Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

nghệ thuật truyện ngắn phạm duy nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.81 KB, 90 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i




























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
***



ĐOÀN THỊ HẢI YẾN






NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
PHẠM DUY NGHĨA



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34







Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN THẢO MIÊN







THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Tôn Thảo Miên, người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới nhà văn Phạm Duy Nghĩa, người đã
nhiệt thành giúp đỡ tôi khi thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại
học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với BGH, bạn bè,
đồng nghiệp trường THPT Mỏ Trạng, Sở GD & ĐT tỉnh Bắc Giang cùng
những người thân yêu trong gia đình đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo
mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011
Tác giả


Đoàn Thị Hải Yến


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Đóng góp của luận văn 7
6. Cấu trúc luận văn 7
PHẦN NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: CỐT TRUYỆN TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA 8
1.1. Khái niệm cốt truyện 8
1.2. Các kiểu cốt truyện truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa 10
1.2.1. Cốt truyện liền mạch, tuyến tính 10
1.2.2.Cốt truyện huyền ảo 19
1.2.3. Cốt truyện ghép mảnh 24
1.2.4. Cốt truyện khung 27
1.2.5. Cốt truyện tâm lí 29
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA 33
2.1. Khái niệm nhân vật 33
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa 34
2.2.1. Nhân vật hướng sáng 35
2.2.2. Nhân vật tha hoá 49
CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY
NGHĨA 61
3.1. Khái niệm ngôn ngữ văn học 61
3.2. Ngôn ngữ truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa 62
3.2.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ và nhạc tính 62

3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất họa 71
PHẦN KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Văn xuôi Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ 1986 đến nay, đã có
những thay đổi lớn lao và phát triển mạnh mẽ. Đi cùng với sự thay đổi chung
ấy, thể loại truyện ngắn cũng ngày càng khẳng định vị thế của mình. Trong
những thập niên qua, truyện ngắn đã có những thay đổi sâu sắc từ tư duy nghệ
thuật, quan niệm về con người đến nghệ thuật trần thuật Điều đó không
những đã làm nên một diện mạo mới cho truyện ngắn mà còn đem lại những
thành tựu rực rỡ cho thể loại này.
Góp phần vào sự “lên ngôi” của truyện ngắn đương đại, không chỉ có
những cây bút kỳ cựu, những nhà văn thuộc thế hệ đi trước mà còn có sự
đóng góp không nhỏ của thế hệ nhà văn trẻ đang rất sung sức hôm nay. Nhà
văn trẻ, theo quan niệm chung hiện nay, là các cây bút dưới 40 tuổi, chủ yếu
thuộc thế hệ 7X, 8X (những người sinh trong khoảng thời gian những năm
1970, 1980). Họ đang xuất hiện ngày càng đông đảo, là một lực lượng viết
trẻ, khoẻ, có chất, và ngày càng có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn
học nói chung, truyện ngắn nói riêng.
Trong những năm vừa qua, giới lí luận – phê bình cũng đã dành cho thể
loại truyện ngắn nhiều sự quan tâm. Đã có những hội thảo được mở rộng và
có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều đựơc trình bày. Cũng đã có
nhiều bài viết, chuyên luận nghiên cứu về truyện ngắn đương đại. Nhưng thực

tế cũng đang đặt ra những câu hỏi : Truyện của các nhà văn trẻ như thế nào ?
Họ đang viết về điều gì? Viết như thế nào? Những tác phẩm của họ kế thừa
thế hệ đi trước điều gì và cách tân, sáng tạo ra sao? Họ đã và đang đóng góp
gì cho sự phát triển của truyện ngắn đương đại? Quả thật, còn hiếm những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
nghiên cứu chuyên sâu về các cây bút văn xuôi trẻ hiện nay mặc dù họ đang
xuất hiện đông đảo và khá thuyết phục.
2. Bằng giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo văn nghệ 2003 – 2004 (với
tác phẩm Cơn mưa hoa mận trắng), Phạm Duy Nghĩa đã gia nhập làng văn
với một cốt cách văn xuôi “trang trọng”, “vững chãi”, “cổ điển” và anh ngày
càng khẳng định được vị trí của mình.
Miệt mài hơn 10 năm trong nghề viết Phạm Duy Nghĩa đã trở thành
một nhà văn có dấu ấn và bản sắc riêng. Anh đã được trao một số giải thưởng
như: Giải thưởng Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 2006,
Giải thưởng Phan Xi Păng tỉnh Lào Cai 2002 – 2007, , được kết nạp vào
Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, là Uỷ viên Ban nhà
văn trẻ của Hội Nhà văn Hà Nội, nhất là được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2007 với số phiếu bầu cao nhất. Hiện nay anh đang giữ chức
Trưởng ban Lí luận phê bình của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Liên tục từ năm
2002 đến 2010, tác phẩm của anh đều đặn được in ấn bởi các nhà xuất bản có
uy tín như Nxb Văn học, Nxb Lao động, Nxb Quân đội, , và được độc giả
trân trọng đón nhận. Tất cả đã cho thấy sự tin yêu, kỳ vọng của giới chuyên
môn và độc giả dành cho một nhà văn trẻ tài năng, triển vọng.
Phạm Duy Nghĩa là "một trong số ít những nhà văn nam viết hay hiện
nay"[24]. Truyện ngắn của anh “cổ điển” mà vẫn “có sức hấp dẫn và thuyết
phục cao, khiến người đọc phải ngỡ ngàng về khả năng chiếm lĩnh và bút lực”
của nhà văn. Tìm hiểu “Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa”, đề tài

nhằm khám phá những điều làm nên sức cuốn hút của truyện ngắn Phạm Duy
Nghĩa. Đồng thời, qua đó góp phần định vị một gương mặt nhà văn trẻ bắt
đầu có dấu ấn riêng trong nền văn xuôi đương đại.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đến với văn chương, mỗi người một vạch xuất phát, một con đường.
Nhiều người chọn cách xuất hiện ồn ào, đình đám, với những tuyên ngôn, lập
thuyết gây xôn xao dư luận, có người lại chọn cách âm thầm, từ tốn nhưng
cũng không kém phần rạng rỡ, vinh quang.
Phạm Duy Nghĩa đến với văn chương như mối duyên kì ngộ. Năm
1999, khi còn là một thầy giáo, trong một lần đưa giáo sinh đi xóa mù ở vùng
cao, những ám ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, con người nơi đây đã thôi thúc
anh phải cầm bút. Và, anh lặng lẽ viết, lặng lẽ kể những câu chuyện sâu sắc,
ảm ảnh về xứ sở gói trong mây trắng ấy bằng những áng văn tinh tế, đầy chất
thơ, bằng một giọng kể có nghề đầy sức gợi Để rồi khi xuất hiện, ngay lập
tức được công nhận là nhà văn, một nhà văn thực tài.
Nguyễn Trọng Hoàn đã cho rằng tập truyện Tiếng gọi lưng chừng dốc
là “một khởi đầu đầy ấn tượng” của Phạm Duy Nghĩa. Tác giả cũng nhận thấy
“phần lớn truyện của Phạm Duy Nghĩa đậm đặc chất thơ” và “yếu tố ngoại
cảnh được khai thác triệt để, tạo ra sức biểu hiện tự nhiên đồng thời trở thành
những dẫn dụ mê hồn và cuốn hút". Nhận xét về nhân vật và nghệ thuật xây
dựng nhân vật của Phạm Duy Nghĩa, tác giả này cho rằng : “Nhân vật trong
tác phẩm của Nghĩa đa dạng, ít nhiều đều có yếu tố nổi trội, đôi lúc khác
thường đó là những đầu mối cắt nghĩa của anh với khát vọng hoàn thiện về
tâm hồn và nhân cách”.
Kim Ngọc Đại, cũng từ Tiếng gọi lưng chừng dốc, đã nhận thấy "một

cốt cách văn xuôi trang trọng" của “Một nhà văn chân thành mà sắc sảo,
chầm chậm mà dứt khoát, toàn tâm toàn ý với văn chương”. Tác giả này cũng
phát hiện ra, sự lôi cuốn hấp dẫn của truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa không chỉ
ở những “chi tiết đời sống”, “những phong tục tập quán’, “những cá tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
làm nên những số phận rất đời ” đã được nhà văn, “chất, chở, đẩy, vạch,
ném toang ra trước mắt mọi người một cách hồn nhiên mà trang trọng, tha
thiết mà u trầm, khoáng đạt mà viên mãn, xưa cũ mà tươi rói ” mà còn hấp
dẫn ở “rất nhiều đoạn văn đẹp đến lung linh”.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh nhận ra ở Phạm Duy Nghĩa một “lối
hành văn hoạt, cái sự tươi xanh con chữ tuôn chảy lấp lánh, dào dạt từ trong
bút có nghề”, cái cách đặt nhân vật “trong các hoàn cảnh đặc biệt để lộ diện,
lộ hồn”.
Cho rằng “hiện thực kết hợp với lãng mạn pha trộn huyền ảo là bút
pháp cơ bản trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa”, nhà văn Sương Nguyệt
Minh cũng khẳng định: "Những câu văn hay, những đoạn văn hay cộng với
những chi tiết đặc sắc, nhưng đồng thời chỉ khi nào thiên về lãng mạn và
huyền ảo thì Nghĩa mới là Nghĩa nhất".
Dành nhiều tình cảm cho nhà văn trẻ, Sương Nguyệt Minh cũng chân
thành chỉ ra truyện ngắn của Phạm Duy đây đó còn sự “giản đơn”, “bố trí sắp
đặt” ở một số truyện. Nhưng nhà văn, đại tá này cũng không ngần ngại khi
khẳng định: Phạm Duy Nghĩa là "một nhà văn đích thực".
Còn nhà văn Dạ Ngân, người đã nhìn thấy ở Phạm Duy Nghĩa một
“bản lĩnh văn xuôi trời cho” cũng thấy được sự “từng trải”, “thái độ nhân
sinh điềm đạm được truyền tải bằng giọng văn đượm buồn lấp lánh” hay
sự “vững chãi, trang trọng”, “đào xới và tôn vinh tính người trong con
người” ở truyện ngắn của anh.

Theo dõi bước đường thành danh của Phạm Duy Nghĩa, nhà văn Dạ
Ngân cũng thấy rõ trong tác phẩm của anh bên cạnh những truyện ngắn
“trong suốt” khi viết về núi rừng Tây Bắc, gần đây “bắt đầu có sự sắc sảo
gai ngạnh khi đề cập đến tình trạng tha hoá của một bộ phận giới chức hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
thời”, “sự bứt phá, giễu nhại một cách chát chúa mà vẫn nghiêm trang, tỉ
mẩn” của “một ngòi bút vâm váp, bạo liệt trong những tình huống nhiều tác
giả khác có thể ngại miêu tả”.
Bùi Việt Thắng thì cho rằng “Khu vườn văn chương của Phạm Duy
Nghĩa tràn đầy màu xanh - chất thơ của đời sống và được tắm gội bằng ánh
sáng nhân văn rực rỡ, nồng thắm” và “nhìn thấy trong truyện ngắn của
Phạm Duy Nghĩa những con người ở phần thánh thiện, dù họ ở lứa tuổi, nghề
nghiệp, trình độ, địa vị xã hội nào”.
Còn nhà văn Mã A Lềnh đã đi từ “thích thú” đến “chia sẻ” và cuối
cùng là bị “ám ảnh” bởi những trang văn “đặt nhân vật vào đúng hoàn cảnh
và không gian cuộc sống cộng với nhiều chi tiết rất thật, sống động như
những cuốn phim ngắn ít lời, tỏ rõ sự chắc tay xảo thuật văn chương” và “có
thể coi mỗi truyện là một bài thơ”.
Với kinh nghiệm của một người đi trước, Mã A Lềnh cũng chỉ ra sự
sắp đặt trong cốt truyện, giáo điều trong lời văn hay sự khiên cưỡng trong quá
trình phát triển tâm lí nhân vật ở một số truyện. Tuy vậy, nhà văn này cũng
khẳng định chắc nịch, Phạm Duy Nghĩa “đích thực là một nhà văn”.
Vẫn còn đây đó, một số ý kiến cho rằng, Phạm Duy Nghĩa không chịu
thay đổi không gian và nhân vật trung tâm, ngôn ngữ đặc kinh như là một vị
khách của miền núi, hay sự bố trí, sắp đặt trong tổ chức truyện,
Nhưng hầu hết các ý kiến đều dành những lời khen ngợi và khẳng định
tài năng Phạm Duy Nghĩa.

Là một nhà văn cả tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, nhưng với những thành
công của mình, Phạm Duy Nghĩa đã và đang đặt dấu ấn của mình trong nền
văn xuôi đương đại. Cùng với những tác giả thuộc thế hệ thứ tư trong “bốn
thế hệ đang cùng chung sức tôn tạo nên một nền truyện ngắn Việt Nam hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
đại”. Phạm Duy Nghĩa đang góp sức làm nên một nền văn xuôi trẻ khoẻ
khoắn và đa sắc.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu nghệ thuật truyện
ngắn Phạm Duy Nghĩa, bên cạnh những lời nói đầu trong các tập truyện ngắn,
chủ yếu mới dừng lại ở cấp độ các bài viết, bài phỏng vấn in trên các báo, tạp
chí và internet, hoặc được nghiên cứu một phần trong các luận văn thạc sĩ,
khóa luận tốt nghiệp đại học, các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh
viên Thậm chí, dù được coi là một trong nhưng cây viết trẻ người kinh tiêu
biểu viết về miền núi hiện nay, nhưng trong luận án tiến sĩ “Văn xuôi Việt
Nam hiện đại về dân tộc và miền núi” của mình, nhà văn hầu như không đề
cập đến tác phẩm của mình ngoài vài dòng mang tính giới thiệu, điểm qua.
Chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về nghệ thuật Phạm Duy Nghĩa.
Những ý kiến đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình, các bạn
học viên, sinh viên đi trước là những gợi ý thiết thực giúp chúng tôi triển khai
công trình nhỏ mang tên “Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa”.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nhằm tìm hiểu, khám phá những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện
ngắn Phạm Duy Nghĩa, luận văn đi sâu nghiên cứu các sáng tác của tác giả:
1. Tập truyện ngắn Tiếng gọi lưng chừng dốc, Nxb Văn học, H, 2002
2. Tập truyện ngắn Cơn mưa hoa mận trắng,NxbThanh niên, H, 2007.
3. Tập Phạm Duy Nghĩa - 12 truyện ngắn, Nxb Lao động, H, 2010.
4. Tập Truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, Nxb Văn học, H, 2010.

Để có cái nhìn phong phú và toàn diện, luận văn cũng tham khảo sáng
tác của một số tác giả trẻ cùng thế hệ với Phạm Duy Nghĩa ( như Đỗ Bích
Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Ngọc Tư,…) và sáng tác, nghiên cứu của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
số tên tuổi lớn ( như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Vi Hồng, Ma Văn Kháng, Cao
Duy Sơn, Nguyễn Huy Thiệp…)
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
5.1. Về mặt lí luận
Góp phần khám phá, phát hiện những sáng tạo mới mẻ, độc đáo trong
việc tiếp cận hiện thực, con người đương đại (nhất là ở miền núi) và một số
phương diện nghệ thuật truyện ngắn đặc sắc, nổi bật của nhà văn trẻ Phạm
Duy Nghĩa.
5.2. Về mặt thực tiễn
- Góp thêm một tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến sáng tác
của Phạm Duy Nghĩa.
- Tìm ra những nét chung và dấu ấn riêng cũng như sự đóng góp của
nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cốt truyện truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.
Chƣơng 2: Nhân vật trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.
Chƣơng 3: Ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
CỐT TRUYỆN TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA

1.1. KHÁI NIỆM CỐT TRUYỆN
Cốt truyện (plot) là "Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu
cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng
nhất trong hình thức động của các tác phẩm tự sự" [11]. Cần phân biệt hai
khái niệm truyện (story) và cốt truyện (plot). "Truyện là chuỗi những sự kiện
về một vấn đề (hoặc nhiều vấn đề) nào đó diễn ra theo trật tự tự nhiên, tuân
thủ thời gian tuyến tính, nương theo sự chảy trôi của cuộc sống theo quan hệ
nhân quả mà không có sự đảo lộn sắp đặt của người kể. Cốt truyện là sự sắp
xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân
quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự
kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ
đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc".[4]
Truyện ngắn là một thể loại năng động, cốt truyện luôn tồn tại những
dấu hiệu không ổn định, biểu hiện vô cùng đa dạng và phong phú. Những
năm gần đây, đặc trưng thể loại văn học không còn là sự trói buộc chặt chẽ
đối với các nhà văn, truyện ngắn ngày càng được viết một cách linh hoạt
không bị gò ép thi pháp truyền thống.
Đối với tác phẩm tự sự truyền thống, cốt truyện đóng vai trò quan trọng
góp phần quyết định thành công của tác phẩm. Thông qua cốt truyện, người
đọc có thể dùng tóm lược lại nội dung câu chuyện mà nhà văn đã kể. Hiện


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
thực vận động trong tác phẩm theo chiều tuyến tính, giúp người đọc định
hướng rõ ràng khi tiếp nhận.
Trong truyện ngắn đương đại, cốt truyện đang có xu hướng trở nên mờ
nhạt. Nhiều truyện ngắn biểu hiện sự co giãn cốt truyện. Nhiều truyện ngắn
được lắp ghép bởi các mảng trần thuật khác nhau, biểu hiện của sự phân rã cốt
truyện những năm đầu thế kỉ 21.
Có thể nói rằng, truyện ngắn là "nơi phô diễn những cách tân về cốt
truyện một cách hiệu quả nhất" và độc giả hôm nay đang chứng kiến sự đổi
thay của cốt truyện ngắn đương đại. Ngoài việc kế thừa phát huy cốt truyện
truyền thống, truyện ngắn hôm nay còn thừa nhận sự xuất hiện và thay thế của
cốt truyện mới. Có thể kể đến các kiểu cốt truyện như : cốt truyện ghép mảnh,
cốt truyện khung (truyện lồng truyện), cốt truyện huyễn ảo, cốt truyện dòng ý
thức, cốt truyện siêu văn bản,
Văn xuôi miền núi là một bộ phận văn chương có mối ràng buộc rất
chặt với truyền thống (bởi cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan)
Viết chủ yếu về miền núi, vì thế mà cốt truyện truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa
cũng không thể bỏ quá xa những kết cấu truyền thống. Đó là cốt truyện liền
mạch, tôn trọng trật tự tuyến tính, duy trì quan hệ nhân quả.
Văn học là cuộc vận động không ngừng, nhà văn muốn tồn tại cũng
phải không ngừng sáng tạo, Phạm Duy Nghĩa bên cạnh những cốt truyện
truyền thống, đã có ý thức làm mới mình bằng một số cốt truyện mang yếu tố
cách tân. Đó là các kiểu cốt truyện huyền ảo, cốt truyện khung (truyện lồng
truyện), cốt truyện ghép mảnh, cốt truyện tâm lí.





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1.2. CÁC KIỂU CỐT TRUYỆN TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA
1.2.1. Cốt truyện liền mạch, tuyến tính
Đọc truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa cảm nhận đầu tiên của người đọc đó
là chất "cổ điển" và "truyền thống". Ở đó ta bắt gặp cái âm hưởng của truyện
Nguyễn Tuân, Nam Cao, Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Nghĩa là rất quen thuộc,
có phần "già dặn" so với phần lớn những cây viết trẻ đương thời. Điều này thể
hiện ngay trong cách tổ chức cốt truyện.
Cốt truyện Phạm Duy Nghĩa phần lớn là cốt truyện liền mạch, tuyến
tính. Ở đó thời gian cốt truyện trùng với thời gian trần thuật, các sự kiện được
triển khai liên tục theo mạch thời gian từ trước đến sau, quan hệ nhân quả
được duy trì, kịch tính được chú trọng. Đây là kiểu cốt truyện truyền thống, ra
đời từ thời cổ đại còn tồn tại đến ngày nay, dễ đọc, dễ nắm bắt.
Kiểu trần thuật phổ biến trong truyện ngắn được viết theo lối truyền
thống là truyện thường mở đầu bằng cách giới thiệu về một địa điểm, địa
danh nào đó, nói chính xác thì đó chính là bối cảnh không gian của truyện.
Tức là, bao giờ cũng bắt đầu từ xuất xứ. Đây là mở đầu của Trên đồi lập lòe
ánh lửa: "Làng Muồi cách thị trấn Mường Dồ một dãy núi đá vôi. Tên Làng
Muồi là tên chung, còn làng Muồi là ngôi làng ở ngay đầu xã. Dân trong làng
sống bằng ruộng, nương, bằng việc chọc bới, săn lùng ba ba, tắc kè, rắn rết.
Trừ ít vụ xô xát, chửi càn, nói tục, nhìn chung quanh năm tĩnh lặng, thanh
bình. Riêng nhà Thắm ở lưng chừng đồi". Để rồi, từ ngôi nhà ở lưng chừng
đồi giữa cái làng quê "thanh bình, tĩnh lặng" ấy sẽ xảy ra bao chuyện không
hề tĩnh lặng cũng chẳng bình thường. Cơn mưa hoa mận trắng từ những dòng
đầu tiên, đã mở ra trước mắt người đọc một không gian như thế này: "Từ
ngày lên Kin Chu Phìn, Thuận luôn có cảm giác sống trong một thế giới bưng
bít, biệt lập. Căn nhà lợp tranh bé nhỏ của chị nép mình cạnh rừng vầu. Gian


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
ngủ liền với vách lớp học. Những đêm xuân, Thuận nằm nghe tiếng dúi gặm
măng sồn sột sau nhà. Quanh năm, sương mù vón lại trên đỉnh núi Rú. Ngọn
xám ngắt tỏa khí lạnh buốt, nhô ra bức thành đá sứt sẹo, lởm chởm, phủ cây
dại bùng nhùng. Lâu lâu, từ núi vọng về một âm thanh đục ngầu của đá lở.
Gió rít ùng ục trong rừng vầu đắng, rừng nứa ngộ, nghe như nghẽn lại trong
tầng lá rậm rì. Những buổi chiều vào rừng nhặt củi, Thuận thấy loi nhoi trong
sương một đôi bóng áo chàm". Không gian hoang vắng nơi tận cùng heo hút
ấy càng khắc sâu nỗi cô đơn cùng cực của con người, góp phần lí giải phần
nào nỗi "thèm người" rất thật của cô giáo Thuận, cũng tạo điều kiện cho
những khát khao dục vọng thầm kín của con người có cơ hội bùng lên mãnh
liệt.
Hoặc, mở đầu bằng bối cảnh xảy ra câu chuyện. Đó là một cuộc gặp gỡ
tình cờ trên một chuyến tàu (Cô gái xuống ga Vĩnh Yên): "Tôi ra ga vào một
buổi sáng mùa đông giá lạnh. Khoang tàu nghẽn đặc người. Chen qua đám
hành khách ồn ào, hỗn độn, tôi vừa tìm được số ghế bên cửa sổ thì tàu chuyển
bánh Ngồi cạnh tôi là một cô gái chạc mười chín, hai mươi", để sau đó là
một câu chuyện như trò đùa của số phận; hay có lúc mở đầu tác phẩm lại là sự
lí giải về nguồn gốc câu chuyện: "Trong quãng đời làm nghề nghiên cứu văn
hóa dân gian, tôi đã từng lên những vùng xa xôi bên dãy Hoàng Liên hiểm
trở. Trong một chuyến đi tôi gặp lại Tần, một người tôi quen trong lần tham
gia đoàn làm phim tại lễ hội trùm chăn của người Hà Nhì. Hôm đó xong việc
thì đã muộn. Tôi đứng ở ngã ba đường, chờ mãi không thấy chiếc xe khách
nào chạy về thị xã. Thấy tôi tần ngần, Tần rủ tôi về chơi nhà anh ta ở Ô Cán
Hồ, cách ngã ba hơn mười cây số. Máu giang hồ nghệ sĩ nổi lên, tôi vui vẻ
bằng lòng." (Chuyện ở Ô Cán Hồ).
Trước khi tham gia vào các sự kiện, tình huống truyện, nhân vật thường
được giới thiệu khái quát về lai lịch, diện mạo, tính tình. Ở Thông trên đá,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
trước khi kể về câu chuyện tình éo le của Ngân, bên cạnh nhân vật "tôi" được
giới thiệu một cách sơ lược: "Hồi ấy tôi dạy học tại một trường sư phạm đào
tạo giáo viên tiểu học ở miền núi. Là một thầy giáo trẻ, đẹp trai lồng lộng lại
giảng bài hay", là lời giới thiệu khá kĩ về nhân vật chính: "Trong một lớp tôi
chủ nhiệm đồng thời dạy môn văn, có Ngân là nữ học trò tôi chú ý nhất. Ngân
không xinh theo kiểu rực rỡ, nở bung mà lắng sâu đằm dịu. Tóc Ngân dài
chấm gót và dáng đi mềm mại như một con mèo. Ngân lại nết na, lễ phép,
giản dị, cần cù. Tóm lại, ở Ngân hội tụ đủ tính tốt trên đời, lại phảng phất
hương vị đồng quê Qua vài lần tiếp xúc với Ngân, hình bóng một người vợ
đảm đang, một nàng dâu hiền thảo cứ ló rạng trong tôi ngày một rõ nét dần".
Sau đó mới là mối tình chớm nở của họ, là sự tan vỡ của mối tình ấy và cuộc
đời éo le, vất vả của Ngân, Trước khi gặp Thắm (Lưng đồi lập lòe ánh lửa)
một cách "chính thức", tác giả để cho người đọc được tiếp xúc với nàng qua "
mịt mù bao khói sương huyền thoại" của những lời đồn đại và thêu dệt. Rằng
"nàng như người trong cổ tích", "từng đoạt giải nhất sinh viên thanh lịch ở
trường đại học", rồi "nàng không phải hạng tầm thường" "đã gặp Thắm một
lần là không hể nào quên", rằng "nàng nhân đạo lắm", "nàng giản dị, truyền
thống", "nàng sạch như sương, trong như nước cất", để rồi nàng trở thành
một "thương hiệu", một "huyền thoại" khiến người ta tò mò, háo hức khám
phá về nàng, về câu chuyện đời nàng.
Cốt truyện truyền thống luôn tuân theo trật tự thời gian, vì thế truỵên
thường bắt đầu bằng một thời điểm trong quá khứ với cái nhìn hồi cố của
người kể truyện rồi kể ngược trở lại về phía hiện tại theo dòng tuyến tính.
Không khó để gặp trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa những kết cấu như thế.
Chẳng hạn truyện Lá Vàng Chải: “Dạo ấy, đôi công nhân chúng tôi xây đập
tràn ở Lá Vàng Chải”, truyện Ngôi nhà nhỏ ven hồ: " Mùa thu năm ấy họa sĩ

Viễn rời thành phố về sống tại ngôi nhà cũ kĩ ở vùng hồ". Rồi, cứ thế, các sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
kiện cứ tuần tự, chuyện xảy ra trước, kể trước, chuyện xảy ra sau, kể sau, dần
dần cho đến khi kết thúc. Lối kể chuyện trùng khít thời gian cốt truyện và thời
gian trần thuật ấy làm cho câu chuyện trở nên dễ hiểu, dễ nắm bắt, phù hợp
với khả năng tiếp nhận của số đông người đọc ở miền núi.
Tuy nhiên, ở một số truyện các thành phần cốt truyện không được trình
bày tuần tự theo một trật tự liền mạch của chuỗi sự kiện cũng như theo trật tự
tổ chức cốt truyện truyền thống. Đó là những tác phẩm được mở đầu bằng
hiện tại rồi ngược về quá khứ, bắt đầu khi sự kiện đã xẩy ra rồi đi tìm nguyên
nhân nguồn cội. Vệt sáng trên ban công mở ra bằng những suy nghĩ day dứt,
hối hận của nhân vật tôi: "Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa. Mỗi lần nhớ
đến nó, cái vẻ hồn nhiên tươi tắn như được chắt ra từ những cánh bằng lăng
tím muốt lại tràn ngập tâm hồn tôi, đọng mãi trong tôi một nỗi buồn dai dẳng.
Nó không còn bé bỏng, tôi biết thế, nhưng trong kí ức của tôi nó luôn là một
cô bé, mãi mãi không bao giờ lớn thêm", rồi nhớ lại quá khứ đã qua:"Tôi gặp
con bé vào một buổi tối cuối mùa xuân. Hôm ấy ". Còn ở Lá bạch đàn thì
hiện tại lại hiện ra rất đột ngột, táo bạo:
" Chiếc áo phông rớt xuống.
Rồi đến đôi tất trắng. Mỏng, nhẹ như sương.
Ngón tay anh chạm vào chiếc cúc quần bò của Liên. Chiếc cúc bằng
đồng, lành lạnh, như con mắt gườm gườm.
Anh dừng lại, nhìn qua ô cửa căn phòng khách bé nhỏ, một giường".
Theo ánh nhìn đó, thời gian trở về buổi chiều hôm ấy khi Minh tình cờ
gặp lại Liên, rồi lại trở lại câu chuyện dở dang của hai người và lại chiếu về
quá khứ xa hơn, "mười năm trước".


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Việc xáo trộn trật tự trước sau của cốt truyện để tạo ra một trật tự trần
thuật theo dụng ý của tác giả là một việc làm quen thuộc nhằm mang lại hiệu
quả nghệ thuật cùng sự hấp dẫn cho tác phẩm. Với sự thay đổi vị trí của các
yếu tố trong nội bộ cốt truyện như vậy, truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa đã
tránh được sự nhàm chán đơn điệu, tạo nên sức hấp dẫn mới. Điều này có
được cũng là nhờ một phần ở cách kể chuyện đầy dẫn dụ của nhà văn. Nhất
là, sự đan xen quá khứ, hiện tại không hề đột ngột mà những đan xen ấy như
những lớp lang của truyện, hết lớp này đến lớp khác, trọn vẹn, tuần tự, mạch
chuyện không có cảm giác bị chặt vụn, đột ngột, trật tự tuyến tính vẫn được
đảm bảo. Người đọc cũng không gặp khó khăn khi nắm bắt cốt truyện.
Không khoát ngôn về những điều "đao to búa lớn", truyện ngắn Phạm
Duy Nghĩa là sự kiếm tìm lặng lẽ những câu chuyện cuộc sống với những con
người rất người và rất đời. Và, mỗi truyện lại truyền tải một thông điệp riêng
mang đầy ý nghĩa nhân văn. Đó là hành trình đi tìm tình yêu và tự do trong Lá
Vàng Chải, là sự kiếm tìm đáp án cho câu hỏi: Hạnh phúc là gì? trong Lá
bạch đàn. Là niềm tin rằng: tâm hồn trong sáng, tấm lòng nhân hậu của con
người có thể cứu rỗi con người, chắp cánh cho tâm hồn người bay vào tương
lai tốt đẹp (Ngôi nhà nhỏ bên hồ), niềm tin mãnh liệt vào sức sống của con
người "ở nơi khắc nghiệt mới có bản lĩnh lầm lụi vươn lên" như loài thông
"mọc trên núi đá bao giờ cũng cứng rắn hơn thông mọc trên đất thường"
(Thông trên đá). Có khi lại gửi đến độc giả một thông điệp như tuyên ngôn
nghệ thuật của nhà văn: "văn chương mà làm gì khi người viết ra nó quay
lưng lại với nỗi khổ đau của con người." (Vệt sáng trên ban công).
Dung dị, cổ điển mà không hề nhàm chán, những cốt truyện mang tính
truyền thống của Phạm Duy Nghĩa cuốn hút người ta bởi cái duyên ngầm. Nét
duyên ấy ẩn hiện trong mỗi truyện bằng "một cái "tứ" rất riêng" được chắt ra


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
từ cuộc sống đời thường và triển khai một cách tự nhiên với “một lớp chi tiết
bề mặt rất sống động” (La Khắc Hoà).
Chi tiết là tiểu tiết trong tác phẩm tự sự. Truyện ngắn có thể không có cốt
truyện nhưng không thể nghèo chi tiết bởi "truyện ngắn là một vấn đề được
xây dựng bằng chi tiết" (Nguyễn Công Hoan). Trong truyện ngắn Phạm Duy
Nghĩa, những "chi tiết đời sống" rất thật đã góp phần làm nên hồn cốt tác
phẩm. Có chi tiết đóng vai trò trung tâm thẩm mỹ, là nơi nhà văn gửi gắm tư
tưởng nghệ thuật, như chi tiết giấc mơ về cơn mưa hoa mận trắng tinh khiết,
tươi lành đến với Thuận (Cơn mưa hoa mận trắng) ngay sau cuộc "giằng giữ,
bảo toàn đến tận cùng, khốc liệt", gửi đến cho độc giả khát vọng về một sự
thanh lọc trong tâm hồn con người; chi tiết Tú (Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh)
cất tiếng gọi tìm người mình yêu trên đỉnh núi gió gào buốt lạnh mà chỉ nhận
lại tiếng vọng của chính mình cho thấy nỗi cô đơn đau đớn cùng cực của con
người Ngoài ra, rất nhiều chi tiết phụ trợ mang chức năng đẩy câu chuyện
vận động, phát triển Nhờ những chi tiết mà không khí, cảnh trí, tình huống,
tính cách cũng như hành động, tâm tư nhân vật được bộ lộ đầy đủ.
Một chi tiết đắt giá ngoài ý nghĩa chân thực còn cần phải đạt tới ý nghĩa
tượng trưng, hàm chứa một cách nhìn, cách đánh giá và năng lực tưởng tượng
của nhà văn đối với cuộc sống và con người.
Chi tiết Thuận ăn thịt con khỉ chết cháy với câu chuyện người đàn bà
oán hận chồng bỏ vào núi Rú rồi mất tích, chuyện anh Trương lâm trường,
sống lâu với khỉ, cười khèng khẹc như khỉ, mọc đuôi như khỉ muốn nói rằng
sự cô đơn nơi hoang dã dễ khiến con người trở nên tha hóa, biến dạng.
Chi tiết anh chồng Thuận bị con ngựa đá vào bọng đái để rồi đến đêm
“Chị vùi mặt vào tảng ngực trần hồi khét, cào cấu, khóc suốt đêm”, là để nói
cái hạnh phúc trần gian bị tước đoạt phũ phàng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Chi tiết nhạc sĩ Vi Văn Quăm trần truồng vùng vẫy điên cuồng, nhảy
múa như một hung thần và gào thét dữ dội bên bờ suối giữa rừng già trong
đêm trăng, hay chi tiết "ông sếp" cũng trần truồng đi tung tăng như đứa trẻ
giữa bãi đậu tương một cách khoái chá, sung sướng, phải chăng là muốn nói
đến sự khát khao tự do, khát khao được là chính mình của con người giữa
cuộc đời nhộm nhoạm và đầy lừa dối?
Dụng công cho những chi tiết ấy, nhà văn đã tạo nên sức nặng rất riêng
cốt truyện của mình. Và, bằng việc “thả những chi tiết đắt giá vào một cấu
trúc quen thuộc” Phạm Duy Nghĩa cũng đã tạo cho mình diện mạo rất riêng
của một nhà văn trẻ.
Mặc dù được coi là nằm ngoài hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện
nhưng ở mỗi tác phẩm văn học - nhất là những tác phẩm văn học có giá trị, sự
xuất hiện của yếu tố ngoài cốt truyện đã góp phần đáng kể vào việc soi sáng
thêm chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, bộc lộ những quan điểm, thái độ của
tác giả, giúp người đọc tiếp cận sâu sắc hơn tác phẩm.
Phạm Duy Nghĩa đã tận dụng những ưu thế đó của yếu tố ngoài cốt
truyện để làm giàu có thêm cho cốt truyện của mình. Dù cốt truyện đơn giản,
nhưng truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa luôn được làm sinh động và tự nhiên bởi
những mẩu chuyện luôn được bổ sung cho cốt truyện chính. Đó là “những
chuyện tầm phào” Minh (Lá bạch đàn) nhặt nhạnh, chép vào cuốn sổ tay của
anh: cách dạy vợ "quái chiêu" của một hoạ sĩ, một nhà khảo cổ; lời tâm sự của
một cô y tá bỏ chồng vì chồng khi ngủ luôn phát ra những âm thanh gợi
những tưởng tượng hết sức ghê tởm, lời kể của một phụ nữ ghê sợ chồng mỗi
khi gần gũi vì bị ám ảnh chồng mình là một con thuồng luồng hay là trang
nhật kí của một cô bé về người bố thiếu tế nhị của mình,… Cả sự đúc kết của
chính Minh khi lí giải về nguyên nhân đổ vỡ của hạnh phúc gia đình : “Sự rạn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
nứt hạnh phúc gia đình ngày càng trở nên đa dạng trong cuộc sống hiện đại.
Lâu nay người ta thường chỉ nhắc đến những hiện tượng phổ biến Trong
thực tế còn tồn tại những bất hạnh khó đặt tên, tưởng chừng không đáng kể.
Chúng vụn vặt như một mẩu, mảnh kim loại lẫn trong cỏ cây, đất cát nhưng
có thể ngấm ngầm gây vi trùng uốn ván chết người".
Chuyện về người chú tàn tật kì lạ, về anh công nhân có bàn tay dị dạng
mà tài hoa ở Cô gái xuống ga Vĩnh Yên, ở Trên đồi lập loè ánh lửa là câu
chuyện về cuộc đời người điên tên Hải vốn là một Bí thư xã đoàn năng nổ bị
ghen ghét, vu vạ mà phát điên, câu chuyện về đôi gian phu dâm phụ cả gan
dẫn nhau lên bãi tha ma làng làm chuyện bậy bạ và phải hứng chịu hậu quả
đáng sợ. Ở Cơn mưa hoa mận trắng là những mảng kí ức mang “mùi bùn”,
“mùi cá” của nhân vật Thuận.
Những câu chuyện ấy đã làm sinh động thêm không khí truyện, giúp
cho câu chuyện chính đi hết một cách tự nhiên và nhiều lúc làm giảm độ căng
của truyện. Có khi người đọc còn không phân biệt đâu là chính, là phụ vì
chúng thật quá, như thế những câu chuyện ấy tự chúng đã tồn tại như vậy, nhà
văn chỉ việc đưa vào trang viết của mình mà không cần sắp đặt gì cả. Và như
thế, người đọc cứ bị cuốn đi, hút đi như đang xem một bộ phim 3D sống
động, như thể mình cũng đang sống trong thế giới của câu chuyện cho đến tận
dấu chấm kết thúc của tác phẩm, mới bừng ngộ và lí giải được tại sao một
truyện nói về những điều không mới, kể một câu chuyện hết sức bình thường
lại làm mê hoặc người ta đến thế.
Đặc biệt, mỗi truyện của Phạm Duy Nghĩa, nhất là những trang văn
viết về miền núi lại "tựa" trên một cái nền thiên nhiên rất riêng, đầy ám ảnh :
Đó là một Tiếng gọi lưng chừng dốc tựa vào "rặng núi xanh thẳm đằng
xa đang trong cuộc giằng co với mây trắng", có "cây móc cao buông trùm hoa


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
vàng" cất tiếng nói của lương tri. Đó là một Ngôi nhà nhỏ ven hồ gắn liền với
hình những thân bạch đàn mảnh dẻ trắng xanh thì thầm thả xuống màn
sương chiếc lá màu đỏ úa cảnh vật thiên nhiên thơ mộng như thiên nhiên
nước Nga xa xôi, chỉ hiện lên qua những trang tiểu thuyết. Trăng trên rừng
Tông Qua Mu lại đóng đinh vào tâm hồn người đọc một hình ảnh một loài
cây, đẹp một cách ngạo nghễ và quái đản, hiên ngang, dữ dội đầy sức sống,
đầy tự do: “Gỗ nó rắn như gỗ loài tứ thiết, nếu bửa ra, chắc phải đỏ như thịt
gỗ cây ngọc am. Rễ nó cắm sâu trên đá phủ đầy rêu đỏ loét như quết trầu. Bốn
mùa, lá cây độc một màu đỏ rực, suốt đêm, lá rít gió, cả cây rung chuyển ào
ảo như một cơn bão lớn, nhiều chiếc lá bị bứt khỏi cây như những giọt hồng
cầu ném quyết liệt vào không gian". Và, độc giả khó có thể nào quên một
lòng hồ sáng xanh như một tấm kính đã trở thành tấm gương soi sáng và lưu
dấu những kỉ niệm ở quá khứ cũng như hiện tại của Minh và Liên trong Lá
bạch đàn.
Giữ một vị trí độc lập nhưng thiên nhiên trong các truyện ngắn của
Phạm Duy Nghĩa đã có sức mạnh hỗ trợ rất lớn cho cốt truyện. Nó khiến cho
không gian truyện được mở rộng và có chiều sâu, tạo nên sự tươi xanh cho
con chữ, trở thành một thứ keo kết dính, nuôi dưỡng mạch chuyện một cách
hết sức tự nhiên. Vì thế góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tới người
đọc. “Chúng, thứ thiên nhiên điểm tựa ấy xuất hiện trang văn của Phạm
Duy Nghĩa đặc biệt trang trọng và dâng hiến như không có chúng thì anh đã
không có những truyện ngắn ấy” (Dạ Ngân).
Có thể nói rằng, Phạm Duy Nghĩa vẫn trung thành với lối viết truyền
thống, với sự lựa chọn cốt truyện cổ điển với mạch tuyến tính, trật tự nhân
quả. Nhưng, truyện của Phạm Duy Nghĩa không hề rơi vào nhàm tẻ như ta
vốn lo sợ. Những chi tiết đắt giá, những yếu tố ngoài cốt truyện được xây đắp
công phu được đan luồn một cách khéo léo mà tự nhiên đã khiến cho truyện


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
ngắn của Phạm Duy Nghĩa trở nên sống động cuốn hút như (thậm chí là hơn)
những truyện ngắn có cốt truyện phức tạp, li kì, đầy biến động với vô số sự
kiện cũng như nhiều cách tân khác. Bằng cách ấy, Phạm Duy Nghĩa, dù đi
trên lối cũ, vẫn để lại dấu ấn của riêng mình.
1.2.2.Cốt truyện huyền ảo
Cốt truyện huyền ảo, ra đời từ thời cổ đại và phát triển đến thời hậu
hiện đại thế kỉ XXI, là cốt truyện đan xen lẫn lộn các yếu tố hoang đường với
yếu tố thật (Biến dạng - F. Kafka; Trăm năm cô đơn - G. Marque, truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp, một số truyện đường rừng của Lan Khai, Thế Lữ, ).
Sự đổi thay trong giao lưu văn học, sự mở rộng trong quan niệm về
hiện thực và đối tượng phản ánh của văn học, sự mở rộng trong quan niệm về
phương pháp sáng tác và tiếp cận hiện thực, sự tiếp nối có sáng tạo truyền
thống văn hoá văn học dân tộc, đã lí giải cho “những trang viết lạ” gắn với
yếu tố kì ảo đầy “ma lực” xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống văn học hôm
nay. Điều này cũng chỉ rõ, khi mà quan niệm thô sơ, giản đơn về chủ nghĩa hiện
thực đã bộc lộ những hạn chế nhất định của nó thì lập tức xuất hiện bộ phận văn
học có yếu tố kì ảo, sáng tác theo thi pháp huyền thoại và dần trở nên phổ biến.
Đó là một hiện tượng có tính chất quy luật của văn học đương đại.
Nếu truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp viết vào thập niên cuối của thế
kỉ XX, cốt truyện được xây dựng bằng một hệ thống chi tiết mang yếu tố kì ảo
thì tác phẩm của Phạm Duy Nghĩa chỉ điểm xuyết bằng một vài chi tiết kì ảo.
Điều này khiến chi tiết trở nên mờ ảo, tạo tác dụng làm mờ hoá ranh giới giữa
hiện thực và thế giới ảo. Những chi tiết này được xếp một cách khéo léo xen
giữa nhiều chi tiết của đời thực nhằm biểu đạt dòng tâm trạng của nhân vật.
Nó đem lại những cuốn hút kì lạ, bất ngờ cho độc giả. Bởi ở đó, yếu tố kì ảo
là nhân tố quan trọng mang lại những giá trị thẩm mĩ thực sự cho tác phẩm


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
chứ không nhằm mang đến kích thích nhu cầu chuộng lạ đơn thuần của người
đọc. Mỗi chi tiết kì ảo của Phạm Duy Nghĩa đều mang một thông điệp thẩm
mĩ nhất định.
Ở Trên đồi lập loè ánh lửa, là chi tiết khi Thắm chết: “Trời đất, cô hoá
ngay trước cửa đền, chỗ này này. Mà lạ, lúc nhà đền biết, nâng dậy không
thấy gì, xác người cứ nhẹ như sương” và “Lúc chôn xong, có con cò sạch sẽ
vụt bay lên, trắng muốt”. Những chi tiết ấy, đặt vào trong toàn truyện, phải
chăng muốn nói đến tâm hồn trong trắng, trinh bạch của một gái làm tiền là
Thắm – dù tấm thân đã lấm láp bụi trần ai, tâm hồn nàng vẫn mãi mãi trinh
bạch, trắng trong gấp trăm ngàn lần những kẻ ô hợp đang sống kia, như ông
Sướng, như tay Tân đội trưởng đội thi hành án huyện Mường Dồ và những kẻ
đang tha hoá đạo đức khác.
Ở Cô gái xuống ga Vĩnh Yên, - một chi tiết nhỏ thôi, ấy là sự xuất hiện
của hồn ma của anh công nhân lâm trường xấu xí, có bàn tay sáu ngón dị
dạng mà khéo léo, tài hoa . “ những người đi đêm thỉnh thoảng vẫn gặp hồn
ma của anh ấy. Tất cả bọn đều khẳng định đã nhìn thấy một cột khói đen
giống hình người cụt đầu, bay chập choạng trên mặt hồ và vực lau vào những
đêm trăng suông vắng lặng ”. Sự xuất hiện của hồn ma ấy, phải chăng muốn
nói về sự u uất, đau thương không tan đi của một con người không toàn vẹn,
hay là sự tiếp tục cuộc hành trình lặng lẽ kiếm tìm cái đẹp, cái vẹn toàn còn
dở dang của người công nhân đáng thương ấy.
Ở Người đổi mặt, yếu tố kì ảo lại xuất hiện ở một dạng khác, đó là
khuôn mặt biến dạng thành "khuôn mặt lạ". Nếu ở tác phẩm của F.Kafka biến
dạng biểu thị sự cô đơn khủng khiếp của con người thì ở tác phẩm của Phạm
Duy Nghĩa, đó là sự tha hoá cùng cực của con người. Đó là khuôn mặt biến
dạng một cách đáng sợ của một ông quan chức lớn. Một sáng tỉnh dậy, ông


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
kinh hoảng nhận ra khuôn mặt cũ của mình đã biến mất, thay vào đó là một
“khuôn mặt lạ”. Bộ mặt biến dạng ấy, phải chăng, đại diện cho sự biến dạng
của đạo đức con người. Qua sự biến dạng của bộ mặt “quan chức lớn”, nhà
văn đang chỉ ra rằng, đang có sự tha hoá, xuống cấp về mặt đạo đức của một
bộ phận giới chức hiện nay. Như ông "quan lớn" kia chuyên chém gió trên
diễn đàn, tuôn bao lời vàng ngọc, những ngôn từ được mạ lên sáng loáng về
chống tham ô lãng phí kia lại vốn là một trí thức biến chất hèn hạ từng ăn
trộm gà hàng xóm, nhìn trộm mông con gái đi vệ sinh, “lên xe xuống ngựa”
được “tất cả chỉ nhờ một chữ “tốt””, luôn mồm chống tham ô lãng phí nhưng
luôn chạy sô kiếm phong bì và tết đến thì được coi là mùa vụ làm ăn luôn bội
thu với những chiếc phong bì “như những mảnh thiên thạch trắng lốp từ đâu
rơi xuống đầy nhà”. Đáng sợ hơn khuôn mặt biến dạng kia là sự dửng dưng,
coi như bình thường của những người quanh ông trước sự biến dạng ấy, như
vợ ông, cô hàng xóm, hay những cử toạ ngồi nghe ông thuyết giảng vẫn tay
bắt mặt mừng, vỗ tay rôm rả, phong bì “dúi” đều. Những người ấy, sống lâu
cùng cái giả, sống lâu trong cái giả, sống lâu dưới cái giả đã thành quen mà
không nhận ra sự thay đổi của khuôn mặt ông “khác nhau như giọt nước với
giọt mực”. Hay là, chính họ cũng biến dạng, cũng đổi mặt, đổi lòng?
Không thể không nhắc tới trong kiểu cốt truyện huyền ảo của Phạm
Duy Nghĩa là Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh. Người đọc khó mà quên được cái
không khí hư ảo, huyền hồ đầy chất liêu trai khi hồn hoa cẩm tú cầu hiển
hiện: "Vào một buổi tối mùa xuân, Tú nằm trong chăn nhìn bóng đêm dìu dịu
buông trùm lên ngôi nhà gỗ, vẫn màu tối hòa sắc xanh lam phản chiếu từ hoa
bìm bìm. ( ) Đang trong trạng thái lơ mơ ngưng đọng thế, thì có tiếng chân
người rất khẽ bước lên thang. "Ai thế nhỉ?" - Tú hơi bực vì mình lại phải nghĩ.
Tiếng chân dừng lại bên ngoài cánh cửa khép và có tiếng gọi khẽ. Ý nghĩ thứ

hai còn lơ lửng đâu đó chưa nhập vào đầu Tú, nhưng theo phản xạ, Tú quài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
tay bật công tắc điện phía trên đầu. Điện không sáng. Tú nhỏm dậy vừa lúc
cánh cửa bật mở, và một luồng sương trắng từ ngoài cuồn cuộn thốc vào.
Sương mù mịt vẩn lên khắp nhà, lạnh buốt. Tú lờ mờ nhìn thấy trong
sương một hình người. Khi sương lắng hết và ánh sáng xanh nhạt bên ngoài
làm mọi vật trong nhà nhìn được khá rõ, thì Tú thấy rợn người lên.
Ngồi ngay trước mặt Tú, trên chiếc ghế được đóng bằng gỗ xấu là một
người con gái lạ. ( ) Người đó kéo vạt váy, khép hai đùi lại và mỉm cười. Nét
cười lẳng lơ huyền bí.
Tú nhìn cô ta, càng nhìn càng thấy sợ. Rõ ràng ngồi đó là một người,
mà vẫn có cảm giác không phải là người.
- Em là hoa cẩm tú cầu - Cô gái nói, âm sắc trong như sương".
Sự xuất hiện lạ kì của hoa cẩm tú cầu, không chỉ làm mê hoặc những ai
yêu thích những câu chuyện phiêu lưu đầy chất liêu trai hay còn tin vao
những điều huyền hoặc mà quan trọng hơn, nó lí giải cho nỗi cô đơn của con
người, nó cất tiếng nói đầy nhân bản bênh vực cho những cô gái bán hoa "tự
lòng họ không lả lơi đĩ điếm, mà họ bị chiếu mệnh bởi cẩm tú cầu", nó còn
ám ảnh vào tâm hồn người đọc những suy nghĩ về cuộc đời hôm nay, "loài
người bây giờ tỉnh táo quá" mà thiếu đi những tâm hồn "sống sơ giản", thân
thiện, đáng yêu và đáng tin.
Cùng với câu chuyện kì lạ ấy là một bầu không khí cũng được tắm
trong sự hư ảo, huyền hoặc của không gian vùng núi cao với mây, với sương,
với ánh trăng trong, với sắc tím hoa bìm bìm, được kể bằng giọng kể bảng
lảng, hư thực của nhà văn. Tất cả, đều mang một sức hút đến lạ kì, khiến cho
thiên truyện ngắn này được coi một trong những tác phẩm tiêu biểu cho "bản
sắc" Phạm Duy Nghĩa.

×