Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––
LÊ VĂN MIỀU
TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ
TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành: ĐỊA LÍ HỌC
Mã số: 60. 31.95
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÍ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU 0
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 1
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2
3.1. Mục tiêu 2
3.2. Nhiệm vụ 2
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu của đề tài 3
5.1. Các quan điểm nghiên cứu 3
5.2. Các phương pháp nghiên cứu 3
6. Những đóng góp chính của đề tài 4
7. Cấu trúc của luận văn 5
Phần II: NỘI DUNG 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ
CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ 6
1.1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ kinh tế 6
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế 6
1.1.2. Nguyên tắc và nội dung chủ yếu của tổ chức lãnh thổ kinh tế 7
1.1.2.1. Những nguyên tắc chủ yếu của tổ chức lãnh thổ kinh tế 7
1.1.2.2. Nội dung của tổ chức lãnh thổ kinh tế 9
1.1.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế 9
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong lãnh thổ 10
1.2. Khái quát một số lí thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế 13
1.2.1. Lí thuyết tăng trưởng nội sinh và ngoại sinh 13
1.2.2. Lí thuyết định vị công nghiệp của A.Weber 14
1.2.3. Lí thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp trong phạm vi ảnh
hưởng của thành phố 15
1.2.4. Lí thuyết các “điểm trung tâm” của W.Christaller 15
1.2.5. Lí thuyết cực phát triển 16
1.3. Các hình thức chủ yếu tổ chức lãnh thổ kinh tế và việc vận dụng
vào thực tiễn ở Việt Nam 17
1.3.1. Hành lang kinh tế 17
1.3.2. Khu kinh tế 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1.3.3. Vùng kinh tế trọng điểm 20
1.3.4. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp 21
1.3.5. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 24
1.3.6. Tổ chức lãnh thổ dịch vụ 25
Chương 2. HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH
CAO BẰNG 26
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng 26
2.1.1. Vị trí địa lí 26
2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 28
2.1.2.1. Địa chất và khoáng sản 28
2.1.2.2. Đặc điểm địa hình 29
2.1.2.3. Đất đai và thổ nhưỡng 35
2.1.2.4. Khí hậu 36
2.1.2.5. Tài nguyên nước và chế độ thủy văn 38
2.1.2.5. Tài nguyên sinh vật 39
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 42
2.1.3.1. Dân cư và nguồn lao động 42
2.1.3.2. Cơ sở vật chất, kĩ thuật hạ tầng 43
2.1.3.3. Vốn đầu tư và thị trường 46
2.1.3.4. Đánh giá chung về thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng 47
2.2. Hiện trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng 49
2.2.1. Khái quát chung sự phát triển kinh tế Cao Bằng những năm gần đây 49
2.2.1.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế 49
2.2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 50
2.2.1.3. Cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu lao động 54
2.2.2. Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế tỉnh Cao Bằng 55
2.2.2.1. Tổ chức lãnh thổ ngành nông – lâm – ngư nghiệp 55
2.2.2.2. Tổ chức lãnh thổ ngành công nghiệp 69
2.2.2.3. Tổ chức lãnh thổ ngành dịch vụ 77
2.2.2.4. Kinh tế cửa khẩu 82
2.2.2.5. Tổ chức không gian hệ thống đô thị 86
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH
CAO BẰNG 90
3.1. Các căn cứ định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3.1.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng đến
năm 2020 90
3.1.1.1. Quan điểm phát triển 90
3.1.1.2. Mục tiêu phát triển 91
3.2. Định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng 93
3.2.1. Định hướng tổ chức lãnh thổ công nghiệp 93
3.2.1.1. Định hướng chung 93
3.2.1.2. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp 94
3.2.2. Định hướng tổ chức lãnh thổ nông – lâm - ngư nghiệp 98
3.2.2.1. Định hướng chung 98
3.2.2.2. Tổ chức lãnh thổ nông – lâm - ngư nghiệp 99
3.2.3. Định hướng tổ chức lãnh thổ dịch vụ 102
3.2.3.1. Định hướng chung 102
3.2.3.2. Tổ chức lãnh thổ dịch vụ 103
3.2.4. Định hướng xây dựng và phát triển hành lang kinh tế 104
3.2.4.1. Hành lang kinh tế quốc lộ 3 104
3.2.4.2. Hành lang kinh tế quốc lộ 34 105
3.2.5. Định hướng tổ chức không gian đô thị 106
3.3. Các giải pháp chủ yếu đảm bảo tổ chức lãnh thổ kinh tế đạt hiệu quả 106
3.3.1. Giải pháp về quy hoạch 106
3.3.2. Giải pháp về đầu tư 107
3.3.3. Giải pháp về cơ chế, chính sách 108
3.3.5. Giải pháp về khoa học công nghệ 109
3.3.6. Giải pháp về hợp tác đối ngoại 110
Phần III: KẾT LUẬN 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các hành lang kinh tế quan trọng của Việt Nam 18
Bảng 1.2: Các Khu kinh tế của Việt Nam (tính đến năm 2008) 20
Bảng 1.3: Các khu công nghiệp ở Việt Nam (tính đến tháng 12/2007) 22
Bảng 1.4: Các khu nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam, năm 2007 24
Bảng 2.5: Cơ cấu sử dụng đất tỉnh Cao Bằng, năm 2008 36
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động phân theo trình độ chuyên môn kĩ thuật,
năm 2009 43
Bảng 2.9: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế, 54
Bảng 2.10: Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành 57
Bảng 2.11: Số lượng trang trại tỉnh Cao Bằng, năm 2008 60
Bảng 2.13: Bình quân việc sử dụng các loại hình lao động của trang trại,
năm 2007 62
Bảng 2.14: Tình hình sản xuất mía của Cao Bằng, giai đoạn 2002 - 2008 63
Bảng 2.15: Tình hình sản xuất vùng nguyên liệu mía nhà máy đường
Phục Hòa tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 2002 – 2008 64
Bảng 2.16: Tình hình sản xuất vùng nguyên liệu thuốc lá tỉnh Cao Bằng, 65
Bảng 2.17: Giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế và
ngành kinh tế, giai đoạn 2005 - 2008 (Giá cố định1994) 69
Bảng 2.18: Cơ cấu giá trị sản xuất phân theo thành phần kinh tế và ngành
kinh tế, giai đoạn 2000 – 2008 (Giá thực tế) 71
Bảng 2.19: Giá trị sản xuất công nghiệp tiểu vùng trung tâm phân theo
thành phần kinh tế, năm 2008 (giá so sánh 1994) 74
Bảng 2.20: Giá trị sản xuất công nghiệp tiểu vùng miền Đông phân theo
thành phần kinh tế, năm 2008 (giá so sánh 1994) 74
Bảng 2.21: Giá trị sản xuất công nghiệp tiểu vùng miền Tây phân theo
thành phần kinh tế, năm 2008 (giá so sánh 1994) 75
Bảng 2.22: Một số kết quả của ngành du lịch Cao Bằng, 78
Bảng 2.23. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thông qua các cửa khẩu trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 2001 – 2008 85
Bảng 2.24: Dân số thành thị tỉnh Cao Bằng, giai đoạn 1998 – 2008 86
Bảng 2.25: Dân số các đô thị tỉnh Cao Bằng, năm 2008 88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Cao Bằng 27
Hình 2.2: Biểu đồ nhiệt độ, lượng mưa trung bình các tháng năm 2008 38
Hình 2.3: GDP và chỉ số phát triển GDP tỉnh Cao Bằng, giai đoạn
2000 – 2008 49
Hình 2.4: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Cao Bằng, giai đoạn
2000 – 2008 50
Hình 2.5: Bản đồ phân hóa lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng, năm 2005 53
Hình 2.6: Bản đồ nông nghiệp tỉnh Cao Bằng, năm 2008 68
Hình 2.7: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP tỉnh Cao Bằng 70
Hình 2.8: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu vực,
năm 2008 75
Hình 2.9: Bản đồ công nghiệp tỉnh Cao Bằng, năm 2008 76
Hình 2.10: Bản đồ du lịch tỉnh Cao Bằng, năm 2008 80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
Phần I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức lãnh thổ kinh tế là một trong những kế hoạch và hành động
nhằm phát huy tốt nhất các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia hay mỗi vùng lãnh thổ. Đây là vấn đề không mới đối với thế giới,
nhưng đối với Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề từ lí luận đến thực tiễn chưa
được làm rõ và còn phải tiếp tục nghiên cứu. Trong những năm gần đây, tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt và được
coi như một trong những công cụ quan trọng để phát triển vùng. Hay nói cách
khác, muốn phát triển một cách có hiệu quả thì không thể không tiến hành tổ
chức lãnh thổ kinh tế một cách hợp lí. Cao Bằng là một trong những tỉnh
nghèo nhất cả nước, việc “thiết kế”, tổ chức lãnh thổ kinh tế nhằm sử dụng
một cách hợp lí các tiềm năng về tự nhiên và kinh tế, xã hội để đem lại hiệu
quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo sự phát triển
bền vững là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết. Với những lí do đó, chúng
tôi lựa chọn hướng nghiên cứu “Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng”.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Tổ chức lãnh thổ kinh tế là vấn đề không mới trên thế giới, nhiều nhà
khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau đã dành nhiều công sức nghiên
cứu vấn đề này, trong đó tiên phong là các nhà khoa học Địa lí. Từ việc
nghiên cứu thực tiễn đã hình thành những lí thuyết khái quát có thể được coi
là những lí luận cổ điển về tổ chức lãnh thổ kinh tế quý báu để học tập và áp
dụng, như W.Christaller với việc hình thành các trung tâm tạo vùng; Francoi-
Perroux với vấn đề phát triển các cực tăng trưởng; VonThunen với tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp theo các vành đai xung quanh các đô thị…
Ở Việt Nam, tổ chức lãnh thổ kinh tế là đối tượng nghiên cứu quan
trọng của khoa học Địa lí từ giữa thế kỉ XX. Đã có nhiều luận án, bài báo,
giáo trình về tổ chức lãnh thổ kinh tế được công bố. Viện chiến lược phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu và công bố các quy hoạch
phát triển cho cả nước cũng như cho từng vùng lãnh thổ. Tuy vậy, những
công trình đó phạm vi nghiên cứu có qui mô lớn, mặt khác các hình thức tổ
chức sản xuất lãnh thổ cũng có nhiều thay đổi do tác động của nền kinh tế thị
trường. Riêng với Cao Bằng, từ trước đến nay chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về lĩnh vực này.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí luận và thực
tiễn của tổ chức lãnh thổ kinh tế và vận dụng chúng vào việc nghiên cứu tổ
chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng. Đề xuất các giải pháp nhằm khai thác và
phát huy hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng phát
triển nhanh và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ
kinh tế và vận dụng vào việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
- Đánh giá thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất định hướng và kiến nghị những giải pháp chủ yếu tổ chức lãnh thổ
kinh tế tỉnh Cao Bằng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về lãnh thổ: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Cao Bằng, gồm 12 huyện
và 01 thị xã.
* Về thời gian: Đề tài sử dụng số liệu có trong Niên giám thống kê của Cục
thống kê tỉnh Cao Bằng và các số liệu thu thập khác từ các cơ quan quản lí
nhà nước trong thời gian từ năm 2000 đến 2010, kế hoạch đến năm 2015 và
tầm nhìn đến năm 2020.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Các quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm lãnh thổ: Các sự vật, hiện tượng địa lí đều tồn tại và phát
triển trên một không gian lãnh thổ nhất định. Vấn đề là phải tìm ra sự phân
hoá của các sự vật, hiện tượng và quy luật phân bố của chúng trong không
gian. Nghiên cứu đề tài cần dựa trên quan điểm này để phân tích sự khác biệt
của các sự vật, hiện tượng và quá trình địa lí, đồng thời vạch ra những mục
tiêu, phương hướng sử dụng phù hợp với điều kiện của lãnh thổ.
- Quan điểm hệ thống: Quán triệt quan điểm này làm cho việc phân
tích, đánh giá một lãnh thổ được khách quan, khoa học và qua đó hiểu được
các mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống và
giữa các hệ thống với nhau.
- Quan điểm lịch sử, viễn cảnh: Sự phát triển của một lãnh thổ kinh tế
là một quá trình xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Qua đó có
thể thấy được sự biến đổi, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến biến đổi đó và
xu hướng phát triển trong tương lai.
- Quan điểm kinh tế: Quan điểm này được thể hiện thông qua đánh giá
một số chỉ tiêu kinh tế cụ thể, như tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh tế…
- Quan điểm phát triển bền vững: Quán triệt quan điểm bền vững đòi
hỏi phải đảm bảo cả về ba mặt: kinh tế; xã hội và môi trường. Về mặt kinh tế,
đó là tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và sự ổn định của nền kinh tế. Dưới góc độ
xã hội, phải chú trọng đến việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng thể chế và bảo
tồn di sản văn hóa dân tộc. Còn về phương diện môi trường là việc giữ gìn
tính đa dạng sinh học, bảo vệ và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, ngăn
chặn sự ô nhiễm và xuống cấp của môi trường.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
- Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: Việc thu thập tài liệu phải từ
nhiều nguồn để có thể chọn lọc những tài liệu cần thiết đáp ứng được yêu cầu
của công tác nghiên cứu. Việc thu thập tài liệu chủ yếu từ các Ban, Ngành, cơ
quan chức năng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và các nguồn tài liệu khác trên
báo chí, giáo trình…Trên cơ sở đó tiến hành xử lí số liệu theo mục tiêu của đề tài.
- Phương pháp phân tích hệ thống: Thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế
tỉnh Cao Bằng có thể thấy được qua phân tích các mối quan hệ không gian,
thời gian của các ngành cũng như các lĩnh vực kinh tế, các mối quan hệ giữa
tự nhiên và kinh tế - xã hội. Quá trình phân tích đánh giá, đề xuất được tiến
hành trên cơ sở so sánh, tổng hợp để rút ra bản chất của hiện tượng kinh tế và
đưa ra những kết luận đúng đắn.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Đây là những phương pháp đặc trưng
của Địa lí, được sử dụng để làm rõ hiện trạng kinh tế, sự phân bố, các mối liên
hệ lãnh thổ trong không gian, những mối liên hệ kinh tế và những dự kiến phát
triển kinh tế. Các bản đồ sẽ được biên tập theo từng nội dung của luận văn.
- Phương pháp thực địa: Tiến hành khảo sát thực tế ở một số huyện,
một số cơ sở sản xuất. Tham khảo những ý kiến của các nhà khoa học, các
nhà quản lí có am hiểu về lĩnh vực tổ chức lãnh thổ kinh tế.
6. Những đóng góp chính của đề tài
- Trên cơ sở tổng quan có chọn lọc những vấn đề liên quan đến hướng
nghiên cứu, luận văn làm sáng tỏ thêm về cơ sở lí luận và thực tiễn của tổ
chức lãnh thổ kinh tế và vận dụng chúng vào việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ
kinh tế tỉnh Cao Bằng - một tỉnh đặc trưng cho vùng núi biên giới.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao
Bằng. Xác định rõ các thế mạnh và những hạn chế hay những lợi thế so sánh
giữa tỉnh Cao Bằng với các địa phương khác.
- Phân tích hiện trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng, từ đó
đánh giá những thế mạnh và những hạn chế cần khắc phục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
- Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát huy những thế
mạnh, đem lại hiệu quả cao trong tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn được
trình bày trong ba chương:
Chương 1- Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ kinh tế.
Chương 2- Hiện trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
Chương 3- Định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Cao Bằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
Phần II: NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ
1.1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế
Thuật ngữ tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian bắt nguồn từ cơ sở
lí thuyết kinh tế của Adam Smith và Ricardo, từ các công trình nghiên cứu
của G.Thunen, A.Weber, W.Christaller…sau đó được phát triển về lí luận và
được ứng dụng vào thực tiễn từ giữa thế kỉ XIX. Thực tế cho thấy, trong lĩnh
vực này, các nước trên thế giới sử dụng những thuật ngữ không giống nhau.
Các nhà khoa học thuộc Liên Xô (cũ) sử dụng khái niệm phân bố lực
lượng sản xuất. Họ cho rằng phân bố của lực lượng sản xuất được thực hiện
trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ lãnh thổ khác nhau, phổ biến là trên
các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính tỉnh; coi phân bố lực
lượng sản xuất là sự sắp xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng hay thực thể vật
chất cụ thể (đó là các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư,
các đối tượng này ảnh hưởng lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau) trong một
lãnh thổ xác định nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, cơ sở
vật chất kĩ thuật của lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao
và nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó.
Ở phương Tây, các nhà khoa học của các quốc gia phát triển lại tiếp
cận vấn đề này với một cách gọi khác - “Tổ chức không gian kinh tế - xã hội”.
Khái niệm này ra đời từ cuối thế kỉ XIX, nó được xem như nghệ thuật kiến
thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả. Nhiệm vụ chủ
yếu của tổ chức không gian là xác định được sức chứa của lãnh thổ; tìm kiếm
mối quan hệ tỉ lệ hợp lí và liên hệ chặt chẽ trong phát triển kinh tế - xã hội
giữa các ngành và giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng, cũng
như đảm bảo mối quan hệ giữa các vùng trong một quốc gia có tính tới mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hòa
giữa các đối tượng trong lãnh thổ mà tạo ra một giá trị lớn hơn, làm cho sự
phát triển hài hòa và bền vững hơn. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội là nội
dung cụ thể của một chính sách kinh tế phát triển theo lãnh thổ dài hạn nhằm
cải thiện môi trường, trong đó diễn ra cuộc sống và các hoạt động của con
người. Xét ở góc độ chính sách, tổ chức không gian kinh tế - xã hội xem như
là một trong những hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối
ưu hóa các mối quan hệ hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với
nhau và giữa các cực với các không gian còn lại nhằm làm cho toàn bộ lãnh
thổ phát triển bền vững; tạo ra được sự ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề
cho tăng trưởng, phát triển; trong đó tạo công ăn việc làm, cân đối lao động,
điều chỉnh cung – cầu hàng hóa và dịch vụ giữa nông thôn và thành thị.
Ở Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng tổ chức lãnh thổ và tổ chức không
gian kinh tế - xã hội được xem là như nhau và thuật ngữ tổ chức lãnh thổ
được sử dụng nhiều hơn cả.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể hiểu tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự
sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối quan hệ liên ngành, liên vùng
nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí
kinh tế, chính trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự phát
triển bền vững của một lãnh thổ.
1.1.2. Nguyên tắc và nội dung chủ yếu của tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.2.1. Những nguyên tắc chủ yếu của tổ chức lãnh thổ kinh tế
- Tổ chức lãnh thổ kinh tế phải tạo ra một trật tự hợp lí có tính tới khả
năng của tài nguyên và yêu cầu của thị trường, đảm bảo lợi ích của cộng đồng
và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Khi tổ chức lãnh thổ kinh tế phải xem xét tới các nguyên tắc phân bố
sức sản xuất tạo ra một trật tự cho một hệ thống, đảm bảo phát huy tốt nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
các điều kiện của lãnh thổ để lựa chọn phương án phân bố từng ngành và lĩnh
vực. Mặt khác tổ chức lãnh thổ kinh tế phải tính tới nhu cầu của thị trường để
giảm thiểu chi phí, tối đa hiệu quả.
Tổ chức lãnh thổ kinh tế phải thỏa mãn yêu cầu về khả năng tài nguyên
và yêu cầu của thị trường nhằm đem lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường
cho con người. Thị trường có ý nghĩa quyết định đến sự lựa chọn địa điểm
phân bố cơ sở sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư và quyết định đến hiệu
quả và sự thành công của tổ chức lãnh thổ. Tốc độ tăng trưởng, năng suất lao
động, tiết kiệm đầu tư, sự bền vững về xã hội và môi trường… là thước đo
tính hợp lí, tính hiệu quả của tổ chức lãnh thổ.
- Tổ chức lãnh thổ kinh tế phải đảm bảo sự phát triển hài hòa và tương
tác giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các lãnh thổ.
Trong một lãnh thổ, hài hòa là phát triển ngành này, tiểu lãnh thổ này
phải tính tới những điều kiện để phát triển các ngành khác, các tiểu lãnh thổ
khác và đảm bảo cho bản thân ngành đó, lãnh thổ đó cùng các ngành khác,
lãnh thổ khác tồn tại và phát triển. Đảm bảo được điều này sẽ tạo ra sự phát
triển nhịp nhàng cho lãnh thổ, đây là điều rất quan trọng đối với việc tổ chức
lãnh thổ kinh tế.
Tương tác là sự kết hợp và trao đổi lẫn nhau giữa các ngành, lĩnh vực,
tiểu lãnh thổ này với ngành, lĩnh vực, tiểu lãnh thổ khác để tạo ra sức mạnh
tổng hợp cho lãnh thổ; bổ sung giữa nơi thừa cho nơi thiếu về một mặt nào đó
trong một lãnh thổ, làm cho nơi thừa không lãng phí, nơi thiếu thì có điều
kiện để bù đắp cái mình thiếu. Đảm bảo được sự tương tác chính là điều kiện
cần thiết để có được sự phát triển nhịp nhàng.
- Tổ chức lãnh thổ kinh tế đảm bảo sự phù hợp với trình độ nguồn nhân
lực và trình độ khoa học công nghệ. Trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa
học kĩ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn hình thức tổ chức lãnh
thổ kinh tế. Trình độ của những người hoạch định chính sách, của những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
người quản lí lãnh thổ cũng như trình độ mọi mặt của địa phương phải được
tính đến khi tiến hành tổ chức lãnh thổ kinh tế.
1.1.2.2. Nội dung của tổ chức lãnh thổ kinh tế
Ở nước ta, tiếp cận nội dung của tổ chức lãnh thổ kinh tế theo các bước
và với những nội dung chủ yếu sau đây:
Bước 1: Kiểm kê và đánh giá các yếu tố, điều kiện của lãnh thổ và các
đối tượng phải tổ chức trong phạm vi lãnh thổ được nghiên cứu.
Bước 2: Đánh giá hiện trạng lãnh thổ có so sánh với những lãnh thổ
tương tự, phát hiện những bất hợp lí, những xu thế có tính quy luật đối với tổ
chức lãnh thổ được nghiên cứu.
Bước 3: Giả định các phương án tổ chức không gian và lựa chọn
phương án hiệu quả nhất.
Bước 4: Tìm khả năng đáp ứng tài chính, xác định các giai đoạn phát
triển lãnh thổ và kiến nghị phương án quản lí lãnh thổ.
Quá trình nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế đòi hỏi phải có sự phân
tích các mặt, các khía cạnh một các kĩ lưỡng, khoa học. Việc phân tích phải
tuân thủ yêu cầu của tính khẳng định, tính giả định, tính liên ngành, tính liên
vùng, tính đa phương án và tính thỏa thuận.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tổ chức lãnh thổ kinh tế có
hai nội dung cơ bản (theo Viện Chiến lược phát triển – Bộ kế hoạch và Đầu tư):
Một là: Dự báo về mặt phát triển (dự báo phát triển đối với các ngành, lĩnh vực
trên phạm vi lãnh thổ nghiên cứu); Hai là: Luận chứng các phương án tổ chức
kinh tế - xã hội theo lãnh thổ.
1.1.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế
Tổ chức lãnh thổ kinh tế chịu sự tác động đồng thời và tổng hợp các
nhóm nhân tố bên trong và bên ngoài lãnh thổ dự kiến được tổ chức hay tổ
chức lại. Sự tác động của các yếu tố đến tổ chức lãnh thổ kinh tế không giống
nhau về không gian và thời gian. Có những yếu tố tác động mạnh đối với tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
chức lãnh thổ kinh tế trong thời gian này, nhưng lại giảm sút vai trò trong giai
đoạn khác.
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong lãnh thổ
- Vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên: Đây là nhóm nhân tố có ảnh
hưởng lớn đến tổ chức lãnh thổ kinh tế. Bởi vì, sự phát triển kinh tế trên một
không gian đòi hỏi phải có mối quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất và điều kiện
sản xuất, những điều kiện này được coi là đầu vào của tổ chức lãnh thổ kinh tế.
Vị trí địa lí là nhân tố đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện kinh
tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì yếu tố vị trí địa lí càng
được đánh giá cao khi lựa chọn địa bàn để phát triển các lãnh thổ trọng điểm,
các cực tăng trưởng và phát triển của mỗi lãnh thổ.
Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thường được coi là
yếu tố tiền đề để tổ chức lãnh thổ kinh tế. Điều kiện tự nhiên, như khí hậu,
thời tiết…ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lãnh thổ và trực tiếp ảnh hưởng
đến việc lựa chọn các hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế. Tài nguyên thiên
nhiên với tính đa dạng và biến động, lại có khả năng sinh ra giá trị kinh tế
được loài người sử dụng để đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên qua các
thời kì phát triển và có ý nghĩa to lớn đối với sự hưng thịnh của mỗi lãnh thổ.
- Dân cư và nguồn nhân lực:
Dân cư và mật độ dân cư có ảnh hưởng lớn đến tổ chức lãnh thổ kinh
tế. Những nơi có mật độ dân cư đông đúc sẽ có nguồn lao động dồi dào và
ngược lại, những nơi dân cư thưa thớt nguồn lao động sẽ bị hạn chế.
Sự di chuyển và phân bố dân cư ảnh hưởng đến bố trí sản xuất của
vùng. Di chuyển dân cư trước hết ảnh hưởng đến quy mô dân số và sau đó sẽ
ảnh hưởng tới tổ chức lãnh thổ kinh tế.
Dân cư với các phẩm chất, truyền thống sản xuất và tiêu dùng, truyền
thống văn hóa ảnh hưởng tới cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng của lãnh thổ.
Khả năng sản xuất hàng hóa và ý thức mong muốn làm giàu chính đáng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
dân cư sẽ là điều kiện thôi thúc sự hình thành và phát triển nền sản xuất quy
mô lớn và hiện đại.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực quyết định phương hướng phát
triển cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nghề nói riêng, cũng như
quyết định đến hình thức và nội dung của tổ chức lãnh thổ kinh tế.
- Khoa học – công nghệ:
Ảnh hưởng của khoa học và công nghệ có tính chất quyết định đến tổ
chức lãnh thổ kinh tế. Đối với những quốc gia phát triển, công nghệ chiếm vị
trí hàng đầu trong việc gia tăng GDP, công nghệ giữ vai trò chủ đạo đối với
phát triển. Tiềm lực khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng để thực thi các
phương án tổ chức lãnh thổ. Tiến bộ công nghệ đã tạo khả năng sử dụng các
nguồn tài nguyên theo cả chiều rộng và chiều sâu; sự phát triển công nghệ
khai thác và sử dụng tổng hợp tài nguyên có thể nâng cao tỉ lệ hữu ích của tài
nguyên, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Tiến bộ công nghệ có lợi cho việc giảm thiểu mức độ phụ thuộc của
phát triển lãnh thổ đối với tài nguyên không phải của lãnh thổ. Do tiến bộ
khoa học – công nghệ có thể tiết kiệm được các yếu tố đầu vào nâng cao giá
trị của các sản phẩm đầu ra. Tiến bộ khoa học – công nghệ không chỉ làm
tăng tổng sản lượng kinh tế, làm sâu sắc thêm phân công lao động xã hội, đa
dạng ngành nghề và nâng cao năng suất lao động, mà còn tạo ra những tiền đề
cho thay đổi cơ cấu kinh tế. Một mặt, sản phẩm mới xuất hiện không ngừng,
kích thích nhu cầu mới, dẫn đến cơ cấu nhu cầu và cơ cấu tiêu dùng ngày
càng đa dạng; mặt khác, chính bản thân sự xuất hiện và lưu thông của công
nghệ mới làm xuất hiện dịch vụ khoa học – công nghệ, đồng nghĩa với ngành
nghề mới xuất hiện.
- Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật:
Mạng lưới đường giao thông, hệ thống thông tin, mạng lưới cung cấp
điện, nước; các trung tâm kinh tế, các vùng sản xuất; các cơ sở thương mại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
ngân hàng…ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành cơ cấu kinh tế lãnh thổ. Do
vậy, muốn chuyển đổi cơ cấu kinh tế lãnh thổ hiệu quả và bền vững thì phải
tạo ra những tiến bộ về chất đối với cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế:
Trình độ phát triển kinh tế thể hiện qua nhiều yếu tố, như: quy mô nền
kinh tế; cơ cấu kinh tế; trình độ của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; khả
năng áp dụng khoa học kĩ thuật trong sản xuất, trong quản lí và trong kinh
doanh…Đây là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của một
lãnh thổ, bởi vì trình độ phát triển của nền kinh tế là nhân tố chứng tỏ khả
năng về phương tiện vật chất cho tổ chức lãnh thổ và cũng có điều kiện tạo ra
nhu cầu mới lớn hơn, cao hơn. Mặt khác, nó là cơ sở, tiền đề và là điều kiện
để tái tổ chức lãnh thổ kinh tế.
- Môi trường chính sách:
Chính sách kinh tế và cơ chế quản lí của Nhà nước có thể tạo ra sự tiến
bộ hay không tiến bộ của một lãnh thổ. Hay nói cách khác, chính sách kinh tế
và cơ chế quản lí của Nhà nước có thể tạo ra sự thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của một lãnh thổ.
1.1.3.2. Các yếu tố bên ngoài lãnh thổ
Trong cơ chế kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ như
hiện nay, thì các yếu tố bên ngoài tác động đến sự phát triển hay việc tổ
chức kinh tế ở một lãnh thổ là rất mạnh mẽ, trong đó phải kể đến các nhóm
yếu tố sau:
- Nhóm các yếu tố về chủ trương, đường lối phát triển của Nhà nước,
các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, các quy hoạch phát triển
vùng, ngành. Đây là nhóm yếu tố căn bản tác động đến việc hình thành và
phát triển cơ cấu lãnh thổ. Nó tạo ra sự thống nhất của nền kinh tế trong cái
đơn lẻ của mỗi vùng lãnh thổ.
- Nhóm các yếu tố về thị trường và các mối liên hệ kinh tế liên vùng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
Bất kì một lãnh thổ cụ thể nào không thể tách khỏi mối quan hệ với các
lãnh thổ khác, nhất là đối với các lãnh thổ lân cận trên nhiều phương diện.
Thông qua nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của các vùng khác, những
quan hệ về dùng chung mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc,
những quan hệ nguyên liêu – sản phẩm giữa các vùng lãnh thổ…mà tác động
đến tổ chức lãnh thổ kinh tế.
- Nhóm yếu tố về nguồn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài:
Các dòng vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài cũng ảnh hưởng ngày
càng rõ rệt, đặc biệt đối với các quốc gia, các vùng lãnh thổ kém phát triển, nó
đã góp phần làm thay đổi hình thức, nội dung của tổ chức lãnh thổ kinh tế. Sự
thu hút nguồn vốn và công nghệ phụ thuốc rất nhiều vào cơ chế chính sách
của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế.
1.2. Khái quát một số lí thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.2.1. Lí thuyết tăng trưởng nội sinh và ngoại sinh
- Lí thuyết tăng trưởng nội sinh: Trên cơ sở các kết quả quan sát thực
nghiệm, G.B.Fisher (1939) và C.Clark (1940) đưa ra thuyết tăng trưởng nội
sinh. Thuyết này nhấn mạnh đến năng lực sản xuất bên trong của vùng, khả
năng cung của các yếu tố đầu vào, như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động
và công nghệ để xác định năng lực sản xuất của lãnh thổ. Bên cạnh đó, thuyết
tăng trưởng nội sinh cho rằng đầu tư là cấu phần cơ bản trong tổng cầu và là
động lực cơ bản của tăng trưởng vùng, vì đầu tư sẽ làm phát sinh lợi nhuận
mới, tăng năng lực sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng vùng. Do vậy, để đạt
được tăng trưởng kinh tế vùng thì ngoài việc sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu
vào như đã kể trên, còn cần phải tiết kiệm tiêu dùng để có vốn đầu tư, tức là
hạn chế tiêu dùng ở hiện tại để tạo ra mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai.
- Lí thuyết tăng trưởng ngoại sinh hay lí thuyết dựa vào xuất khẩu để
phát triển vùng. Theo thuyết này, tăng trưởng vùng chịu ảnh hưởng rất lớn
của mức cầu bên ngoài, muốn nâng cao tiềm lực kinh tế của vùng thì cần phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
thu hút được các luồng tiền từ bên ngoài vào. Để làm được điều đó thì hiệu
quả nhất là gia tăng xuất khẩu.
1.2.2. Lí thuyết định vị công nghiệp của A.Weber
Lí thuyết này đưa ra mô hình không gian phân bố công nghiệp trên cơ
sở nguyên tắc cực tiểu hóa chi phí và cực đại hóa lợi nhuận. Lí thuyết này ra
đời đã giải thích công nghiệp tập trung vào một địa điểm nhất định là do ba lí
do, đó là: hướng theo vận tải (nghĩa là các xí nghiệp công nghiệp phân bố
hướng đến các khu vực với chi phí vận tải thấp nhất); hướng theo lao động
(nghĩa là các xí nghiệp công nghiệp phân bố hướng đến các khu vực có giá
nhân công rẻ) và tích tụ (nghĩa là các xí nghiệp công nghiệp phân bố
hướng đến các khu vực đã tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp).
Cùng với lí thuyết định vị công nghiệp của mình, A.Weber cũng đã
phân tích các ưu điểm và hạn chế của việc tập trung các doanh nghiệp tại
một địa điểm mà trong ngôn ngữ kinh tế học hiện đại chúng được gọi là
các “lợi ích ngoại ứng” và “chi phí ngoại ứng” của vùng lãnh thổ trong
phạm vi quyết định đầu tư. Các lợi ích ngoại ứng xuất hiện khi các
doanh nghiệp có thể chia sẻ gánh nặng chi phí vì sử dụng chung hệ thống
kết cấu hạ tầng và có thể hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động thực hiện
chuyên môn hóa, hợp tác hóa sản xuất, làm tăng năng xuất lao động, hạ
giá thành sản phẩm, sử dụng tiết kiệm các nguồn nguyên liệu và năng
lượng. Bên cạnh đó, chi phí ngoại ứng cũng có thể xuất hiện khi có sự
quá tải của lãnh thổ và sự cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau dẫn đến hạn chế
sự phát triển của các doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nhận thấy trong điều kiện của nước ta hiện nay,
nhất là đối với một tỉnh như Cao Bằng thì lí thuyết này có giá trị thực
tiễn cao và có thể vận dụng vào việc phân bố và phát triển công nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
15
1.2.3. Lí thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp trong phạm vi ảnh
hưởng của thành phố
V.Thunen cho rằng, thành phố trung tâm có sức hấp dẫn đối với
hoạt động nông nghiệp ở xung quanh và địa tô chênh lệch là một nhân tố
then chốt dẫn đến sự phân chia lãnh thổ của quốc gia thành các vùng sử
dụng đất nông nghiệp khác nhau xung quanh thành phố hạt nhân. Ông đã
phân tích sự khác nhau về chi phí vận tải, tầm quan trọng của khoảng
cách không gian và trọng lượng sản phẩm của các hoạt động nông
nghiệp trong việc phân bố thành các vành đai nông nghiệp xung quanh
thành phố.
1.2.4. Lí thuyết các “điểm trung tâm” của W.Christaller
Lí thuyết này được hai nhà bác học là W.Christaller và A.Losch đưa ra
năm 1933 dựa trên những ý tưởng và mô hình của V.Thunen và A.Weber
cũng như những luận điểm cơ bản của Niutơn về lực hấp dẫn.
Theo quan điểm của W.Christaller, thành phố là một trung tâm cho tất
cả các điểm dân cư khác của vùng, bảo đảm cho chúng về các hàng hóa của
trung tâm; thành phố là cực hút, là hạt nhân của sự phát triển, là đối tượng để
đầu tư có trọng điểm trên cơ sở nghiên cứu mức độ thu hút và mức độ ảnh
hưởng của vị trí trung tâm. A.Losch đưa thêm vào nội dung lí thuyết của
W.Christaller, ông cho rằng có một vị trí trung tâm chung, đó là thành phố
quan trọng nhất, là đầu mối của toàn hệ thống các điểm dân cư.
Lí thuyết các “điểm trung tâm” là cơ sở cho việc bố trí các điểm đô thị
mới tại các vùng lãnh thổ còn trống vắng đô thị. Tuy nhiên cần phải xác định
được phạm vi ảnh hưởng của các vị trí trung tâm, tức là khu vực lãnh thổ nằm
trong phạm vi khống chế, chi phối của trung tâm đó. Theo nghiên cứu của các
nhà kinh tế thì càng xa vị trí trung tâm ảnh hưởng càng giảm dần và sẽ chấm dứt
tại điểm mà sự ảnh hưởng bắt đầu mạnh hơn của một trung tâm gần nhất khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16
1.2.5. Lí thuyết cực phát triển
Lý thuyết chú trọng vào những điểm làm phát sinh sự tăng trưởng kinh
tế của lãnh thổ. Quan điểm này do Francoi Perroux - nhà kinh tế học người
Pháp đề xướng vào đầu những năm 50 – thế kỉ XX. Theo ông, trong một vùng
không thể phát triển kinh tế đồng đều ở tất cả các điểm trên lãnh thổ của nó
theo cùng một thời gian mà luôn có xu hướng phát triển mạnh nhất ở một
hoặc vài điểm, trong khi các điểm khác lại phát triển chậm chạp hoặc trì trệ,
kém phát triển. Các điểm phát triển nhanh này, tất nhiên nó là những trung
tâm có lợi thế so với toàn vùng.
Những năm sau đó, lý thuyết này được Albert Hirshman, Myrdal,
Friedman và Harry Richarson tiếp tục nghiên cứu và phát triển, trên cơ sở
nhấn mạnh vai trò to lớn của công nghiệp và dịch vụ đối với sự tăng trưởng
và phát triển của vùng; chính sự tập trung công nghiệp và dịch vụ ở các đô thị
(các cực) giữ vai trò hạt nhân phát triển.
Theo Harry Richarson và Benjamin Higgins, một cực phát triển trước
hết cần được hiểu đó là tập hợp các ngành công nghiệp có khả năng tạo ra
động lực tăng trưởng cho nền kinh tế, có quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau
thông qua các mối quan hệ đầu vào – đầu ra xung quanh một ngành công
nghiệp dẫn đầu hay công nghiệp mũi nhọn. Nhờ có những ưu thế về công
nghệ hiện đại, tốc độ đổi mới sản phẩm (cả về chất lượng, mẫu mã… theo nhu
cầu thị trường) và có phạm vi thị trường tiêu thụ rộng lớn, nên ngành công
nghiệp này ngày càng phát triển nhanh, kéo theo các ngành liên quan đến nó
tăng trưởng nhanh hơn các bộ phận khác của nền kinh tế, tạo ra tác động lan
tỏa ảnh hưởng theo cấp số nhân đến các bộ phận khác của nền kinh tế.
Xét về mặt lãnh thổ, sự phát triển và phát đạt của một ngành công
nghiệp mũi nhọn như vậy làm cho lãnh thổ nơi nó phân bố sẽ phát triển và
hưng thịnh. Nguyên nhân là do số lượng việc làm tăng lên, sức mua cũng tăng
lên, các ngành công nghiệp mới, các hoạt động dịch vụ kinh tế - xã hội và các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
17
hoạt động phát triển mới được thu hút vào lãnh thổ đó ngày một nhiều hơn.
Sự tập trung hóa về lãnh thổ đạt tới một mức nhất định và sau đó hiệu ứng lan
tỏa sẽ làm cho các cơ hội phát triển mới bắt đầu xuất hiện ở nhiều địa phương
khác. Kết quả là từ sự phát triển của một cực – một lãnh thổ trọng điểm sẽ kéo
theo sự phát triển của các vùng lãnh thổ khác, tạo điều kiện cho nền kinh tế
của cả vùng lãnh thổ lớn phát triển.
1.3. Các hình thức chủ yếu tổ chức lãnh thổ kinh tế và việc vận dụng vào
thực tiễn ở Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận về tổ chức lãnh thổ kinh tế
cũng như thực tiễn ở Việt Nam trong những năm qua, có thể thấy các hình
thức tổ chức lãnh thổ kinh tế phổ biến ở nước ta hiện nay là:
1.3.1. Hành lang kinh tế
Hành lang kinh tế được hình thành dựa trên một tuyến trục giao thông
huyết mạch và sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ dọc hai bên
tuyến trục đó. Do có sự phát triển tập trung các cơ sở kinh tế, lợi dụng triệt để
việc vận chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế đem lại hiệu quả cao hơn.
Hành lang kinh tế được coi là một hiện tượng kinh tế xã hội và đây là hình
thức tổ chức kinh tế theo lãnh thổ đầy triển vọng.
Ở nước ta, hành lang kinh tế đã được hình thành và ngày càng có ý
nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ, tiêu biểu là 03 tuyến hành
lang kinh tế: Hà Nội – Hải Phòng; Huế - Đà Nẵng – Dung Quất và Thành phố
Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu. Gần đây Việt Nam và Trung quốc đã
thỏa thuận phát triển “hai hành lang, một vành đai” (Hai hành lang kinh tế:
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà
Nội – Hải Phòng; một vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ). Hiện nay các
hành lang kinh tế vẫn đang tiếp tục được hình thành và phát triển trên hầu hết
các tuyến trục giao thông trọng yếu.
Các hành lang kinh tế được coi như các trục kinh tế động lực, với ý
nghĩa là đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung của một vùng rộng lớn. Mỗi hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18
lang kinh tế hay vành đai kinh tế kéo dài đến hàng trăm km, đi qua nhiều tỉnh,
thành phố. Các cơ sở sản xuất và dịch vụ của mỗi tỉnh, thành phố là một bộ
phận, là một mắt xích trong tổng thể kinh tế của mỗi hành lang.
Bảng 1.1: Các hành lang kinh tế quan trọng của Việt Nam
STT
Hành lang kinh tế
Năm 2005
Năm 2020 (dự tính)
Dân số
(nghìn
người)
GDP
(tỉ
đồng)
Dân số
(nghìn
người)
GDP
(tỉ đồng)
1
Hà Nội – Hải Phòng
3.770
109.500
6.670
1.500.000
2
Huế - Đà Nẵng –Dung Quất
1.562
23.400
2.400
95.000
3
Thành phố Hồ Chí Minh –
Biên Hòa – Vũng Tàu
6.100
215.000
9.500
3.400.000
Nguồn: Xử lí số liệu theo các dự án quy hoạch vùng của Viện Chiến lược và Phát triển
1.3.2. Khu kinh tế
Khu kinh tế là một lãnh thổ xác định, được hưởng ưu đãi đặc biệt để
phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Trong xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế và thực hiện các cam kết tự do thương mại trên phạm vi khu vực cũng
như trên quy mô toàn cầu, việc phát triển khu kinh tế cần phải được quan tâm
đúng mức.
Trên thế giới, các quốc gia xây dựng các khu kinh tế đều có chung mục
đích là tạo nên sự thông thoáng trong giao thương, tạo sức thu hút mạnh nguồn
đầu tư nước ngoài và thông qua đó phát triển nhanh nền kinh tế đất nước.
Ở Việt Nam, thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 4 khóa VIII về việc
nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài khu kinh tế, khu mậu dịch tự do ở
những địa bàn ven biển có đủ điều kiện, trên cơ sở tham khảo các mô hình
khu công nghiệp, đặc khu kinh tế; trong điều kiện quốc tế mới và xu hướng
chuyển đổi các đặc khu kinh tế sang hình thức các khu khai phát mới, các cơ
quan chức năng cùng các tỉnh đã tiến hành nghiên cứu về mô hình “khu kinh
tế phát triển”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
19
Năm 2005, khu công nghiệp chuyển đổi thành khu kinh tế đầu tiên ra
đời, đó là khu kinh tế tổng hợp Dung Quất, tiếp theo đó là sự phát triển các
khu kinh tế ở Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế. Sau năm 2005, xu thế phát
triển các khu kinh tế đã lan rộng ra trên 10 lãnh thổ địa phương. Trong báo
cáo trình Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven
biển ở Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, khu kinh tế
là khu vực có địa lí thuận lợi cho giao thương với các khu vực khác; nó là một
bộ phận lãnh thổ của đất nước có quy mô đất đai đủ lớn để phát triển tổng hợp
kinh tế, được Chính phủ cho phép xây dựng và phát triển, vận hành bởi khung
pháp lí có tính ưu đãi, mở cửa theo các thông lệ quốc tế; ở đó có môi trường
đầu tư kinh doanh, buôn bán phù hợp với cơ chế thị trường, được hưởng quy
chế ưu đãi hơn các nơi khác; ở đó giao lưu kinh tế với nước ngoài thông
thoáng, không bị hạn chế, ưu tiên hướng xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài; khi phát triển các khu kinh tế không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh
quốc gia, không xâm hại đến các công trình văn hóa, di tích của đất nước.
Để có một định hướng phát triển các khu kinh tế ven biển trên phạm vi
cả nước, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu
quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển đến năm 2020. Thực tế cho
thấy, hình thức khu kinh tế mang tính tổng hợp, vừa có hoạt động công
nghiệp, vừa có hoạt động thương mại, du lịch, nhà ở và các công trình công
cộng; trên cơ sở đó phát huy được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các loại hình tổ
chức lãnh thổ kinh tế. Nó có khả năng khắc phục được nhược điểm của hình
thức khu công nghiệp chỉ có hoạt động công nghiệp mà không có hoạt động
thương mại và không có nhà ở cũng như các công trình kết cấu hạ tầng phục
vụ đời sống dân sinh.
Ngoài các khu kinh tế ven biển đã nêu trên, ở nước ta còn tồn tại hai
loại khu kinh tế tổng hợp nhưng tính chất tổng hợp và mức độ phức tạp ít hơn
so với khu kinh tế ven biển. Đó là khu kinh tế cửa khẩu và khu kinh tế quốc