Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đánh giá tập đoàn và so sánh một số giống lúa cạn có triển vọng tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 116 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN HỒNG HẠNH


ĐÁNH GIÁ TẬP ĐOÀN VÀ SO SÁNH MỘT SỐ
GIỐNG LÚA CẠN CÓ TRIỂN VỌNG TẠI
HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10
Chuyên ngành: KHOA HỌC Cọc câuY TRỒNGã số: 60 62 01
10LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn
S. NGUYỄN ĐỨC THẠNH
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Đức Thạnh






Thái Nguyên - 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luân văn này
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả


Nguyễn Hồng Hạnh


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học tại
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của Nhà trường, Khoa sau đại học, các thầy cô giáo, gia đình và bạn
bè để hoàn thành luận văn của mình. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới:
- TS. Nguyễn Đức Thạnh - Trưởng phòng thanh tra khảo thí Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
- Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa sau đại học Trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên.
- Các thầy giáo, cô giáo giảng dạy chuyên ngành trong khóa học.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo, gia
đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả


Nguyễn Hồng Hạnh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4

1.2. Một số khái niệm về lúa cạn 5
1.3. Nguồn gốc và phân loại lúa cạn 6
1.3.1. Nguồn gốc lúa cạn 6
1.3.2. Phân loại lúa cạn 8
1.4. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam 9
1.4.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới 9
1.4.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam 13
1.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới và ở Việt Nam 16
1.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới 16
1.5.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn ở Việt Nam 27
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 33
2.1. Đối tượng nghiên cứu 33
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 34
2.3. Nội dung nghiên cứu 34
2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm 34
2.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 36
2.5.1. Thời gian sinh trưởng, phát triển (tính từ khi gieo đến khi chín,
đơn vị: ngày) 36
2.5.2. Các đặc tính nông học 37
2.5.3. Khả năng chống chịu của các giống lúa thí nghiệm 40

Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
2.5.4. Chỉ tiêu về chất lượng hạt gạo 44
2.5.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 45
2.5.6. Phương pháp xử lý số liệu 45
Chƣơng 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 46
3.1. Đánh giá tập đoàn các giống lúa cạn 46

3.1.1. Thời gian sinh trưởng các giống lúa cạn 46
3.1.2. Đánh giá về một số đặc tính nông học của các giống lúa cạn 47
3.1.3. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 50
3.1.4. Đánh giá khả năng chống chịu của các giống lúa thí nghiệm 53
3.2. So sánh một số giống lúa điển hình được chọn từ tập đoàn giống
lúa thí nghiệm 57
3.2.1. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm 57
3.2.2. Một số đặc điểm nông học của các giống lúa thí nghiệm 59
3.2.3. Một số đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 60
3.2.4. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 63
3.2.5. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống lúa thí nghiệm 65
3.2.6. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống lúa
thí nghiệm 68
3.2.7. Chất lượng gạo của các giống lúa tham gia thí nghiệm 74
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Đề nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78

Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CIAT : Central International Agriculture Tropical
FAO : Food and Agriculture Organisation
IITA : International Institute of Tropical Agriculture
IRRI : International Rice Research Institute
WARDA : West Africa Rice Development Association






















Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây 9
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế giới 2012 11
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ 1970-2012 14
Bảng 3.1. Thời gian sinh trưởng các giống lúa 47
Bảng 3.2. Đánh giá tập đoàn lúa cạn theo một số đặc tính nông học 48

Bảng 3.3. Số hạt chắc/bông và khối lượng 1000 hạt của các giống lúa 50
Bảng 3.4. Số bông/khóm và chiều dài bông chính của tập đoàn giống lúa thí
nghiệm 52
Bảng 3.5. Đánh giá tập đoàn theo năng suất lý thuyết 53
Bảng 3.6. Đánh giá tập đoàn theo mức độ hại của sâu 54
Bảng 3.7. Đánh giá tập đoàn theo mức độ nhiễm bệnh 55
57
Bảng 3.9. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa thí nghiệm 58
Bảng 3.10. Đặc tính nông học của các giống lúa thí nghiệm 59
Bảng 3.11. Các đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm 61
Bảng 3.12. Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm 64
Bảng 3.13. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống lúa thí nghiệm 66
Bảng 3.14. Các yếu tố cấu thành năng suất của các giống lúa thí nghiệm 69
Bảng 3.15. Năng suất các giống lúa tẻ điển hình 70
Bảng 3.16. Năng suất các giống lúa nếp điển hình 71
Bảng 3.17. Một số chỉ tiêu chất lượng gạo 74




Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ năng suất các giống lúa tẻ điển hình 71
Hình 3.2. Biểu đồ năng suất các giống lúa nếp điển hình 72
























Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một trong những nước rất phong phú, đa dạng về các hệ
sinh thái, về các loài và về tài nguyên di truyền. Hàng ngàn năm qua và ngay cả
hiện nay cũng như một số thập kỷ sắp tới người dân Việt Nam sống chủ yếu phải
dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên sinh học. Không chỉ ở Việt

Nam mà ở hầu hết các nước trên thế giới, các sản phẩm nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản v.v thực chất là khai thác từ nguồn đa dạng sinh học.
Theo số liệu của FAO, trong khi 75% đa dạng sinh học cây trồng nông
nghiệp đã bị mất trong thời gian từ năm 1900 đến 2000 và 22% đa dạng sinh
học của một số loài cây nông nghiệp khác có thể biến mất vào năm 2055, cho
đến nay, hơn 7 triệu mẫu gen thực vật đã được thu thập, lưu trữ và bảo tồn
trong 1.750 ngân hàng gen trên toàn cầu. Theo FAO, sự đa dạng về thực vật
đang bị đe dọa do việc mất dần nguồn gen mà một trong những lý do chính là
việc thay thế những giống địa phương bằng các giống hiện đại.
Với “Kế hoạch hành động toàn cầu thứ hai đối với các nguồn gen
lương thực và nông nghiệp”, FAO cho rằng một cam kết mới của cộng đồng
quốc tế nhằm bảo đảm quản lý hiệu quả sự đa dạng về thực vật là một thành
phần quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo và nâng cao an ninh lương
thực trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với vấn đề biến đổi khí hậu.
Lúa là loài cây trồng rất mẫn cảm với các điều kiện ngoại cảnh và là
cây chịu hạn kém. Những yếu tố sinh thái bất lợi tác động lên quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây lúa như lượng mưa, nhiệt độ, ánh sáng không
thuận lợi. Trên thế giới, hàng năm hạn có thể làm giảm tới 70% năng suất cây
trồng nói chung. Ở Việt Nam, hàng năm trung bình mất khoảng 30 vạn tấn
lương thực do thiên tai, trong đó hạn được xem là nhân tố chính làm giảm
năng suất lúa.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
Bên cạnh lúa nước, lúa cạn cũng chiếm một vị trí quan trọng đối với
nông dân, đặc biệt là dân miền núi. Lúa cạn phân bố ở vùng núi, địa hình đồi
dốc. Việt Nam lúa cạn phân bố chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc Bộ và Tây
Nguyên, nơi có địa hình đồi núi, mưa nhiều nhưng lượng mưa phân bố không
đều dẫn đến hạn cục bộ xảy ra thường xuyên. Do đó việc nghiên cứu tính chịu

hạn và nâng cao khả năng chịu hạn cho cây lúa cạn là một thực tiễn quan
trọng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Năng suất của các giống lúa cạn thấp do hai nguyên nhân chủ yếu:
Giống xấu và đất nghèo dinh dưỡng, phát triển trên những vùng dân trí thấp
và điều kiện canh tác kém [2]. Tuy năng suất lúa cạn không cao nhưng cây lúa
cạn đã góp phần vào tổng sản lượng lúa một cách đáng kể (từ 20 - 40% ở những
vùng sản xuất lương thực khó khăn), góp phần giải quyết lương thực tại chỗ cho
nhân dân, giảm được công vận chuyển và chủ động lương thực trong một
khoảng thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện của nhiều địa phương.
Vấn đề cải tiến giống và kỹ thuật canh tác đã và đang được đặt ra, việc sử
dụng giống lúa có khả năng thích nghi và chống chịu cao là một biện pháp tiết
kiệm chi phí hữu hiệu nhất. Chính vì vậy, để nâng cao và ổn định sản lượng lúa
trong điều kiện khô hạn, nhằm làm giảm thiểu thiệt hại do hạn hán gây ra, việc
thu thập, bảo tồn giống địa phương và chọn tạo ra các giống lúa cải tiến có khả
năng chịu hạn đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhằm bảo tồn nguồn gen và phát triển
canh tác lúa cạn, đồng thời góp phần vào việc ứng phó với biến đổi khí hậu,
chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá tập đoàn và so sánh một số giống lúa
cạn có triển vọng tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá đặc điểm nông học của các giống lúa cạn thu thập được.
- Lựa chọn một số giống lúa cạn có triển vọng phục vụ sản xuất.


Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học:
- Đánh giá đặc điểm nông học của các giống lúa cạn thu thập được tại

một số tỉnh miền núi phía Bắc là cơ sở cho việc duy trì và bảo tồn nguồn gen
lúa cạn, bảo vệ sự đa dạng sinh học của cây lúa.
* Ý nghĩa thực tiễn:
- Lựa chọn được một số giống lúa cạn có chất lượng khuyến cáo ra sản
xuất với điều kiện đất đai miền núi phía Bắc.
- Làm đa dạng hóa thêm bộ giống lúa.
















Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
.

Nghề trồng lúa ở Việt Nam có từ cổ xưa và là trung tâm đa dạng về cây
lúa trồng hiện nay [11]. Hiện hay hơn 60% dân số nước ta sống bằng nghề
trồng lúa, nên lúa không chỉ có ý nghĩa vế mặt an ninh lương thực mà còn có
giá trị về mặt kinh tế cho nông dân trồng lúa và đặc biệt quan trọng đối với
những bà con dân tộc miền núi. Nước ta có địa hình phức tạp 3/4 lãnh thổ là
đồi núi, địa hình chia cắt và diễn biến khí hậu phức tạp, lượng mưa phân bố
không đều giữa các vùng và các miền trong năm, nên hạn có thể xảy ra bất cứ
mùa nào, vùng nào trong năm.
Nước là thành phần chủ yếu của cây lúa, nếu lấy 100g lá lúa tươi đem
sấy thì lượng lá khô chỉ còn lại 12g (còn 88g là lượng nước bốc hơi), đem
phần lá khô đốt cháy hoàn toàn thì lượng tro còn lại là 1,5g. Với 88% trọng
lượng cây lúa, nước là thành phần chủ yếu và cực kỳ quan trọng đối với đời
sống cây lúa. Sự khan hiếm về nước tưới phục vụ cho nông nghiệp đã được báo
động trong nhiều hội nghị khoa học của thế giới gần đây. Khô hạn sẽ là yếu tố

Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến an toàn lương thực của thế giới. Tài nguyên
nước phục vụ cho nông nghiệp không phải là vô tận, bên cạnh đó là áp lực dân
số kèm theo sự phát triển đô thị, sự kiện ấy sẽ làm gia tăng nhu cầu nước phục
vụ dân sinh và cho phát triển công nghiệp. Do đó, sự khan hiếm nước phục vụ
nông nghiệp là vấn đề đang được dự báo rất cấp thiết trên quy mô toàn cầu. Hạn
hán được xem như là một trong những hậu quả nghiêm trọng do sự suy giảm của
nguồn nước. Với tầm quan trọng như vậy, người ta đã hoạch định một thứ tự ưu
tiên trong đầu tư nghiên cứu tính chống chịu khô hạn trong lĩnh vực cải tiến
giống cây trồng trên toàn thế giới.
Cây lúa cạn năng suất thấp nhưng lại thể hiện tính ưu việt về khả năng
chống chịu hạn tốt, thích nghi cao với điều kiện sinh thái khó khăn, có chất
lượng gạo tốt, thơm, dẻo, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và có tiềm năng

phát triển để phục vụ cho xuất khẩu. Hiện nay các giống lúa được canh tác phân
tán, tự phát, chưa có khoanh vùng và định hướng phát triển làm cho nhiều giống
lúa cạn có chất lượng bị mất dần, diện tích trồng lúa bị thu hẹp. Vì vậy sưu tập
và tuyển chọn các giống lúa cạn có chất lượng tốt, khả năng chống chịu cao
không những bảo tồn được nguồn gen đa dạng sinh học mà còn làm cơ sở cho
chọn tạo giống chịu hạn, góp phần vào việc ứng phó với biến đổi khí hậu.
1.2. Một số khái niệm về lúa cạn
Trên thế giới có nhiều cách định nghĩa về lúa cạn. Theo định nghĩa tại
Hội thảo nghiên cứu lúa cạn ở Bonake, Bờ Biển Ngà (1982): “Lúa cạn được
trồng trên đất thoát nước, không có sự tích trữ nước trên bề mặt, không được
cung cấp nước và không đắp bờ, chỉ được tưới nhờ mưa tự nhiên” [23].
Theo Garrity D.P [24] lúa cạn được coi là lúa trồng trong mùa mưa trên
đất cao, đất thoát nước tự nhiên, trên những chân ruộng được đắp bờ hoặc
không có bờ và không có lượng nước dự trữ thường xuyên trên bề mặt. Lúa
cạn được hình thành từ lúa nước, nhờ quá trình thích ứng với những vùng
trồng lúa thường gặp hạn mà xuất hiện các biến dị chịu hạn ngày càng cao. Vì
vậy lúa cạn có khả năng sinh trưởng bình thường khi ở ruộng nước.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
Huke R.E (1982) [28] dùng thuật ngữ “Lúa khô” (dryland rice) thay
cho lúa cạn (upland rice) và định nghĩa: “Lúa cạn được trồng trong những
thửa ruộng được chuẩn bị đất và gieo hạt dưới điều kiện khô, cây lúa sống
phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời”.
Theo Nguyễn Gia Quốc (1994) [9] chia lúa cạn thành 2 dạng:
- Lúa cạn thực sự hay còn gọi là lúa nương (rẫy), là loại trồng trên các
triền dốc của đồi núi, không có bờ ngăn nước, luôn không có nước ở chân,
cây lúa sống nhờ nước trời.
- Lúa cạn không hoàn toàn hay lúa nước trời là loại lúa trồng ở triền

thấp không có hệ thống tưới tiêu chủ động, cây sống hoàn toàn bằng lượng
nước mưa tại chỗ, có thể có nước dự trữ trên bề mặt ruộng và cung cấp nước
cho cây lúa vào một thời điểm nào đó.
Theo Arraudeau M.A, Xuân V.T (1995) [16] thì ở Việt Nam từ “upland
rice” có nghĩa là lúa rẫy ở Miền Nam, lúa cạn ở Trung bộ và lúa nương ở
miền Bắc.
1.3. Nguồn gốc và phân loại lúa cạn
1.3.1. Nguồn gốc lúa cạn
Lúa nói chung và lúa cạn nói riêng là một trong những cây trồng cổ xưa
nhất của loài người. Có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của lúa trồng.
Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng lúa trồng xuất hiện ở Châu Á cách đây 8000
năm (Lu.B.R và cộng sự) [31]. Tổ tiên trực tiếp của lúa trồng Châu Á (Oryza
sativa L.) vẫn còn chưa có những kết luận chắc chắn. Một số tác giả như
Sampath và Rao (1951) [37], Sampath và Govidaswami (1958) [38], Oka
(1974) [35] cho rằng O.sativa được tiến hóa từ lúa dại lâu năm O.rufipogon,
còn các tác giả khác như Chatterjee (1951) [20], Chang (1976) [19] lại cho
rằng O.sativa được tiến hóa từ lúa dại hàng năm O.nivara. Các nhà khoa học
Nhật Bản như Oka (1988) [36], Morshima và cộng sự (1992) [32] cho rằng kiểu
trung gian giữa O.rufipogon và O.nivara giống với tổ tiên lúa trồng O.sativa hơn
chính các loài lúa dại nhiều năm (O.rufipogon) hoặc hàng năm (O.nivara).

Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
Lúa trồng Châu Á O.sativa có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc
(Decadolle A., 1985; Roscheviez, Ru., 1931) và Ấn Độ (Sampath và Rao,
1951) [37]. Theo công bố của Chang (1976) [19] thì O.sativa xuất hiện đầu
tiên trên một vùng rộng lớn từ lưu vực sông Gamges dưới chân núi Hymalaya
qua Myanmar, bắc Thái Lan, Lào đến Việt Nam và nam Trung Quốc. Ông
còn cho rằng lúa Indica phát sinh từ vùng Nepal, Myanmar, Vân Nam (Trung

Quốc) đến khu vực sông Hoàng Hà và từ Việt Nam phát tán dần lên tận lưu
vực sông Dương Tử, từ đó phát sinh những biến dị thích ứng và hình thành
các chủng chịu lạnh Japonica (hoặc O.Sinica).
Từ Trung Quốc Japonica được hình thành rồi qua Triều Tiên sang Nhật
Bản. Lúa Indica phát tán xuống phía Nam tới Malaysia và lên phía Bắc tới
miền trung Trung Quốc. Loại hình hạt dài, rộng và dày thuộc kiểu Javanica
(Bulu hoặc Gundil) được hình thành ở Indonesia là sản phẩm của quá trình
chọn lọc tự nhiên từ Indica. Kiểu Javanica từ đây chuyển qua quá trình chọn
lọc tự nhiên từ Indica. Kiểu Javanica từ đây chuyển qua Philippines, Đài Loan
đến Ryukyus của Nhật Bản.
Theo Nguyễn Thị Lẫm và nhiều tác giả khác [8] đều cho rằng nguồn
gốc lúa cạn là từ lúa nước. Trong quá trình phát triển do có sự thay đổi về
điều kiện đất đai và yêu cầu về lương thực của con người, cây lúa đã phát
triển lên những vùng cao hơn. Sống trong điều kiện đó cây lúa có một số biến
đổi thích nghi với hoàn cảnh khô hạn. Dần dần qua nhiều thế hệ đã hình thành
nên nhóm lúa cạn. Lúa cạn phân bố rất rộng, có khả năng chịu rét cao và được
trồng ở miền núi có độ cao 2700m so với mặt biển. Giữa lúa nước và lúa cạn
tuy có khác nhau về yêu cầu nước, khả năng chịu hạn khi thiếu nước, đặc biệt
ở thời kỳ sinh trưởng từ làm đòng đến chín, khác nhau về một số đặc điểm
sinh thái, hình thái, hình thái phù hợp với điều kiện sống khác nhau, nhưng
giữa chúng vẫn còn vết tích về cấu tạo giải phẫu. Những điều đó chứng tỏ
chúng có mối quan hệ với nhau. Do đặc điểm của hai nhóm lúa này khác nhau

Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
nên yêu cầu kỹ thuật cũng khác nhau. Lúa cạn là lúa trồng trong mùa mưa,
trên đất cao, đất thoát nước tự nhiên, trên những chân ruộng không đắp bờ
hay không có bờ và không có nước dự trữ trên bề mặt. Lúa cạn được hình
thành và phát triển để thích nghi với những vùng trồng lúa thường gặp hạn.

Như vậy những giống lúa cạn có khả năng trồng ở đất cạn vẫn sinh trưởng
bình thường trên ruộng có nước.
1.3.2. Phân loại lúa cạn
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1999) [7] lúa cạn ngày nay bao gồm hai nhóm:
- Nhóm giống lúa cạn cổ truyền: bao gồm những giống lúa địa phương,
thích nghi cao và tồn tại lâu đời ở những vùng lúa cạn như các giống lúa: Mố,
Mộc, Lốc… thường có tiềm năng năng suất thấp, nhưng có tính chống chịu
cao. Những giống này thường được nông dân Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên
canh tác lâu đời trên nương rẫy theo dạng định canh. Với tập quán lâu đời trên
nương rẫy có độ dốc lớn, lợi dụng độ phì tự nhiên để quảng canh, nông dân
canh tác lúa cạn gieo trồng một vài vụ trên cùng một mảnh đất. Khi độ phì tự
nhiên đã cạn kiệt dẫn theo năng suất lúa thấp và giảm nhanh qua hàng năm.
Tùy nhu cầu lương thực của người dân và gia súc nhiều hay ít mà người ta chặt
phá rừng làm nương rẫy rộng hay hẹp. Đất càng nghèo dinh dưỡng thì diện tích
chặt phá rừng càng rộng… Cứ như thế du canh kéo theo du cư. Mất rừng, mất
nguồn nước, khí hậu khu vực thay đổi, hạn hán lũ lụt xảy ra ảnh hưởng đến
năng suất, điều kiện sống của con người ngày càng trở nên khó khăn hơn.
- Nhóm giống không chủ động nước hoặc sống nhờ nước trời: Loại này
phân bố trên những nương bằng, chân đồi, soi bãi có độ dốc nhỏ hơn 5
0
, có
đắp bờ, không có bờ hoặc trên chân ruộng bậc thang đã được gia cố bờ chắc
chắn để giúp lúa sống nhờ nước mưa, nhưng cũng dễ bị mất nước sau khi mưa
một thời gian ngắn. Ở đây đã có những khu đất rộng từ vài nghìn m
2
đến vài
nghìn ha, được các dân tộc đầu tư sản xuất, có áp dụng các biện pháp kỹ thuật
sản xuất lúa tiên tiến, tạo nên những cánh đồng lúa rộng. Những giống lúa
gieo trồng trên những chân ruộng này là những giống lúa cạn mới lai tạo,
mang những đặc điểm quý của lúa nước và lúa cạn, có khả năng chống chịu


Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
hạn trong những giai đoạn sinh trưởng nhất định, hiệu suất sử dụng nước và
tiềm năng năng suất cao. Trong điều kiện thời tiết khác nhau, mức độ năng
suất biến động ít. Đó là các giống lúa thuộc nhóm: CH, LC, IRAT…
1.4. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Trên thế giới lúa chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt ở vùng Châu Á.
Ở Châu Á, lúa là món ăn chính giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của
dân Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ.
Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO, 2013) [27] cho thấy, có
118 nước trồng lúa, trong đó 15 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1.000.000
ha tập trung ở Châu Á, , 36 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng
100.000ha - 1.000.000 ha. Trong đó có 31 nước có năng suất trên 5 tấn/ha,
đứng đầu là Ai Cập (9,7 tấn/ha), Australia (8,9 tấn/ha), Ukraine (8,3 tấn/ha).
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(Nghìn tấn)
1961
115.365
18,69
215.646
1970

132.873
23,81
316.346
1980
144.412
27,48
396.871
1990
146.961
35,29
518.556
2000
154.056
38,91
599.355
2001
152.043
39,35
598.361
2002
147.953
38,49
569.451
2003
148.532
39,63
584.630
2004
150.549
40,37

607.795
2005
155.026
40,92
634.930
2006
155.741
41,16
641.095
2007
155.953
42,12
656.807
2008
159.251
43,07
685.875
2009
161.421
42,04
678.682
2010
153.652
43,73
672.015
2011
163.143
44,29
722.559
2012

163.463
43,94
718.345
(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [27].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
Qua bảng 1.1 cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ
rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế
giới tăng bình quân 1,53 triệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm
và đạt cao nhất vào năm 1999 (156,8 triệu ha) với tốc độ tăng trưởng bình
quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có
nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,026
triệu ha. Từ năm 2005 đến 2009 diện tích lúa gia tăng liên tục cao nhất là năm
2009 với 161,421 triệu ha. Năm 2010 diện tích lúa giảm xuống còn 153,652
triệu ha và lại tiếp tục tăng đến năm 2012 diện tích là 163,463 triệu ha.
Bên cạnh diện tích trồng lúa, năng suất lúa bình quân trên thế giới cũng
tăng khoảng 14 tạ/ha trong vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc biệt sau
cuộc cách mạng xanh của thế giới vào những năm 1965-1970, với sự ra đời
của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không cảm quang, mà tiêu biểu là
giống lúa IR5, IR8. Đến những năm 1990 dẫn đầu năng suất lúa trên thế giới
là các nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990). Từ
năm 1990 trở đi đến tại thời điểm hiện nay năng suất lúa thế giới liên tục
được cải thiện đạt 43,94 tạ/ha năm 2012.
Tình hình nhìn chung năng suất các nước trong 12 năm (2000 - 2012)
cho thấy năng suất lúa cao tập trung ở các quốc gia á nhiệt đới, nhiệt độ ngày
và đêm cao hơn và trình độ canh tác phát triển tốt hơn. Các nước nhiệt đới có
năng suất bình quân thấp do chế độ nhiệt và ẩm độ cao, sâu bệnh phát triển
mạnh và trình độ canh tác hạn chế.






Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo của 10 nước đứng đầu thế giới 2012
Tên nƣớc
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
Thế giới
163.463.010
43,945
718.345.379
Ấn Độ
42.500.000
35,905
152.600.000
Trung Quốc
30.557.000
67,442
206.085.000
Indonesia
13.443.443

51,359
69.045.141
Bangladesh
11.700.000
29,230
34.200.000
Thái Lan
12.600.000
30,000
37.800.000
Myanmar
8.150.000
40,490
33.000.000
Việt Nam
7.753.162
56,314
43.661.569
Philippines
4.689.960
38,448
18.032.422
Brazil
2.370.267
48,908
11.391.401
Nhật Bản
1.581.000
53,908
8.523.000

(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [27].
Tình hình chung của các nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế giới
năm 2012 đứng đầu vẫn là 8 nước Châu Á là Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia,
Bangladesh, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Philippines. Tuy nhiên năng suất
chỉ có 4 nước có năng suất cao hơn 5 tấn/ha là Trung Quốc, Indonesia, Việt
Nam và Philippines. Mặc dù năng suất lúa ở các nước Châu Á còn thấp nhưng
do diện tích sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là nguồn đóng góp rất quan trọng
cho sản lượng lúa trên thế giới (trên 90%). Như vậy, có thể nói Châu Á là vựa
lúa quan trọng nhất thế giới.
Mặc dù bị ảnh hưởng hiện tượng Niña ở nhiều nơi châu Á như
Campuchia, Lào, Myanm


Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
2011, sản lượng lúa đạt đến 721 triệu tấn hay 481 triệu tấn gạo, tăng
3% hay 24 triệu tấn so với 2010.
Phần lớn sự gia tăng này do sản xuất thuận lợi tại Ấn Độ, Ai Cập,
Bangladesh, Trung Quốc và Việt Nam vượt trội hơn số lượng thất thu từ
Indonesia, Madagascar, Pakistan, Philippines và Thái Lan. Sự gi
.
) hay tăng 2,9% so
với

,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Pakistan và Việt

/ha.
Năm 2011, Việt Nam xuất khẩu 7,35 triệ


năm 2010 nhờ mùa mưa thuận lợi, ngoại trừ vài tỉnh ở Tây Nam có hạn hán.
Trung Quốc sản xuất đến 203 triệu tấn lúa hay tăng 3%, đạt được mục tiêu tự
t

2010 (34,5 triệu tấn). Hậu
quả này làm ảnh hưởng mạn .
(17 triệu tấn gạo), cao
hơn 3% năm 2010 dù mưa bất thường, do được mùa ở Ai Cập, một nước sản
xuất lúa tưới tiêu lớn trong vùng và tăng sản xuất ở Benin, Ghana, Mali,

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
Nigeria, Sierra Leone thuộc Tây Phi Châu. Trong khi Đông Phi Châu như
Tazania, Zambia, Madagascar và Nam Phi Châu có tình trạng ngược lại do
.
Ba nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất ở châu Phi là Ai Cập, Nigeria và
Madagascar, chiếm đến 55% tổng sản lượng lúa. Sản xuất lúa ở Ai Cập tăng từ
5,2 triệu tấn trong 2010 lên 5,8 triệu tấn trong 2011 và Nigeria từ 4,2 lên 4,3 triệu
tấn; trong khi Madagascar giảm từ 4,8 xuống 4,3 triệu tấn trong cùng thời kỳ.
, do được
mùa và giá gạo cao từ các nước Argentina, Brazil, Columbia, Guyana,
Paraguay, Uruguay và
hạn, Honduras, Nicaragua và El Salvador bị ngập lụt. Brazil là nước sản xuất
lúa gạo lớn nhất của châu Mỹ (chủ yếu lúa rẫy) đạt đến 13,6 triệu tấn so với
11,7 triệu tấn 2010 nhờ khí hậu tốt. Sản xuất lúa c
.
. Sản xuất lúa Úc Châu tăng đến 800.000 tấn,
gấp 4 lần so với 2010 (0,2 triệu tấn) nhờ cung cấp đầy đủ nước tưới. Sản xuất

lúa ở châu Âu tăng thêm 0,2 triệu tấn, đạt đến 4,6 triệu tấn nhờ cải thiện năng
suất, đặc biệt ở nước Ý và Liên bang Nga.
1.4.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11
triệu hộ nông dân có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương
thức canh tác thủ công truyền thống. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có sự đổi

Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
mới cơ chế quản lý kinh tế nên Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn
trong sản xuất lúa gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Hiện nay năng suất lúa
bình quân của cả nước đã khá cao đạt khoảng 4,5 tấn/ha, song giữa các vùng
sinh thái khác nhau trong nước lại có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lúa.
Lượng gạo tham gia vào các kênh lưu thông chủ yếu phụ thuộc vào hai nguồn
cung cấp chính đó là Đồng Bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam qua các thời kỳ 1970-2012
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
1970
4.724.400
21,533
10.173.300

1980
5.600.200
20,798
11.647.400
1990
6.042.800
31,814
19.225.104
2000
7.666.300
42,431
32.529.500
2001
7.492.700
42,852
32.108.400
2002
7.504.300
45,903
34.447.200
2003
7.452.200
46,387
34.568.800
2004
7.445.300
48,552
36.148.900
2005
7.329.200

48,890
35.832.900
2006
7.324.800
48,942
35.849.500
2007
7.207.400
49,869
35.942.700
2008
7.414.300
52,230
38.725.100
2009
7.440.100
52,278
38.895.500
2010
7.513.700
53,221
39.988.900
2011
7.655.439
55,383
42.398.345
2012
7.753.162
56,314
43.661.569

(Nguồn: FAO STAT năm 2013) [27].

Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
Qua các giai đoạn lịch sử cải thiện đời sống của nhân dân cho thấy
quan tâm của nhà nước đối với sản xuất lúa gạo. Trước năm 1975, năng suất
gạo đạt đưới 2,2 tấn/ha, diện tích trồng lúa dưới 5,0 triệu ha. Năng suất bình
quân trong cuối thập nhiên 1970 giảm sút khá nghiêm trọng do đất đai mới
khai hoang chưa được cải tạo, thiên tai và sâu bệnh, với cơ chế quản lý nông
nghiệp trì trệ không phù hợp đặc biệt là những năm 1978 - 1979. Bước sang
thập niên 1980, năng suất lúa tăng dần do các công trình thuỷ lợi trong cả
nước, đặc biệt ở Đồng Bằng sông Cửu Long. Cơ chế quản lý nông nghiệp
thoáng hơn với chủ trương khoán sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp. Năm
1982, nước ta đã chuyển từ nước phải nhập khẩu gạo hàng năm sang nước tự
túc gạo. Từ năm 1975 đến năm 1990, trong vòng 15 năm diện tích lúa tăng
gần 1 triệu ha đạt 6,0 triệu ha với năng suất tăng gần 1 tấn/ha đạt 3,2 tấn/ha.
Kể từ lúc gạo Việt Nam tái nhập thị trường thế giới năm 1989 thì năm 1990
đã đứng vị trí xuất khẩu gạo thứ 4 sau Thái Lan, Pakistan và Mỹ, đến năm
1991 lên ở vị trí thứ 3 và tiếp tục lên hạng vào năm 1995 ở vị trí xuất khẩu
gạo thứ 2 thế giới. Từ năm 1990 đến 2005, cũng trong vòng 15 năm nhưng
diện tích lúa tăng gần 1,3 triệu ha đạt 7,3 triệu ha với năng suất tăng gần 1,7
tấn/ha đạt 4,9 tấn/ha và mức gia tăng năng suất vẫn tiếp tục cải thiện.
Theo thống kế của FAO năm 2013 Việt Nam có diện tích lúa khoảng
7,7 triệu ha đứng thứ 7 sau các nước có diện tích lúa trồng nhiều ở Châu Á
theo thứ tự Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Myanmar.
Việt Nam có năng suất 5,6 tấn/ha đứng thứ 24 trên thế giới, đứng đầu khu vực
Đông Nam Á và đứng thứ 4 trong khu vực Châu Á sau Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản. Có mức tăng năng suất trong 10 năm (2000 - 2010) là 10,8
tạ/ha đứng thứ 12 trên thế giới và đứng đầu của 8 nước có diện tích lúa nhiều

ở Châu Á về khả năng cải thiện năng suất lúa trên thế giới. Việt Nam vượt
trội trong khu vực Đông Nam Á nhờ thuỷ lợi được cải thiện đáng kể và áp
dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón và bảo vệ thực vật.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
Cũng theo số liệu thống kê của FAO so sánh diện tích canh tác và sản
lượng giữa lúa và các cây lương thực khác ở Việt Nam thì lúa gạo vẫn là sản
phẩm cần được ưu tiên hàng đầu vì diện tích nhiều nhất cả nước hơn bắp và
sắn, sản lượng đứng đầu hơn khoai lang và cây sắn. Đáng chú ý là năng suất
lúa được cải thiện đáng kể.
Kết quả phân tích cho thấy, thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt
Nam trong 17 năm qua, thứ nhất là các quốc gia Đông Nam Á (chiếm khoảng
40-50% lượng gạo xuất khẩu), thứ hai là các quốc gia Châu Phi (chiếm
khoảng 20-30%), một thị trường khá ổn định. Các thị trường khác là Trung
Đông và Bắc Mỹ, nhưng lượng gạo xuất khẩu sang các nước này không ổn
định, đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2004. Trong những năm qua, gạo xuất
khẩu của Việt Nam tăng trưởng về số lượng và chất lượng cũng như mở rộng
thị trường. Đến năm 2003, ngoài các thị trường truyền thống của Việt Nam
như là Philipines, Việt Nam đã mở rộng và phát triển thêm một số thị trường
tiềm năng như Châu Phi, Mỹ Latinh và EU. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là ít kinh nghiệm nên thiếu khả
năng duy trì và khai thác các thị trường nhiều biến động. Nếu có mối liên kết
tốt hơn và tổ chức thị trường tốt, họ sẽ nâng cấp hạng ngạch và giá trị xuất
khẩu gạo của VN.
Về giá cả, gạo Việt Nam đã dần dần được nâng lên tương đương với
gạo Thái Lan, vào cùng thời điểm và cấp loại gạo. Điều này cho thấy, chất
lượng gạo và quan hệ thị rường của gạo Việt Nam đã có thể cạnh tranh ngang
hàng với gạo Thái Lan trên thị trường thế giới.

1.5. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Tình hình nghiên cứu, sản xuất lúa cạn trên thế giới
Trên thế giới, lúa cạn thường được trồng phổ biến ở các vùng nhiệt đới
nơi mà độ màu mỡ của đất đã bị giảm rất nhanh do canh tác trên độ dốc cao
lại vào mùa mưa dễ bị xói mòn rửa trôi.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

17
* Theo Garrity D.P [24] canh tác lúa cạn được chia thành 4 vùng sinh
thái khác nhau:
1. Vùng có mưa dài (mưa từ 5-12 tháng trong một năm), đất đai màu
mỡ. Vùng này khoảng 1,7 triệu ha, chiếm 15% diện tích, tập trung ở Tây Nam
Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Bangladesh. Ký hiệu là LP (Long growing
season with fertile soils).
2. Vùng có mưa dài, đất kém màu mỡ.Vùng này chiếm khoảng 33%
diện tích, tập trung ở Việt Nam, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia và Đông
Bắc Ấn Độ. Ký hiệu LI (Long growing season with infertile soils).
3. Vùng có mưa ngắn (mưa từ 1-4 tháng trong năm) đất đai màu mỡ,
chiếm 27% diện tích. Ký hiệu SF (Short growing season with fertile soils).
4. Vùng có mưa ngắn, đất đai kém màu mỡ, chiếm 25% diện tích. Ký
hiệu SI (Short growing season with infertile soils).
Đất màu mỡ là đất có chỉ số IFS (Inherent fertility soil) từ 1-5. Đất kém
màu mỡ là đất có chỉ số IFS từ 6-9.
Năm 1982, CIAT phân chia vùng sinh thái lúa cạn ở Châu Mỹ La Tinh
như sau [23]:
- Vùng có điều kiện sản xuất lúa cạn thuận lợi là vùng có lượng mưa
trên 2000mm/năm, mùa mưa kéo dài 6-8 tháng, năng suất lúa cạn đạt trung
bình 2,5 tấn/ha hoặc cao hơn nữa. Vùng này thuộc các nước Venezuela, Nam
Brazil, Colombia, và các nước vùng Trung Mỹ.

- Vùng tương đối thuận lợi, đất đai kém màu mỡ hơn vùng trên, lượng
mưa trong năm thấp hơn. Trong vụ gieo trồng có khoảng 2-3 tuần bị hạn.
Vùng này tập trung ở Bolivia, Mehico và miền nam lưu vực sông Amazon,
năng suất lúa đạt 1,5-2 tấn/ha.
- Vùng khó khăn, lượng mưa ít, mưa thất thường, đất nghèo dinh
dưỡng, năng suất chỉ đạt 1 tấn/ha.

×