Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

đặc điểm lời thoại nhân vật trong truyện ngắn nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.18 KB, 123 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1












































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN








ĐẶC ĐIỂM LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ










Thái Nguyên- 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN THỊ HỒNG CHUYÊN





ĐẶC ĐIỂM LỜI THOẠI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM VĂN HẢO






Thái Nguyên- 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã được sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.

TS. Phạm Văn Hảo, Viện Từ điển học và Bách khoa thư, thày đã có những định
hướng ban đầu, những lời nhận xét và chỉ dẫn quý báu trong suốt quá trình tôi thực
hiện luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất của tôi tới thầy về
những ý kiến quý báu và thời gian mà thầy đã dành cho tôi.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới tất cả những thầy cô
đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt thời gian theo
học chương trình thạc sĩ Ngôn ngữ khóa 2008 - 2010 tại trường Đại học Sư Phạm -
Đại học Thái Nguyên cũng như quá trình bắt tay vào viết và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, những bạn bè
khác đã hết lòng động viên, khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi có kết quả
cuối cùng ngày hôm nay.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Chuyên











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, là kết quả lao
động nghiêm túc, tìm tòi và kế thừa trong quá trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.


Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Chuyên

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp mới 10
7. Cấu trúc luận văn 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
1.1. Ngôn ngữ văn học 12
1.1.1. Xuất xứ 12
1.1.2. Đặc điểm của ngôn ngữ văn học 13
1.1.3. Phân loại 14
1.2. Lí thuyết về hội thoại 16
1.2.2.1. Khái niệm hội thoại 16
1.2.2.2. Vận động hội thoại 17
1.2.2.3. Cấu trúc hội thoại 18
1.3. Khái quát về phương ngữ tiếng Việt 22
1.3.1. Khái niệm phương ngữ 22
1.3.2. Đặc điểm phương ngữ tiếng Việt 23
1.3.2.1. Đặc điểm ngữ âm 24
1.3.2.2. Đặc điểm từ vựng - ngữ nghĩa 26
1.3.2.3. Đặc điểm ngữ pháp 30
1.4. Nhân vật văn học và ngôn ngữ nhân vật 32
1.4.1. Nhân vật văn học 32
1.4.2. Ngôn ngữ nhân vật 35
1.5. Đôi nét về Nguyễn Ngọc Tư 39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

Chƣơng 2: CÁCH THỂ HIỆN LỜI THOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LỜI THOẠI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ 42
2.1. Những cách biểu hiện lời thoại của nhân vật 42
2.1.1. Dựa vào hình thức thể hiện của lời thoại nhân vật 42
2.1.2. Dựa vào phương thức thực hiện chức năng giao tiếp của lời thoại nhân vật 47
2.1.2.1. Lời đối thoại của nhân vật 50
2.1.2.2. Lời độc thoại của nhân vật 52
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 57
2.2.1 Đặc điểm về ngữ âm 57
2.2.1.1.Những biến thể phát âm ở bộ phận vần 58
2.2.1.2. Những biến thể phát âm phụ âm đầu 58
2.2.2. Đặc điểm từ vựng - ngữ nghĩa 59
2.2.2.1. Từ ngữ 59
2.2.2.2. Ngữ cố định 63
.2.2. Đặc điểm về cú pháp 67
2.2.2.1. Nguyễn Ngọc Tư sử dụng tất cả các kiểu câu: câu cảm thán, câu cầu khiến,
câu trần thuật, câu nghi vấn trong việc xây dựng lời thoại nhân vật 67
2.2.2.2. Nguyễn Ngọc Tư sử dụng những cấu trúc ngữ pháp riêng của phong cách
khẩu ngữ để xây dựng lời thoại nhân vật 69
2.2.4. Biện pháp tu từ 72
2.2.4.1. Cách so sánh ví von giàu hình ảnh 72
2.2.4.2. Biện pháp nói quá, cách diễn đạt khoa trương 73
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ CỦA LỜI THOẠI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƢ 77
3.1. Lời thoại nhân vật khắc họa tính cách nhân vật 77
3.1.1. Người nông dân Nam Bộ 78
3.1.2. Nhân vật người nghệ sĩ tài tử 91
3.1.3. Nhân vật người trí thức 96
3.2. Lời thoại nhân vật góp phần thể hiện không gian Nam Bộ 99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
3.2.1. Không gian sông nước Nam Bộ 99
3.2.2. Không gian ruộng đồng Nam Bộ 103
3.2.3. Không gian sinh hoạt gia đình của người Nam Bộ 105
3.3. Lời thoại nhân vật góp phần thể hiện phong cách nhà văn 106
3.3.1. Qua lời thoại nhân vật bộc lộ rõ Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có khả năng phân
tích, lí giải bản chất con người đương đại 107
3.3.2. Qua lời thoại nhân vật, tác giả gián tiếp lý giải và chỉ ra những nguyên nhân
của vấn đề nảy sinh trong cuộc sống con người 109
3.3.3. Qua lời thoại nhân vật, ta thấy đó là cách nhìn nhận cuộc sống ở phần bản chất
với những biểu hiện sinh động như nó vốn có 110
KẾT LUẬN 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
PHỤ LỤC 119





















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác
phẩm. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu sáng tạo và là con đường để đi vào thế giới
nghệ thuật của nhà văn, còn những người nghiên cứu đi bóc tách các lớp vỏ ngôn ngữ để
thấy được giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Đối với một tác phẩm văn học, lời
thoại nhân vật là một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm
thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Bởi mỗi nhân vật có một ngôn ngữ riêng.
Nguyễn Ngọc Tư (1976) là nhà văn nữ, quê hương ở vùng đất mũi Cà Mau. Tuy
còn trẻ nhưng tác giả này đã trở thành một hiện tượng lạ gây xôn xao làng văn Việt Nam
những năm gần đây và khiến các nhà nghiên cứu, phê bình và độc giả quan tâm tốn bao
giấy mực. Với những thành quả đạt được: Giải thưởng Sáng tác Văn học tuổi 20 lần II
của Hội Nhà văn TP HCM với tập truyện ngắn đầu tay “Ngọn đèn không tắt” năm
2000; Giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật với tập truyện ngắn “Giao thừa” năm
2003 và đặc biệt “đánh ùm một tiếng” bằng tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”,
Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định được chỗ đứng cho mình trong làng văn Việt Nam. Cái
lạ cái hay trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư khá phong phú.Tuy nhiên có thể nói thế
mạnh của Nguyễn Ngọc Tư nằm ở truyện ngắn. Và nhiều người cho rằng truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư có hai cái không mới lạ là: đề tài và ngôn từ sử dụng, nhưng chính
hai cái không mới đó cộng hưởng làm nên một giọng văn mới lạ, đặc biệt. Điều người
đọc dễ nhận thấy là Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng tối đa các khả năng ngôn ngữ để diễn
đạt cao nhất điều mình muốn nói. Và vì thế người đọc chúng ta hiểu tìm được thế giới
nghệ thuật nằm ẩn sâu trong lớp ngôn từ đó thì phải bóc tách chúng. Do đó muốn đánh

giá giá trị của tác phẩm văn học ta không thể không xem xét việc nhà văn chọn lựa và sử
dụng chất liệu ấy như thế nào.
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta ngạc nhiên trước thế giới nhân vật
đa dạng, đông đảo. Mỗi nhân vật mang một diện mạo, một cá tính riêng. Thế giới nhân
vật đông đúc, phức tạp ấy chính là sự khúc xạ của cuộc sống vào văn học. Một trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
những đặc điểm nổi bật nhất, gây ấn tượng nhất trong việc xây dựng nhân vật là việc
lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ. Lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư xuất hiện với tần số cao, biểu hiện đa dạng và mang những giá trị nhất định mà
người nghiên cứu khó lòng bỏ qua. Đây là một yếu tố quan trọng làm nên màu sắc,
giá trị cho những đứa con tinh thần của nhà văn.
Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn được nhiều người
nghiên cứu chú ý và có được nhiều bài viết về sáng tác của chị. Các bài viết thường
chú trọng nhiều đến cách hiểu một số tác phẩm hoặc khía cạnh nào đó trong các
truyện ngắn. Theo khảo sát của chúng tôi, những công trình nghiên cứu về truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư dưới góc độ ngôn ngữ không nhiều, về lời thoại nhân vật
thì hầu như chưa có. Do vậy, chúng tôi đã chọn đề tài Đặc điểm lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư để nghiên cứu với hi vọng qua việc tìm này sẽ
có thêm cơ sở cũng như kinh nghiệm thực tế để đi vào khám phá thế giới nhân vật,
chiều sâu tư tưởng trong sáng tác của chị, từ đó thấy được những đóng góp cũng như
vị trí của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng văn học đương đại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Việc nghiên cứu về lời thoại với nhân vật trong tác phẩm văn học
Để thể hiện tính cách nhân vật, nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình, biểu
hiện nội tâm mà còn thể hiện qua lời thoại của nhân vật. Lời thoại của nhân vật là lời
ăn tiếng nói của nhân vật, là một căn cứ biểu đạt tính cách và phẩm chất của mỗi
người. Do đó trong thể hiện hình tượng nghệ thuật của mình các nhà văn hết sức coi
trọng việc thể hiện tính cách nhân vật thông qua lời thoại của nhân vật.
Vì vậy giáo sư Hà Minh Đức đã nhấn mạnh “phương tiện quan trọng nhất của

tính tạo hình khách thể trong tác phẩm tự sự và kịch là các lời nói của nhân vật
trong sử thi, tiểu thuyết, truyện vừa và truyện ngắn, các lời đối thoại và độc thoại
của các nhân vật chiếm một bộ phận đáng kể có khi là rất lớn trong văn
bản”[12,97].
Do chi phối bởi hệ thống thi pháp cho nên mỗi một thời kì văn học, lời thoại
của nhân vật lại có những đặc trưng riêng. Các tác phẩm ở thời trung đại, lời thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
của nhân vật thường mang tính ước lệ, trang trọng thể hiện tính cách nhân vật mang
tính khuôn mẫu của thời đại. Đến văn học thời kì hiện đại, nhất là ở các tác phẩm
hiện thực chủ nghĩa, lời thoại của nhân vật mới đạt đến yêu cầu cá thể hóa cao. Nhờ
đó mà “Thế giới bên trong của nhân vật giờ đây không chỉ được phát hiện bằng ý
nghĩa logic của lời nói mà còn bộc lộ qua cách nói, cách tổ chức lời nói”[12, 145].
Như vậy, lời thoại nhân vật (ngôn ngữ nhân vật) là một khái niệm quen thuộc
đối với những nhà nghiên cứu văn học, những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, những
người dạy và học văn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, ý kiến khác
nhau tìm hiểu về lời thoại của nhân vật trong các tác phẩm văn học nói chung và
trong từng tác phẩm cụ thể nói riêng. Người đọc có thể tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật
dưới những góc độ như: lí luận văn học, ngữ pháp học, phong cách học….Có thể
điểm qua một số công trình nghiên cứu về lời thoại và nhân vật văn học như sau:
Trong "Những vấn đề thi pháp của truyện", tác giả Nguyễn Thái Hòa đề cập
tới chức năng cá thể hóa tính cánh nhân vật của lời thoại nhân vật và độc thoại nội
tâm nhưng mới chỉ dừng ở lý thuyết chung, chưa đi vào phạm vi ngữ liệu cụ thể. Tác
giả nhận định: "ta cũng thấy những lời thoại của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng sống động hơn bất cứ một trang miêu tả nhân vật nào, đến mức
người đọc chỉ cần nhớ những "Em chã", "mẹ kiếp!", "thế thì nước mẹ gì" đến "thời
Tây thời giờ là vàng bạc" là nhớ ngay đến nhân vật nào, thuộc cuốn truyện của ai,
không cần nhắc lại truyện" [24, 65].
Tác giả Đỗ Việt Hùng, Phạm Thị Ngân Hoa trong "Phân tích phong cách
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học" đã xác định vai trò của các kiểu lời trong tác

phẩm văn xuôi tự sự như sau: "Lời đối thoại giữa các nhân vật là một thành phần
chủ yếu trong kết cấu của tác phẩm tự sự. Chức năng chủ yếu của đối thoại thực sự,
đối thoại không chỉ mang tính chất miêu tả hoặc chuyển dẫn, trình bày sự kiện mà
còn bộc lộ tính cách, tâm lí của nhân vật và các quan điểm tư tưởng" [26, 194]
Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu về lời thoại nhân vật, như
Bùi Minh Toán - Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt. NXB Giáo dục, 2003 (Viết
chung với Đỗ Hữu Châu); Nguyễn Thị Thanh Nga - Những từ ngữ mang sắc thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
khẩu ngữ. Luận án tiến sĩ. Đại học sư phạm Hà Nội; Lương Thị Hiền - Bước đầu
khảo sát chức năng cá thể hóa đặc điểm nhân vật trong hội thoại văn học. Khóa luận
tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội, 2003
Như vậy việc nghiên cứu về lời thoại nhân vật được nhiều tác giả đề cập
nhưng các ý kiến mới đề cập đến những khía cạnh khác nhau của lời thoại nhân vật
trong tác phẩm tự sự nói chung hoặc lời thoại nhân vật trong truyện ngắn của một tác
giả cụ thể nói riêng nhưng chưa đề cập lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư.
2.2. Việc nghiên cứu về tác giả và truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Gần chục năm trở lại đây, Nguyễn Ngọc Tư trở thành cái tên quen thuộc
thường được nhắc tới trong giới nghiên cứu, phê bình và độc giả yêu văn chương. Từ
những sáng tác đầu tay xuất hiện trên báo năm 1996 như: truyện ngắn Đổi thay cho
đến khi Nguyễn Ngọc Tư đạt giải nhất "Sáng tác văn học tuổi 20" lần thứ hai của
Hội Nhà văn thành phồ Hồ Chí Minh với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt và liên
tiếp các tập truyện: Nước chảy mây trôi, Ông Ngoại, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã gây tiếng vang lớn. Những đứa con tinh thần của
chị không cầu kì, khác lạ nhưng đã gây ra những phản ứng khác nhau từ phía người
đọc. Ngôn ngữ văn học mang tính đa nghĩa, trình độ cảm nhận của người đọc khác
nhau nên có nhiều phản ứng khác nhau thậm chí trái ngược nhau là điều dễ hiểu.
Nguyễn Ngọc Tư là một trong số ít nhà văn Việt Nam hiện đại được nhiều
người chú ý. Chỉ trong khoảng gần mười năm mà số lượng bài viết, công trình

nghiên cứu về Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của chị lên đến con số hàng trăm.
Người khen cũng lắm, người chê cũng nhiều; người trong nước có, người nước ngoài
cũng có; các nhà phê bình nổi tiếng cũng có, cây bút nghiệp dư cũng có; các tạp chí
chuyên ngành cũng nhiều, các bài báo mạng cũng không ít Qua đó, ta có thể thấy
văn chương Nguyễn Ngọc Tư có sức sống, sức hấp dẫn như thế nào.
Năm 2005, truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư trình làng,
cái tên Nguyễn Ngọc Tư dấy lên một mối quan tâm trong giới phê bình văn học. Đã
có nhiều những bài nghiên cứu về Nguyễn Ngọc Tư nói riêng và truyện ngắn của chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nói chung như: Trần Hữu Dũng với “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”, Hoàng
Thiên Nga với “Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua “ Cánh đồng bất tận””, Đoàn Nhã Nam
với “Nắng, gió, vịt và đàn bà giữa những cánh đồng bất tận”, Nguyễn Thị Hoa với
“Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện “Cánh đồng bất
tận”,v.v Có người cho rằng đó là "Một sự xuất hiện đủ sức gây ngỡ ngàng bằng một
câu chuyện man dại và khốc liệt" [Báo Tuổi trẻ, ngày 21/ 11/ 2005] cuả Nguyễn
Ngọc Tư hoàn toàn mới. Các ý kiến khen chê, đồng thuận và bất đồng thuận khác
nhau. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê cho rằng: "Từ thực tế cuộc sống, nhà văn có tạo
được "thế giới nghệ thuật" của riêng mình, khi đó tác phẩm mới có sức dẫn dụ người
đọc. Tôi nghĩ "Cánh đồng bất tận" là một tác phẩm như thế". Và có thể nói, "Cánh
đồng bất tận" là của riêng Nguyễn Ngọc Tư, là một khái niệm văn học chứ không
phải là một khái niệm địa lý, một hoàn cảnh văn học được tưởng tượng ra bằng cơ
sở của những khái niệm tuổi thơ của Nguyễn Ngọc Tư" (ý của Mạc Ngôn, tác giả
của Đàn Hương hình, Báu vật của đời). Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên cho
rằng, với "Cánh đồng bất tận", Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ngòi bút của mình ra khỏi
nhà, khỏi xóm, đến với cánh đồng. Hình như phải sống giữa đất trời mới ra con
người Nam Bộ, cả sự ngang tàng lẫn nỗi đớn đau Nguyễn Ngọc Tư đã ném mình và
nhân vật của mình ra cánh đồng cuộc đời xem họ vật lộn như thế nào. Và cả nhà văn
cùng nhân vật đã thành công ".
Bên cạnh những lời khen, truyện ngắn của chị cũng nhận được không ít những

nỗi băn khoăn từ phía độc giả. Trên báo Tuổi trẻ (ngày 30/ 11/ 2005), bác sĩ Đỗ
Hồng Ngọc nói rằng "cảm thấy tiếc nuối, hụt hẫng, cảm thấy như mình vừa mất đi
một niềm tin chẳng hạn". Không ít người còn gán cho nhà văn có "vấn đề" về mặt tư
tưởng xã hội. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư vẫn nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ,
khâm phục và cả sự khích lệ, động viên.
Ngoài những bài viết, phê bình, nghiên cứu trên, chúng tôi còn thấy một số
lượng rất lớn các công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài, luận văn khác lấy tác
giả, tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư làm đối tượng nghiên cứu của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi thấy chưa có công trình nào nghiên cứu
đầy đủ, hệ thống về lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Vì vậy,
chúng tôi đã chọn đề tài Đặc điểm lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư để nghiên cứu với mong muốn góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ tài hoa, đắc địa cũng những giá trị văn chương đích thực
trong các sáng tác của nhà văn này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm lời thoại nhân vật được thể hiện
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi tiếp cận đối tượng từ góc độ ngôn ngữ được
sử dụng trong lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Phạm vi tư liệu: Chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu trong phạm vi các tập
truyện ngắn:
1. Cách đồng bất tận, Nxb Trẻ, 2008.
2. Ngọn đèn không tắt, Nxb Trẻ, 2008.
3. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008
Với số lượng 26 truyện ngắn được nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra những kết luận về đặc điểm lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Qua đó thấy được vai trò khắc họa đặc điểm
nhân vật và làm sáng tỏ ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đặt ra, luận văn xác định một số nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu, trình bày một số lý thuyết ngôn ngữ được chọn làm căn cứ lý
luận cho đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Thống kê và phân loại các cách thể hiện của lời thoại theo những tiêu chí
nhất định phù hợp với mục đích nghiên cứu. Từ đó phân tích các đặc điểm từ ngữ lời
thoại, và rút ra kết luận khái quát về mục đích luận văn.
- Tổng kết các kết quả, nêu bật giá trị lời thoại trong việc khắc họa nhân vật,
miêu tả không gian và phong cách của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này được sử dụng để thống kê tần số xuất hiện và các cách thể
hiện của lời thoại nhân vật trong 26 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Trên cơ sở
thống kê, chúng tôi phân loại lời thoại theo những tiêu chí và chỉ ra những đặc điểm
cụ thể của thoại nhân vật trong những truyện ngắn khảo sát.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phương pháp này được sử dụng để tiến hành phân tích các lời thoại, đoạn thoại
có được khi thống kê – phân loại. Từ việc phân tích, chúng tôi tổng hợp khái quát
hiệu quả nghệ thuật của lời thoại nói riêng và ngôn ngữ Nam Bộ nói chung.
5.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp này chúng tôi sử dụng để so sánh - đối chiếu đặc điểm lời thoại
của các nhân vật nói riêng và của lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư. Trên cơ sở đó thấy rõ được vai trò của việc sử dụng kiểu lời này và làm nổi bật
tài năng nghệ thuật, phong cách riêng biệt đặc sắc của tác giả.
6. Đóng góp mới
6.1. Về lí luận
Giải quyết đề tài trên luận văn sẽ góp phần bổ sung cho lí luận về mói quan hệ
giữa nhân vật và lời thoại nhân vật, đặc điểm ngôn ngữ trong lời thoại nhân vật và
việc xây dựng hình tượng nhân vật văn học.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
6.2. Về thực tiễn
Chúng tôi mong rằng, luận văn sẽ chỉ ra được những biểu hiện và đặc điểm
lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư để chứng minh "sự lạ" ở nhà
văn này tại vùng đất Nam Bộ. Đồng thời làm cơ sở tham khảo cho việc dạy ngôn ngữ
và học văn học Việt Nam các vùng miền ở các cấp.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo và Phụ lục, luận văn có
các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Cách thể hiện lời thoại và đặc điểm lời thoại nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Chương 3: Giá trị của lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Ngôn ngữ văn học
1.1.1. Xuất xứ
Đối với tác phẩm văn học, ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu
hiện mang tính đặc trưng. Nhờ có ngôn ngữ mà nhà văn mới có thể cụ thể hóa, vật
chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách và cốt truyện…Nhà văn trong
quá trình chuẩn bị và sáng tạo nên tác phẩm đã sử dụng yếu tố đầu tiên là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính là yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc và tác phẩm. Có
lẽ vì thế mà M.Gorki đã nhận định:“Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công
cụ chủ yếu của nó và – cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là chất
liệu văn học” [3/206].
Theo nghĩa rộng, “Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ mẫu mực đã được chuẩn
hóa, phục vụ cho tất cả các lĩnh vực giao tiếp giữa người với người, và giữ vai trò to
lớn trong việc hình thành và phát triển tư duy, phát triển tâm lí, trí tuệ và toàn bộ
các hoạt động tinh thần của con người; còn gọi là ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ tiêu
chuẩn” [53, 172]. Điều này có nghĩa, ngôn ngữ văn học đã được xem là một trong
những hình thức tồn tại chủ yếu của ngôn ngữ, một trạng thái tồn tại của ngôn ngữ

tiêu biểu. Ngôn ngữ văn học trở thành ngôn ngữ thống nhất – ngôn ngữ toàn dân với
việc lấy chất liệu từ trong đời sống các phương ngữ và đồng hóa các phương ngữ đó.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc ngôn ngữ văn học trở thành công cụ thiết yếu của
nền văn minh và phục vụ cho mọi nhu cầu của xã hội và quốc gia.
Theo nghĩa hẹp, ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng
trong văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Nói văn học là nghệ thuật ngôn từ thực chất là: văn học là nghệ thuật sử dụng
lời văn, bài văn (nói, viết) vào mục đích nghệ thuật [37,184]. Như vậy ngôn ngữ của
tác phẩm văn học chính là ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ toàn dân đã được nâng
lên đến trình độ nghệ thuật. Nói khác là ngôn ngữ toàn dân đã được trau dồi, mài
giũa, tinh luyện, kết tinh. Nói như Maiacôpxki:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
“Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy là cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Hay như Nhữ Bá Sĩ từng nghiền ngẫm, trăn trở không hiểu được tại sao mà
người xưa dụng công dồn hết tâm sức khó nhọc “Ba năm mới nghĩ được một chữ,
mười năm mới nghĩ được một bài” mà vẫn không tự thỏa lòng được. Hay như
Nguyễn Đình Thi “dòng nào trang nào cũng làm đi, làm lại, xóa, kéo moóc, thêm
bớt chi chit như mắc cửi trên giấy "
Nói đến điều này để thấy, trong tác phẩm văn chương, ngôn ngữ là một trong
những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng nhà văn. Mỗi
nhà văn lớn bao giờ cũng là những tấm gương sáng về mặt hiểu biết ngôn ngữ nhân
dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác. Như vậy có thể
nói: lấy ngôn ngôn từ làm chất kiệu, văn học có thể phản ánh bất kì phương diện nào
của đời sống hiện thực, có khả năng thực hiện chức năng nhận thức, biểu hiện tư
tưởng một cách trực tiếp và toàn vẹn nhất. Nhờ những khả năng to lớn như vậy, văn
học đã trở thành "bách khoa toàn thư” về cuộc sống, trở thành một phương tiện giao

tiếp tình cảm, tư tưởng thẩm mĩ thông dụng nhất của con người.
1.1.2. Đặc điểm của ngôn ngữ văn học
Người ta hay nêu những đặc điểm của ngôn ngữ văn học, có thể nói gọn lại
như sau:
- Khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ rất to lớn, đáp ứng được yêu cầu phản
ánh cuộc sống một cách phong phú đa dạng của văn học. Tuy nhiên để có được từng
“chữ” như thế trong tác phẩm, rõ ràng lao động của người nghệ sĩ ngôn từ là hết sức
công phu. Quá trình lao động đó phải đảm bảo ngôn ngữ trong tác phẩm có: tính
chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm và tính hình tượng. Đây chính là những thuộc
tính cơ bản của ngôn ngữ văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
- Những đặc điểm khu biệt của ngôn ngữ văn học là: tính đa chức năng về mặt
biểu đạt, đạt tính tinh luyện và chuẩn mực về cấu trúc và nguồn gốc phương ngữ của
ngôn ngữ văn học.
- Căn cứ chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ văn học với các hình thái hoạt động
ngôn ngữ là ở chỗ: ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa
thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng
văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vì vậy, tính hình tượng thẩm mĩ là thuộc tính bản
chất, xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác, quy định những thuộc tính ấy.
1.1.3. Phân loại
a. Căn cứ vào thể loại văn học
Dựa vào thể loại văn học, người ta chia ngôn ngữ văn học làm 3 loại: ngôn ngữ
của tác phẩm trữ tình, ngôn ngữ của tác phẩm kịch và ngôn ngữ của tác phẩm tự sự.
Khi nói đến ngôn ngữ văn học, người ta luôn nêu các đặc điểm chung là: tính
chính xác, tính hàm súc và tính hình tượng. Tuy nhiên cũng thừa nhận rằng, ở mỗi
loại tác phẩm, những đặc điểm đó lại biểu hiện dưới nhiều mức độ và với các sắc thái
khác nhau, đồng thời mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng.
Ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình luôn được coi là tiêu biểu cho ngôn ngữ
văn học, bởi vì các đặc điểm sau: tính chính xác, tính hàm súc, tính hình tượng đều

được biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ của tác phẩm
trữ tình. Có thể thấy trong các thể loại của văn chương thì từ ngữ trong tác phẩm trữ
tình được sử dụng kiệm nhất. Nói như Pautốpxki: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng
ta đã nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những
chữ ấy trong thơ ca lại sang lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. Nhưng đặc trưng
chủ yếu, mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ tác phẩm trữ tình chính là nhịp điệu
trong tác phẩm. Không có nhịp điệu thì không thành thơ ca, kể cả những bài thơ vẫn
được gọi là “thơ văn xuôi” bởi thơ ca là tiếng nói của tình cảm, của trái tim.
Ngôn ngữ của tác phẩm kịch là ngôn ngữ các nhân vật được tổ chức thông
qua hệ thống đối thoại. Trong tác phẩm kịch không có ngôn ngữ tác giả cũng như
thái độ tác giả được biểu hiện ngầm sau hệ thống đối thoại của ngôn ngữ nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
M. Gorki đã chỉ rõ: “Trong kịch, tác giả không thể mách bảo điều gì cho người xem
hết. Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do
những lời lẽ ấy mà thôi, nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại
chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả…Cần phải làm sao cho ngôn ngữ của mỗi
nhân vật đều có tính đặc thù rõ rệt, có sức biểu hiện đến mức tối đa” [3,206].
Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự là sự tồn tại song cùng của ngôn ngữ nhân vật
và ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ người kể chuyện giữ một vị trí hết sức quan
trọng trong tác phẩm: vừa đóng vai trò tổ chức và chỉ đạo đối với ngôn ngữ toàn tác
phẩm, vừa là phương tiện để bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm, để khắc họa đặc
điểm của tính cách, để dẫn dắt quá trình phát triển của cốt truyện.
b. Căn cứ vào cấu tạo
Dựa vào cấu tạo, người ta chia ngôn ngữ văn học làm 3 loại:
Ngôn ngữ người kể chuyện là ngôn ngữ của người đóng vai trò kể chuyện.
Người ấy phải biết chuyện, chứng kiến hay trải qua để kể lại và họ không nhất thiết
là chính tác giả mặc dù tác giả là người viết ra lời kể… Mỗi lời kể có một nhịp kể,
một giọng điệu và cái nhìn riêng. Có thể có rất nhiều cách kể khác nhau, gây hiệu
quả thẩm mĩ khác nhau.

Ngôn ngữ nhân vật là ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật
thông thường phù hợp với tính cách nhân vật, thể hiện lập trường giọng điệu, địa vị
nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả phù hợp với cách hiểu của tác giả đối với
bản thân nhân vật mà người viết muốn phản ánh.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ đặc biệt, được tổ chức một cách đặc biệt khác hẳn
với lời văn xuôi hằng ngày: phân dòng, chia khổ, gieo vần, ngắt nhịp… sử dụng dày
đặc các phép tu từ, hoặc có khi sắp xếp tự do không luật, không vần. Ngôn ngữ thơ
được tổ chức đặc biệt nhằm hai mục đích chính: thể hiện toàn bộ vẻ đẹp của lời nói
con người về âm thanh, nhịp điệu, màu sắc, ý nghĩa, tình tứ, đồng thời thể hiện tài
năng ngôn ngữ một cách sáng tạo, tự do. Ngôn ngữ thơ diễn đạt những tình cảm, cảm
xúc mà văn xuôi không bao giờ thể hiện được.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
1.2. Lí thuyết về hội thoại
1.2.1. Khái niệm hội thoại
Để xã hội tồn tại và phát triển một trong những điều kiện cơ bản là phải
thường xuyên diễn ra những hoạt động giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với tập thể. Ngôn từ chính là chất liệu cụ thể nhất được sử dụng trong giao tiếp. Tuy
nhiên, ngôn từ muốn phát huy được sức mạnh của mình trong hoạt động này phải
được hiện thực hóa bằng những hình thức ngôn ngữ cụ thể. Một trong số đó chính là
hội thoại.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm về hội thoại được đưa ra. Nguyễn Thiện
Giáp trong "Dụng học Việt ngữ" cho rằng: "Hội thoại(conversation) là hành động
giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người" [14,64]. Khác với Nguyễn
Thiện Giáp, Hồ Lê khi đưa ra quan điểm của mình lại nhấn mạnh quá trình diễn ra
hội thoại: " Hội thoại là hành vi thể hiện ngôn giao hai chiều cụ thể và xác định, làm
chuyển hóa vị thế của người thụ ngôn thành vị thế của người phát ngôn và ngược lại,
đồng thời tạo ra sự liên kết hành vi phát ngôn với hành vi thụ ngôn tạo thành một thể
thống nhất" [38,13]. Đặc biệt trong "Đại cương ngôn ngữ học" (tập 2), Đỗ Hữu Châu

không chỉ nêu quan điểm của mình mà còn chỉ ra một số đặc điểm về hội thoại như
sau: " Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó
cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác" [5, 201]. Theo đó hội
thoại có một số đặc điểm sau:
- Thoại trường của hội thoại hay thời gian, không gian ở đó diễn ra cuộc thoại.
- Số lượng người tham gia hội thoại: Khi hội thoại chỉ gồm có 2 người, ta có
song thoại. Khi hội thoại có 3 người, ta có tam thoại. Khi có nhiều người tham gia
hội thoại, ta có đa thoại. Tuy nhiên trong các cuộc hội thoại thì song thoại vẫn được
đánh giá là quan trọng nhất.
- Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại.
- Tính có đích hay không có đích trong hội thoại.
- Tính có hình thức hay không có hình thức.
- Ngữ vực trong hội thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Tóm lại: Mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về lí thuyết hội
thoại và mỗi tác giả có thể nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh khác nhưng tựu
chung lại chúng tôi nhận thấy các tác giả đều cho rằng: Hội thoại là hoạt động giao
tiếp thường xuyên và phổ biến trong xã hội.
1.2.2. Vận động hội thoại
Bất cứ cuộc thoại nào cũng có 3 vận động chủ yếu là: vận động trao lời, vận
động trao đáp và vận động tương tác.
a. Vận động trao lời
Một chuỗi các đơn vị ngôn ngữ được nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt
đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một
lượt lời. Trao lời là vận động mà SP1 (vai nói) nói lượt lời của mình ra và hướng lượt
lời của mình về phía SP2 (vai nghe) nhằm làm cho SP2 nhận ra được rằng lượt lời
được nói ra đó dành cho SP2.
Trong lời trao, sự có mặt của SP1 là điều tất yếu. Sự có mặt thể hiện ở từ
xưng hô ngôi thứ nhất, ở tình cảm, thái độ, hiểu biết, quan điểm của SP1 trong nội

dung của lượt lời trao. Ngoài những dấu hiệu kèm lời và phi lời SP2 có thể có mặt
trong lượt lời của SP1 qua những yếu tố ngôn ngữ tường minh như lời hô gọi, chỉ
định Tóm lại, ngay trước khi SP2 đáp lời, tức thực hiện sự trao lời của mình, người
nghe đã được đưa vào lượt lời, cùng tồn tại với ngôi thứ nhất "tôi" trong lượt lời,
thường xuyên kiểm tra và điều hành sự trao lời của SP1.
b. Vận động trao đáp
Vận động trao đáp là vận động mà người nghe nói ra lượt lượt lời của người nói.
Vận động trao đáp cái cốt lõi của hội thoại sẽ diễn ra liên tục, lúc nhịp nhàng, lúc
khúc mắc, lúc nhanh, lúc chậm với sự thay đổi liên tục vai nói vai nghe. Cũng giống
như vận động trao lời, vận động trao đáp có thể thể hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc
bằng lời, thường thì hai loại yếu tố này đồng hành cùng nhau.
c. Vận động tương tác
Trong hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại
với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Liên tương tác trong hội thọai trước hết là liên tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
tác giữa các lượt lời của SP1 và SP2 Như vậy vận động tương tác là vận động trong
đó các nhân vật hội thoại là các nhân vật liên tương tác, có ảnh hưởng lẫn nhau, tác
động qua lại với nhau, làm biến đổi lẫn nhau.
Trong các cuộc thoại đều phải có sự hòa phối các hoạt động của các đối tác về
mọi mặt, trước hết là các lượt lời. Trong quá trình hòa phối, mỗi nhân vật tự mình
điều chỉnh hành động, thái độ, lượt lời của mình theo từng bước của cuộc đối thoại
sao cho khớp với những biến đổi của đối tác và của tình huống hội thoại đang diễn
ra. Giữa các nhân vật tương tác có sự liên hòa phối, nghĩa là phối hợp sự tự hòa phối
của từng nhân vật.
1.2.3. Cấu trúc hội thoại
Hiện nay có 3 trường phái đưa ra quan điểm về cấu trúc hội thoại là:
- Trường phái phân tích hội thoại ở Mĩ.
- Trường phái phân tích hội thoại ở Anh.
- Trường phái lí thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và ở Pháp.

Sau đây chúng tôi sẽ trình bày quan điểm cấu trúc hội thoại của trường phái lí
thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và ở Pháp bởi vì theo chúng tôi quan điểm của họ là rõ
ràng, dễ hiểu và cấu trúc hội thoại của họ đưa ra khá toàn diện.
a. Các đơn vị hội thoại
Hai nhà ngôn ngữ họa Eddy và Roulet (Thụy Sĩ) và Catherine Kerbrat Orecchioni
(Pháp) có nhiều quan điểm giống nhau về các đơn vị tổ chức hội thoại. Họ cho rằng,
các đơn vị cấu trúc của hội thoại được xét từ lớn đến nhỏ là:
- Cuộc thoại (cuộc tương tác - conversation, interection).
- Đoạn thoại (Séquence).
- Cặp trao đáp (cặp thoại échage)
- Tham thoại (intervention).
- Hành vi ngôn ngữ.
Trong 5 đơn vị của hội thoại thì 3 đơn vị (cuộc thoại, đoạn thoại và cặp trao
đáp) có tính chất lưỡng thoại, có nghĩa là chúng có hình thành do vận động trao đáp
của các nhân vật hội thoại. 2 đơn vị là tham thoại và hành vi ngôn ngữ có tính chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
đơn thoại (do 1 người nói ra). Theo trường phái lí thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và Pháp
thì các đơn vị hội thoại được trình bày như sau:
Cuộc thoại (conversation, cuộc tương tác: interation). Nói tới hội thoại, người
ta sẽ nhắc ngay tới "cuộc thoại". Có thể hiểu đó là một lần trao đổi, nói chuyện giữa
những cá nhân, ít nhất là hai người trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Theo C.K.
Orecchioni, "để có một và chỉ một cuộc thoại điều kiện cần và đủ là có một nhóm
nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khoảng thời gian và
không gian có thể thay đổi nhưng không đứt quãng" [5, 313].
Các tiêu chí để xác định cuộc thoại
- Nhân vật hội thoại: Một cuộc thoại được xác định bằng sự đương diện liên
tục của người hội thoại hay một cuộc thoại được xây dựng bở sự gặp gỡ và chia tay
của 2 người cùng hội thoại. Khi số lượng hay tính chất của người hội thoại thay đổi
thì xuất hiện cuộc thoại mới. Tuy nhiên, tiêu chí này có vẻ quá cứng nhắc vì người

nào đó có thể rút lui khỏi cuộc thoại hoặc một người có thể gia nhập vào mà không
nhất thiết phải chuyển qua một cuộc thoại khác.
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm. Tiêu chí này cũng chỉ là tương đối
bởi một cuộc thoại 2 người có thể chuyển chỗ hoặc gác lại sang hôm khác.
- Tính thống nhất về đề tài diễn ngôn: Nói theo Grice, một cuộc thoại phải
theo hướng nhất định từ đầu cho đến lúc kết thúc. Tuy nhiên tiêu chí này cũng chỉ là
tương đối bởi vì có những cuộc thoại, đề tài diễn ra theo lối cóc nhảy.
- Các dấu hiệu nhận biết: dấu hiệu mở đầu (có thể là lời chào hỏi) và dấu hiệu
kết thúc (có thể là những câu hỏi kiểu như: "còn gì nữa không nhỉ" hoặc "thế thôi
nhé"). Nhưng đây cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc bởi vậy không thể chỉ dựa
vào dấu hiệu hình thức này.
Có thể nhận thấy: các tiêu chí xác định cuộc thoại chỉ là tương đối, chưa có đủ
độ tin cậy. Tuy nhiên "người nghiên cứu phải quyết định một sự phân chia nào đó ít
nhiều võ đoán" (Đỗ Hữu Châu).
Đặc điểm nội tại của một hội thoại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
+ Sự tương tác qua lại: Sacks và Scheg Loff (1973) nêu nguyên tắc: Trong
cuộc thoại, mỗi lúc có một người nói và không nói đồng thời hay từng lượt lời phải
luân phiên nhau. Nguyên tắc đó gọi là: Nguyên tắc luân phiên lượt lời.
+ Sự liên kết: Các lượt lời trong cuội thoại phải có sự liên kết với nhau.
+ Tính mục đích: Một cuộc thoại không nhất thiết chỉ có một chủ đề mag có
thể có nhiều chủ đề. Tuy nhiên khi nói về bất kì một chủ đề nào, người nói đều nhằm
những mục đích khác nhau. Đôi khi mục đích của cuộc thoại có thể tồn tại ngoài lời.
+ Nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc tế nhị.
Đoạn thoại: theo Đỗ Hữu Châu thì "Đoạn thoại là mảng diễn ngôn do một số
cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc ngữ dụng. Về ngữ nghĩa,
đó là sự liên kết chủ đề: Một chủ đề duy nhất về ngữ dụng trong đó là tính duy nhất
về đích" [5,313].
Tuy nhiên cũng giống như sự phân định một cuộc thoại thì sự phân định một

đoạn thoại cũng không rành mạch gì hơn. Khi người ta muốn phân định ranh giới
giữa chúng phải dựa vào trực cảm võ đoán.
Cặp trao đáp (cặp thoại éxchange): "Về nguyên tắc cặp trao đáp là đơn vị lưỡng
thoại tối thiểu, với chúng cuộc trao đổi tức cuộc hội thoại chính thức được tiến
hành" [5, 315]. Căn cứ vào số lượng các tham thoại để phân loại, ta có các kiểu loại:
- Cặp thoại một tham thoại: "Một trong hai tham thoại cấu trúc nên nó được
thực hiện bằng những hành vi kèm lời hoặc vật lí" [5, 321].
- Cặp thoại hai tham thoại: gồm tham thoại dẫn và tham thoại hồi đáp.
- Cặp thoại ba tham thoại (cặp thoại 3): đây là cặp thoại mà trong đó tham thoại
thứ 3 có thể là một kiểu "tiếng vọng", có thể là tham thoại tán đồng, đánh giá, chúc
mừng Các tham thoại trong cặp thoại có thể liên kết với nhau theo 3 kiểu: liên kết
lồng, liên kết chéo, liên kết phẳng.
Căn cứ vào tính chất của các cặp thoại để phân loại, ta có cặp thoại tích cực và
cặp thoại tiêu cực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Cặp thoại tích cực là cặp thoại mà tham thoại hồi đáp "thỏa mãn được đích của
tham thoại dẫn nhập (nói đúng hơn là thỏa mãn được đích của hành vi tham thoại dẫn
nhập)[5,328].
Cặp thoại tiêu cực thì ngược lại là "tham thoại hồi đáp đi ngược lại với đích
của tham thoại dẫn nhập"[5, 328].
Tham thoại: tham thoại là đơn vị đơn thoại và "là phần đóng góp của từng nhân vật
hội thoại vào một cặp thoại nhất định" [5, 316].
Hành vi ngôn ngữ: hành vi ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất của "ngữ pháp hội thoại".
Trên đây là những nét cơ bản trong quan niệm về cấu trúc hội thoại của trường
phái lí thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và ở Pháp. Khác với trường phái này, trường phái
phân tích hội thoại ở Mĩ không chia nhỏ đơn vị hội thoại thành các tham thoại và hành
vi ngôn ngữ mà dừng lại ở các đơn vị lượt lời. Họ cho rằng đây là "đơn vị cơ sở, đơn vị
tổ chức nên các đơn vị khác lớn hơn của hội thoại" [5, 291].
Trong một cuộc thoại, đoạn thoại có thể có nhiều lượt lời. Theo Đỗ Hữu Châu

thì lượt lời được định nghĩa là "chuỗi đơn vị ngôn ngữ do một nhân vật hội thoại diễn
ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói ra chuỗi
lời của mình" [5, 87]. Hay theo Ngữ dụng học thì "Mỗi lần nói của một người trong
cuộc thoại gọi là lượt lời" [5, 85].
b. Chức năng của các đơn vị hội thoại
Có thể phát biểu một quy tắc kết cấu chức năng hội thoại như sau: "Các đơn vị trong
cấp độ cặp thoại là những đơn vị giữa chúng có chức năng ở lời và các đơn vị trong
cấp độ tham thoại là những đơn vị giữa chúng có chức năng liên hành vi" [5,329].
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi quan tâm đến cấp độ cặp thoại và chức
năng ở lời. Đó là chức năng dẫn nhập và chức năng hồi đáp.
- Chức năng dẫn nhập:
Đây là "chức năng ở lời quy định quyền lực và trách nhiệm với mỗi nhân vật
hội thoại" [5, 330]. Chức năng dẫn nhập có thể là các chức năng: yêu cầu thông tin,
yêu cầu được tán đồng, ủng hộ, thỉnh cầu, ban tặng, mời, khẳng định, ra lệnh Trách

×