa dạng đáp ứng được nhu cầu giao tiếp của con người và biểu hiện rõ
nhiều nét đặc trưng trong văn hoá ứng xử của cộng đồng dân tộc.
Các nhà Việt ngữ có những ý kiến khác nhau về phạm trù xưng hô.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu thì: “Phạm trù xưng hô hay phạm trù ngôi
bao gồm những phương tiện chiếu vật, nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự
đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối
xứng) vào diễn ngôn. Như thế phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay
trong cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là lời nói.”[4;73]. Còn
Nguyễn Văn Chiến lại quan niệm “Hệ thống xưng hô là những từ được “rút
ra” từ trong hệ thống ngôn ngữ, dùng để xưng hô (biểu thị các phạm trù xưng
hô nhất định) giao tiếp xã hội.”[6;41]. Thế nhưng, Nguyễn Thị Trung Thành
thì lại coi: “Từ xưng hô là toàn bộ những đơn vị từ vựng được dùng để người
nói tự xưng, để gọi người giao tiếp với mình và để chỉ người thứ ba vắng mặt
trong cuộc giao tiếp. Còn đại từ xưng hô là một từ loại, hay chính xác hơn là
một bộ phận của từ loại đại từ được dùng để xưng hô” [39;3]
Như vậy các tác giả đều chỉ ra những đặc điểm của phạm trù xưng hô
và TXH. Đồng thời, TXH được dùng trong giao tiếp, hội thoại giữa các ngôi
thứ nhất (người nói) và ngôi thứ hai (người nghe). Còn ngôi thứ ba chỉ là đối
tượng được nhắc đến trong khi ngôi thư nhất và ngôi thứ hai nói chuyện, nên
không sử dụng TXH.
1.2.2. Sử dụng từ xưng hô trong hội thoại
Các TXH được các nhân vật trong hội thoại sử dụng một cách không cố
định, bất biến mà luôn biến đổi. Các ngôi trong giao tiếp luôn luôn đổi vai và
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đổi ngôi cho nhau. Không chỉ có thế, các TXH còn bộc lộ thái độ, tình cảm
của người nói. Các TXH thay đổi theo tâm trạng vui, buồn, hứng thú, phấn
khích hay chán nản của người nói. Ví dụ:
“- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho.
(…)- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
(…) - Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! ” [37; 122]
Việc sử dụng TXH phản ánh đạo đức, trình độ văn hóa, thái độ, sự hiểu
biết của các vai giao tiếp. Vì vậy, khi xưng hô phải có sự hiểu biết lẫn nhau về
độ tuổi, quan hệ gia đình, quan niệm sống, sở thích cá nhân, quan hệ xã hội,
nghề nghiệp để giao tiếp đúng và đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Một câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu cách xưng hô trong giao tiếp ?
Người ta có thể quy thành một số kiểu xưng hô thường gặp trong giao
tiếp như sau:
a) Xưng hô bằng các từ dùng để xưng hô, gồm:
1. Các từ là ĐTNX.
2. Các từ thân tộc (TTT) dùng làm TXH.
3. Các từ khác được dùng làm TXH.
b) Xưng hô bằng chức danh, gồm:
4. Gọi bằng một trong các chức danh.
5. Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh,
d) Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
6. Xưng hô bằng tên.
7. Xưng hô bằng họ.
8. Xưng hô bằng tên đệm + tên.
9. Xưng hô bằng họ + tên.
10. Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên.
e) Xưng hô bằng tên của những người thân thuộc như tên của chồng,
vợ, con (cách gọi thay).
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11. Gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con).
g) Xưng hô bằng sự kết hợp (6) (7) (8) (9)
12. Gọi bằng các kết hợp khác nhau (thí dụ chức danh + tên; chức
danh + họ tên; từ xưng hô + tên / họ tên )
h) Xưng hô bằng sự khuyết vắng TXH:
13. Không xuất hiện TXH trong giao tiếp (khuyết vắng TXH).
Các mối quan hệ về xưng hô trong giao tiếp phụ thuộc vào từng bối
cảnh giao tiếp cụ thể. Qua khảo sát, các tác giả đưa ra một nhận định chung
là, giữa bạn bè với nhau thường gọi bằng tên, giữa người lạ hoặc chỉ biết nhau
thì gọi bằng chức danh hoặc họ. Tuy nhiên, ranh giới này không rõ ràng.
Chẳng hạn, trong giao tiếp chỉ cần tìm thấy một mối quan hệ nhỏ nào đấy thì
sau năm phút người ta có thể chuyển từ cách gọi chức danh, họ sang gọi bằng
tên. Người ít tuổi gọi người lớn tuổi hơn bằng chức danh, họ và ngược lại,
người lớn tuổi gọi người ít tuổi hơn bằng tên. Cũng vậy, người có địa vị thấp
gọi người có địa vị cao bằng chức danh, họ/tên và ngược lại người có địa vị
cao gọi người có địa vị thấp bằng tên. Nhưng khi tuổi tác, địa vị nghề nghiệp
có sự mâu thuẫn thì địa vị nghề nghiệp được coi là nhân tố đặt lên hàng đầu.
Các TXH chủ yếu được chia thành hai loại: Các ĐTXH chuyên dụng và
các TXH lâm thời. Theo quan điểm của các nhà Việt ngữ trước đây trong các
giáo trình và sách nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Cao Xuân Hạo cho
rằng: “Bên cạnh nhóm đại từ nhân xưng đích thực dùng trong xưng hô, người
Việt còn dùng các “đại từ nhân xưng lâm thời” gồm các danh từ thân tộc,
danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp để xưng hô”[19;11]. Còn Diệp Quang Ban
quan niệm: “Bên cạnh các nhân xưng từ đích thực, trong xưng hô người Việt
còn sử dụng các lớp từ sau: Danh từ chỉ quan hệ thân tộc; danh từ chỉ chức
vụ; một số từ, tổ hợp từ khác”[1;17]. Ông cũng nhấn mạnh: “Trong xưng hô,
chính lớp từ thứ hai tức danh từ chỉ quan hệ thân tộc cho thấy rõ nhất nghĩa
liên nhân của nhân xưng từ trong tiếng Việt”[1;21]
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong thực tế giao tiếp, người Việt thường mượn các từ chỉ quan hệ gia
đình, nghề nghiệp, chức vụ, học hàm, học vị… để xưng gọi, đặc biệt là các từ
chỉ quan hệ gia đình chiếm số lượng lớn và xuất hiện trong nhiều môi trường
hoạt động của con người. Trong giao tiếp, người Việt có xu hướng “thân tộc
hóa” khi hô gọi. Bởi vì, trong giao tiếp, người nói thường hướng tới người đối
thoại với hai thái độ: lịch sự hoặc không lịch sự gắn với bốn kiểu sắc thái biểu
cảm: trang trọng, trung hòa, thân mật, suồng sã và thô tục, khinh thường.
Trong khi đó, các ĐTNX đích thực trong tiếng Việt ít mang sắc thái trung tính
chủ yếu mang sắc thái không lịch sự. Mặt khác, trong giao tiếp, xưng hô
thường thể hiện ở hai phạm vi: Xưng hô trong gia tộc và xưng hô ngoài xã
hội. Hơn nữa, điểm đặc biệt trong giao tiếp của người Việt là quan hệ giữa
người và người trong gia tộc chuyển thành quan hệ giữa người với người theo
chuẩn mực xã hội, chuẩn mực xã hội chi phối việc lựa chọn từ ngữ xưng hô
của các cá nhân trong giao tiếp.
Từ thân tộc là các từ chỉ những người trong gia đình, họ hàng thuộc các
thế hệ, lớp tuổi, thứ bậc tôn ti (riêng bốn từ: vợ, chồng, dâu, rể không dùng).
Đó là các từ: Ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, con, cháu… và
cả một số danh từ chỉ bạn bè hay ngôi thứ như: Bạn, đồng chí, ngài, vị…
được dùng trong xưng hô. Khi trở thành TXH, các từ thân tộc đã biểu thị vị trí
của các nhân vật trong giao tiếp là người nói, người nghe hay người được nói
tới. Đó chính là phạm trù ngôi. Hơn nữa, từ thân tộc không chỉ nhằm biểu thị
phạm trù ngôi mà còn nhằm thông báo gián tiếp về tuổi tác, vị thế xã hội, tình
cảm…giữa các nhân vật tham gia giao tiếp. Các phương tiện xưng hô trong
tiếng Việt.
1.3. Từ xƣng hô trong tiếng Việt
1.3.1. Từ xưng hô chuyên dụng - đại từ nhân xưng
Trong tiếng Việt, khi nói đến các TXH người ta thường nhắc tới các
nhóm từ: ĐTNX: tôi, tao, mày, nó, hắn… và được gọi là các từ xưng hô
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chuyên dụng (TXHCD) vì chức năng chính, chủ yếu là xưng hô; TTT: cha,
mẹ, ông,bà, anh, chị em… ; từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp: giáo sư, tiến sĩ,
giám đốc, bác sĩ… Các từ này được gọi là từ xưng hô lâm thời.
Trong tiếng Việt, ĐTNX có thể được phân thành 3 loại (theo các ngôi
giao tiếp):
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (chỉ người đang nói):
Số ít: tôi, tao, tớ, mình, ta.
Số nhiều: chúng tôi, chúng tao, chúng tớ.
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (chỉ người đang giao tiếp cùng):
Số ít: mày.
Số nhiều: chúng mày,chúng ta.
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (chỉ những người không tham gia giao
tiếp nhưng được nhắc đến trong cuộc giao tiếp):
Số ít: nó, hắn, y
Số nhiều: họ, chúng, chúng nó
Đại từ xưng hô chuyên dụng trong tiếng Việt không chỉ dùng để xưng
hô mà còn dùng để bày tỏ quan hệ (xấu hay tốt, chính thức hay không chính
thức, thân mật hay xa lạ) của các vai giao tiếp. Ý nghĩa trực tiếp của các
ĐTNX đựợc xác định trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể (phụ thuộc vào
văn cảnh).
1.3.2. Từ xưng hô không chuyên dụng
TXH không chuyên dụng là những từ thuộc các nhóm từ loại khác
nhưng được sử dụng như ĐTXH. Đó là các từ ngữ chỉ quan hệ thân thuộc: cụ,
ông, bà, bố, mẹ, chú, bác, thím, cô, cậu, mợ, dì, anh, chị, Nguyên tắc chung
để sử dụng các từ ngữ chỉ thân tộc từ này là căn cứ vào vai giao tiếp (vị thế
của các vai giao tiếp), tức người đóng vai giao tiếp có quan hệ với nhau như
thế nào thì sử dụng từ xưng hô như thế. Các từ ngữ chỉ thân tộc có thể được
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sử dụng để xưng hô trong gia đình, gia tộc nhưng cũng có thể sử dụng để
xưng hô trong xã hội. Trong giao tiếp xã hội, tùy theo vị thế xã hội và mối
quan hệ liên cá nhân giữa các vai giao tiếp mà người tham gia giao tiếp lựa
chọn những cách xưng hô thích hợp.
Một số từ ngữ được dùng để xưng hô một cách chính thức, như bạn,
đồng chí, ngài, vị, và những từ ngữ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học
vị, như giám đốc, thủ trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, thày giáo, cô giáo, bác sĩ,
giáo sư, tiến sĩ, cũng được dùng làm đại từ chỉ ngôi (ngôi thứ hai).
Một số danh từ chỉ tên riêng của các nhân vật tham gia giao tiếp: Huệ,
Hồng, Hoa, Thơm, Nghi… Nhiều trường hợp các tên riêng của các nhân vật
được dùng kết hợp với các danh từ thân tộc, danh từ chỉ nghề nghiệp: em
Hoa, anh Nghi, bác sĩ Thơm…
ĐTNX ở ngôi thứ ba số ít có thể được tạo ra bằng cách kết hợp từ “ta”
hoặc “ấy” với các từ chỉ quan hệ thân thuộc. Ví dụ: ông ta/ông ấy, bà ta/bà
ấy, chị ta/chị ấy. Đại từ hắn cũng có thể kết hợp với ta để tạo thêm đại từ “hắn
ta” ở ngôi thứ ba.
Các TXH trong tiếng Việt rất đa dạng và mang màu sắc biểu cảm.
Người nói cần sử dụng các TXH sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp,
mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp và các mối
quan hệ liên cá nhân. Do vậy, “Từ xưng hô không chỉ là công cụ để người nói
thực hiện cái việc không thể không làm là đưa mình và người đối thoại với mình
vào diễn ngôn, mà còn là công cụ để người nói tự mình câu thúc (bó buộc) mình
và câu thúc người trong một kiểu quan hệ liên cá nhân nhất định” [4; 75].
1.4. Nhân vật và ngôn ngữ nhân vật trong hội thoại
1.4.1. Khái niệm nhân vật
Theo từ điển thuật ngữ văn học: Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác
phẩm văn học, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và đến lượt
mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm khắc họa.
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, mang tính ước lệ, qua nhân
vật nhà văn muốn phản ánh đời sống. Chức năng của nhân vật là do nhà văn
ngầm quy định. Đó có thể là chức năng khái quát quy luật cuộc sống con
người, những suy nghĩ, ước ao, kì vọng của con người cho nên nhà văn xây
dựng nhân vật là để thể hiện những cá nhân nhất định và quan niệm đánh giá
về cá nhân đó. Đó cũng có thể là chức năng khái quát tính cách số phận con
người (tính cách nhân vật là một hiện tượng xã hội lịch sử xuất hiện trong một
hiện thực khách quan - trong câu chuyện thần thoại) qua đó nhân vật dẫn dắt
người đọc đến với đời sống xã hội. Không chỉ có thế, nhiều nhân vật còn là
nơi nhà văn ký thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Nhân
vật không phải là con người thật nên không thể phán xét nó ở ngoài đờì mà
phải đặt trong mối quan hệ tình huống truyện và ý đồ của tác giả.
Các loại nhân vật trong tác phẩm văn học:
- Căn cứ vào vai trò của nhân vật trong triển khai cốt truyện:
+ Nhân vật chính: đóng vai trò chủ đạo xuất hiện nhiều trong tác phẩm,
trong câu chuyện liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm là cơ sở để
tác giả triển khai đề tài của mình.
+ Nhân vật trung tâm: là các nhân vật xuất hiệntừ đầu đến cuối tác
phẩm về mặt ý nghĩa nơi quy tụ mọi mâu thuẫn của tác phẩm thể hiện vấn đề
trung tâm của tác phẩm ấy.
+ Nhân vật phụ: những nhân vật thể hiện tính cách hoặc chỉ thấp
thoáng trong tác phẩm để làm nổi bật nhân vật chính.
- Căn cứ vào tác động của nhân vật đối với sự phát triển của xã hội
gắn với những đối kháng mâu thuẫn trong tác phẩm.
+ Nhân vật chính diện: nhân vật mang vẻ đẹp lý tưởng quan điểm tư
tưởng đạo đức tốt đẹp được khẳng định đề cao như một tấm gương về phẩm
chất cao đẹp của con người một thời.