Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện ba bể, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 136 trang )

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH





Hoàng Minh Hiền



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60 – 34 – 01






Thái Nguyên, năm 2011
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH







Hoàng Minh Hiền



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60 – 34 – 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Đình Hòa





Thái Nguyên, năm 2011
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Mọi số
liệu sử dụng trong luận văn này đều được trích dẫn. Các số liệu sơ cấp là kết
quả điều tra, đánh giá của tôi và chưa được sử dụng trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ đều đã được cảm
ơn.

Thái Nguyên, ngày 26 tháng 10 năm 2011
Tác giả Luận văn
Hoàng Minh Hiền


























i
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN


Luận văn được hoàn thành là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu và
tích lũy kinh nghiệm của tác giả. Bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ và tạo điều
kiện của các tập thể, cá nhân để tôi hoàn thành luận văn này.
Trước hết, tôi xin trân thành cảm ơn đối với các thầy, cô khoa Sau Đại
học và lãnh đạo trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn
này.
Để có được kết quả này, tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng
sâu sắc đến TS. Bùi Đình Hòa, người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
làm đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của cán bộ, lãnh đạo và
người dân các xã Yến Dương, Khang Ninh, Nam Mẫu; cán bộ, lãnh đạo
huyện Ba Bể, Cục Thống kê, sở Lao động – TBXH, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc
Kạn đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho tôi thu thập số liệu, nghiên cứu địa bàn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thành viên và người thân
trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh
thần để tôi hoàn thành khóa học cũng như luận văn này.


Thái Nguyên, ngày 26 tháng 10 năm 2011
Tác giả Luận văn
Hoàng Minh Hiền







ii
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

Nội dung
Trang
Phần mở đầu
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3
4. Đóng góp mới của Luận văn
4

5. Kết cấu luận văn
4
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phƣơng pháp nghiên cứu
5
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
5
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
5
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
14
1.2. Phương pháp nghiên cứu
42
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
42
1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu
42
1.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
46
Chƣơng 2: Thực trạng đói nghèo của huyện Ba Bể
48
2.1. Đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Ba Bể
48
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của huyện
48
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện
51
2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của huyện
53
2.1.4. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện năm 2010
54

2.2. Thực trạng đói nghèo của huyện Ba Bể
60
iii
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.1. Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo giai đoạn 2006 – 2010
60
2.2.2. Thực trạng đói nghèo của nhóm hộ nghiên cứu năm 2010
66
2.2.3. Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tốt tới thu nhập của hộ
bằng hàm sản xuất Cobb - Douglas
83
Chƣơng 3: Giải pháp giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 –
2015 ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
89
3.1. Quan điểm và mục tiêu của Đảng và Nhà nước về xóa đói,
giảm nghèo
89
3.1.1. Quan điểm về xóa đói, giảm nghèo
89
3.1.2. Mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
90
3.2. Mục tiêu Chương trình giảm nghèo tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2010 - 2015
92
3.3. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện Ba Bể giai đoạn
2010 - 2015

92
3.3.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội
92
3.3.2. Những chỉ tiêu cụ thể
93
3.4. Giải pháp giảm nghèo bền vững của huyện Ba Bể
94
3.4.1. Những giải pháp về kinh tế
95
3.4.2. Những giải pháp về tổ chức thực hiện
99
Kết luận và kiến nghị
100
Tài liệu tham khảo
102
Phụ lục


105
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT


TT
Nội dung
Ký hiệu,

viết tắt
01
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OECD
02
Ủy ban Kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc về Châu Á và
Thái Bình Dương
ESCAP
03
Chỉ số phát triển con người
HDI
04
Ngân hàng Thế giới – World bank
WB
05
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
UNDP
06
Cơ quan phát triển quốc tế Thụy Điển
SIDA
07
Đồng Đô la Mỹ
USD
08
Hàm sản xuất Coob – Douglas
CD
09
Tổng cục Thống kê
TCTK
10

Xóa đói, giảm nghèo
XĐGN
















iv
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng biểu
Trang
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo quốc gia qua các giai đoạn

12
Bảng 1.2. Chuẩn nghèo quốc gia được cập nhật theo biến động giá
12
Bảng 1.3. Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế
giới qua các giai đoạn
13
Bảng 1.4. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2006 –
2008
22
Bảng 1.5. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn của NHTG và TCTK
23
Bảng 1.6 Thu nhập và chi tiêu trung bình hàng tháng của nhóm
nghèo nhất và nhóm giàu nhất năm 2008
25
Bảng 2.7. Nhân khẩu và lao động của huyện Ba Bể năm 2010
51
Bảng 2.8. Tình hình sản xuất lương thực của huyện
55
Bảng 2.9. Tình hình chăn nuôi của huyện
56
Bảng 2.10. Cơ cấu kinh tế của huyện (2008 - 2010)
59
Bảng 2.11. Thực trạng đói nghèo của huyện Ba Bể giai đoạn 2006 -
2010
64
Bảng 2.12. Thông tin chung của chủ hộ năm 2010
66
Bảng 2.13. Tình hình dân tộc của hộ năm 2010
67
Bảng 2.14. Tình hình đất đai của hộ năm 2010

68
Bảng 2.15. Trang bị tài sản phục vụ đời sống năm 2010
69
Bảng 2.16. Tài sản phục vụ sản xuất của hộ năm 2010
71
Bảng 2.17. Vốn của hộ năm 2010
72
Bảng 2.18. Thu từ ngành nông nghiệp năm 2010
73
Bảng 2.19. Chi phí ngành nông nghiêp năm 2010
75
Bảng 2.20. Tình hình sản xuất ngành lâm nghiệp năm 2010
76
Bảng 2.21. Thu, chi hoạt động dịch vụ năm 2010
78
Bảng 2.22. Kết quả và hiệu quả sản xuất của hộ năm 2010
79
v
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Bảng 2.23. Nguồn thu và cơ cấu nguồn thu
80
Bảng 2.24. Chi tiêu và cơ cấu chi tiêu của hộ
82
Bảng 2.25. Kết quả hàm sản xuất Cobb – Douglas
84






































10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC ĐỒ THỊ


Đồ thị 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo huyện Ba Bể và tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2006
– 2010 – Trang 63
























vi
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở
mọi quốc gia. Nó không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài dưới chế độ công xã
nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ lực
lượng sản xuất kém phát triển, mà ngay cả trong thời đại ngày nay, với sự
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, với lực lượng
sản xuất phát triển cao chưa từng thấy thì đói nghèo vẫn tồn tại một cách hiển
nhiên dù quốc gia đó là nước phát triển, nước đang phát triển hay nước nghèo.
Do đó, loài người luôn luôn tìm cách nâng cao trình độ sản xuất, chống đỡ
thiên tai, địch họa và các rủi ro bất hạnh để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Ở Việt Nam, xét về trình độ phát triển kinh tế, nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu với hơn 70% dân số sống ở nông thôn [41]. Lực lượng
lao động chủ yếu vẫn là nông dân và canh tác nông nghiệp vẫn là hoạt động

đặc trưng phố biến của nền kinh tế. Do đó, số hộ nghèo và tình trạng nghèo
đói ở nước ta chủ yếu vẫn là ở nông thôn. Trước đổi mới, trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, đời sống và thu nhập của người giàu và người nghèo đã
có sự chênh lệch nhưng không lớn. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển,
sự phân hóa giàu – nghèo ngày càng mạnh mẽ. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta coi việc xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn nhằm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình
độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư hướng
tới mục tiêu phát triển bền vững. Sau hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế nước
ta tăng trưởng nhanh đã tạo ra nhiều việc làm cho người nghèo; nhiều chương
trình, dự án phát triển kinh tế được hướng vào mục tiêu xóa đói, giảm nghèo,
đặc biệt là Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo được triển khai đồng
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

bộ với mục tiêu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, vay vốn sản xuất, dạy nghề,
hỗ trợ tiếp cận dịch vụ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt, tỷ lệ đói
nghèo ở Việt Nam giảm từ mức gần 58% dân số vào năm 1993 xuống còn
14,8% vào năm 2007. Thành tựu của xóa đói giảm nghèo trong những năm
qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tỷ lệ đói nghèo giữa các vùng,
các nhóm dân tộc còn chênh lệch rất lớn. Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực
thành thị là 3,9% so với 20,4% khu vực nông thôn; tỷ lệ hộ nghèo nhóm dân
tộ Kinh, Hoa là 10% so với 52,3% đối với các dân tộc thiểu số [23]. Đặc biệt,
tại 62 huyện thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50% [4]. Kết quả xóa đói,
giảm nghèo chưa mang tính bền vững vì thu nhập của người dân hầu hết đều
xoanh quanh mức cận nghèo, do đó rất dễ rơi vào tình trạng tái nghèo. Để
thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, thì phát triển nông nghiệp – nông thôn là nhiệm vụ hết sức quan

trọng, trong đó nhất thiết phải thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là
đối với khu vực nông thôn miền núi.
Ba Bể là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc Kạn, là
một trong 62 huyện nghèo nhất cả nước. Ba Bể có diện tích tự nhiên 68.412
ha với 16 đơn vị hành chính (15 xã và 1 thị trấn), dân số gần 4,7 vạn người.
Trong những năm qua, với tinh thần quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc trong huyện cùng với sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng
và nhà nước, công tác xóa đói, giảm nghèo của huyện Ba Bể cơ bản đã đạt
được mục tiêu của Chính phủ, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và huyện đã đề
ra. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 69,44% năm 2006 xuống còn 27,88% năm
2010 [38]. Hạ tầng cơ sở cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt
của người dân. Bộ mặt các xã nghèo, đặc biệt khó khăn đang từng ngày đổi
thay. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của tỉnh và cả nước, tỷ lệ hộ nghèo
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

của huyện còn rất cao (tỷ lệ hộ nghèo bình quân toàn tỉnh năm 2009 là
25,18%). Do đó, trong thời gian tới, công tác xóa đói giảm nghèo vẫn là
nhiệm vụ trọng tâm trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
đòi hỏi Đảng và nhà nước nói chung, cũng như Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân các dân tộc trong huyện nói riêng cần nỗ lực phấn đấu từng bước ổn định
đời sống các hộ nghèo, tạo điều kiện cho các hộ vươn lên thoát nghèo và
không bị tái nghèo.
Từ những lý do trên, tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài
“Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững trên địa
bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của Đề tài là nghiên cứu, đánh giá thực trạng, nguyên nhân đói

nghèo của các hộ và đề xuất các giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững trên
địa bàn huyện Ba Bể.
2.1. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về công tác xoá đói,
giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của huyện Ba
Bể
- Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu cho công tác xoá đói,
giảm nghèo của huyện Ba Bể.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình sản xuất và đói nghèo của
các hộ nông dân; các chính sách và biện pháp xóa đói, giảm nghèo đã thực
hiện trên địa bàn huyện Ba Bể.
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu tại địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh
Bắc Kạn.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu số liệu sơ cấp năm 2010, số
liệu thứ cấp thời kì 2006 – 2010; Một số định hướng và giải pháp từ năm 2010 đến
năm 2015 và năm 2020.
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phân tích thực trạng, nguyên
nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập và đói nghèo của hộ nông dân qua đó đề
xuất các giải pháp cơ bản.
4. Đóng góp mới của Luận văn
Thông qua phân tích các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các hộ điều
tra để đề xuất các giải pháp giúp các hộ nông dân phát triển sản xuất, xóa đói

giảm nghèo bền vững.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương:
- Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
- Chƣơng 2: Thực trạng đói nghèo của huyện Ba Bể
- Chƣơng 3: Giải pháp chủ yếu xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2011 –
2015 ở huyện Ba Bể.
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1.1. Khái niệm về đói nghèo
Nghèo đói là một trạng thái kinh tế, xã hội phức tạp mà các nhà kinh tế
thuộc nhiều trường phái, nhiều quốc gia, nhiều tổ chức cơ quan quốc tế không
đồng thuận nhau về các tiêu chuẩn và do đó khi chúng ta dùng một con số
thống kê hay một bảng xếp hạng các quốc gia giàu nghèo trên thế giới để có
một so sánh, những ý niệm giàu nghèo thường rất chủ quan hay thiên lệch bởi
phương pháp thống kê, mục tiêu sử dụng, cơ cấu kinh tế và mức sống của
người dân mỗi quốc gia mỗi khác.
Căn cứ để xác định đói hay nghèo chính là nhu cầu cơ bản của con
người. Nhu cầu cơ bản ở đây được hiểu là những nhu cầu thiết yếu, tối thiểu
để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, mặc, ở. Hiện nay, trên thế giới tồn
tại một số khái niệm về đói nghèo như sau:
* Khái niệm về nghèo:
Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, túng thiếu. Rơi vào

tình trạng nghèo, con người phải vật lộn, mưu sinh kiếm sống hằng ngày, họ
không thể vươn tới những nhu cầu về văn hóa, y tế, giáo dục … hoặc phải cắt
giảm tới mức tối thiểu nhất.
- Khái niệm đói nghèo của một số tổ chức quốc tế: nghèo là tình trạng
một số bộ phận dân cư chỉ có các điều kiện vật chất và tinh thần để duy trì
cuộc sống của gia đình họ ở mức tối thiểu trong điều kiện chung của cộng
đồng [20].
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Theo định nghĩa của Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình
Dương của Liên hợp quốc (ESCAP): Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và phong tục tập quán của địa phương [17].
- Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhangen, Đan Mạch tháng 3 - 1995 đưa ra khái niệm về nghèo cụ thể
hơn như sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1
USD/mỗi ngày cho một người, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm tất yếu để tồn tại. Đây có thể xem là một định nghĩa chung nhất về
nghèo, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận
diện nét chính, phổ biến về đói nghèo. Tuy nhiên các tiêu chí và chuẩn mực
đánh giá còn chưa được lượng hóa.
- Sau đó, ESCAP đã đưa ra khái niệm nghèo dưới hai hình thức: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân
cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng địa phương [17].
* Khái niệm về đói: Đói là tình trạng không được đáp ứng nhu cầu tối

thiểu về lương thực, thực phẩm trong cuộc sống hàng ngày [25].
Đói được hiểu là một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự
sống hàng ngày, không đủ sức lao động để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động. Đói có hai dạng, đói ngay ngắt kinh niên và đói ngay ngắt cấp tính. Đói
gay ngắt kinh niên là hiện tượng một bộ phận dân cư nghèo thường xuyên rơi
vào tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Đói gay gắt cấp tính là hiện tượng một
bộ phận dân cư trong những hoàn cảnh đột xuất như thiên tai, mất mùa, bệnh
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

tật, rơi vào khó khăn cùng cực không có gì để sống, không có lương thực,
thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết cần được cứu trợ khẩn cấp.
Thiếu đói ở các hộ gia đình hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới
mức tối thiểu biểu hiện số lượng và chất lượng các bữa ăn. Thất thường về
lượng tức bữa đói, bữa no. Đứt bữa tức ngày chỉ ăn một bữa, hoặc bữa cơm,
bữa cháo, hoặc cả hai bữa đều không đủ lượng tối thiểu chứ chưa nói tới chất
lượng chất dinh dưỡng. Đứt bữa kéo dài tới hằng tháng hoặc nhiều tháng
trong năm, nhất là thời kỳ giáp hạt. Nếu lượng hóa bằng việc sử dụng năng
lượng của cơ thể con người, thiếu đói (thiếu ăn) là tình trạng con người mới
chỉ thỏa mãn mức 1.500 calo/người/ngày, dưới mức này là đói gay gắt. Hiện
nay, lượng calo tối thiểu cho mỗi người mỗi ngày được các nước áp dụng phổ
biến là 2.100 calo/người/ngày [17].
Đối với Việt Nam, là một nước nông nghiệp chậm phát triển, đời sống
của đại bộ phận người dân còn thấp, một bộ phận không nhỏ người dân còn
sống dưới mức nghèo khổ. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta và hiện trạng đời sống của dân cư hiện nay, các nhà nghiên cứu, các
cơ quan quản lý nhà nước đã đưa ra một khái niệm riêng về đói nghèo ở nước
ta.

Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống
tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện [20].
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật để duy trì cuộc sống [20].
Trên đây là một số quan điểm về đói nghèo được các tổ chức quốc tế và
Việt Nam định nghĩa dưới những hình thức khác nhau nhưng nhìn chung
chúng đều sử dụng tiêu chí tiền tệ và điều kiện sống để đánh giá.

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1.1.1.2. Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo
Xóa đói, giảm nghèo là hệ thống các chính sách, giải pháp nhằm khắc
phục tình trạng đói nghèo [25]
Xóa đói là hoạt động nhằm làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
mức sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ
để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Giảm nghèo là hoạt động làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức
sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Hay giảm nghèo là quá trình
chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Xét trên góc độ một
nền kinh tế, giảm nghèo là quá trình từng bước thực hiện chuyển đổi từ trình
độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. Mục
tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiên tiến của thời đại. Xét ở góc độ người
nghèo, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả
năng tiếp cận các nguồn lực phục vụ sản xuất và đời sống, giúp họ từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo.
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm

quan trọng của công tác xóa đói, giảm nghèo và coi đó là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước nhằm hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Từ Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã đề ra chủ trương
xóa đói, giảm nghèo. Nghị quyết Đại hội Đảng VII đã chỉ rõ: “Cùng với quá
trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xóa đói, giảm
nghèo” [17]. Và ở các kì đại hội tiếp theo, công tác xóa đói, giảm nghèo tiếp
tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Dưới ánh sáng đường lối và
nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã cụ thể hóa thành kế hoạch,
chương trình và các giải pháp đồng bộ để thực hiện công tác xóa đói, giảm
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

nghèo. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng
dân và nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ hết sức nhiệt tình của người dân, các tổ
chức chính trị, xã hội, cộng đồng doanh nghiệp trong nước và các tổ chức
quốc tế. Nó đã trở thành phong trào sâu rộng ở khắp các địa phương và cơ sở.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách xóa đói,
giảm nghèo có hiệu quả, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá
là một trong những quốc gia giảm tỷ lệ đói, nghèo tốt nhất.
1.1.1.3. Các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói
a. Các tiêu thức đánh giá đói nghèo
Do nghèo đói là một trạng thái kinh tế - xã hội phức tạp, nên hiện nay
chưa có một định nghĩa duy nhất về đói nghèo do vậy cũng không có một
phương pháp chung, thống nhất để đo lường được nó. Tuy nhiên nền kinh tế
quốc gia và quốc tế cần phải có một thước đo căn bản để đo lường đói nghèo,
do đó các cơ quan kinh tế quốc tế và Liên hợp quốc thường định nghĩa đói
nghèo theo hai tiêu chuẩn: tiêu chuẩn tiền tệ và tiêu chuẩn điều kiện sống.

* Tiêu chuẩn về tiền tệ: Theo tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn nghèo là số
tiền cần thiết để mua lượng lương thực tối thiểu cung cấp đủ 2.100 calories
mỗi ngày mỗi người và số tiền cần thiết cho những nhu cầu phi lương thực
(chi phí lương thực chiếm 70% và phi lương thực 30%). Hoặc, chuẩn nghèo là
số thu nhập tương đương với sức mua. Hiện nay, Ngân hàng Thế giới quy
định chuẩn nghèo là số tiền thu nhập bình quân đầu người dưới 2
USD/người/ngày [25]. Định nghĩa của Ngân hàng Thế giới chỉ là một tiêu
chuẩn tương đối, bởi lẽ tùy thuộc nhiều vào sự lạm phát của đồng tiền và
chính sách tiền lương mỗi quốc gia. Hiện nay, các chính phủ lại có khuynh
hướng dùng định nghĩa ngưỡng nghèo bằng tiêu chuẩn này để giảm bớt tỷ lệ
nghèo của dân chúng vì những lý do chính trị và kinh tế, bởi lẽ khi tỷ lệ người
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

nghèo càng thấp thì chính phủ càng ít phải tài trợ các chương trình giúp đỡ
người nghèo.
Dựa vào tiêu chuẩn về tiền tệ, người ta đánh giá được hiện tương bất
bình đẳng trong xã hội của từng nhóm người, từng vùng trong một quốc gia
hoặc giữa các quốc gia với nhau. Có hai phương pháp phổ biến để đo lường
sự bất bình đẳng về kinh tế.
- Cách thứ nhất: Dựa vào mức chi tiêu trung bình giữa các tầng lớp dân
cư để thiết lập một hệ số gọi là hệ số Gini. Hệ số này nằm trong khoảng từ 0
(bình đẳng tuyệt đối) đến 1 (bất bình đẳng tuyệt đối) [29].
- Cách thứ hai: So sánh tỷ trọng chi tiêu của 20% dân số thuộc nhóm
nghèo nhất (trong tổng số chi tiêu của toàn thể dân số) với tỷ trọng chi tiêu
của 20% dân số thuộc nhóm giàu nhất [29].
Ngân hàng Thế giới sử dụng tiêu chuẩn “40%”, chuẩn này nhằm đánh
giá phân bố thu nhập của dân cư. Tiêu chuẩn này xét tỷ trọng thu nhập của
40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư. Tỷ

trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao về thu nhập, nằm trong
khoảng từ 12%-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự
tương đối bình đẳng [29].
* Tiêu chuẩn về mức sống: Lương thực là một nhu cầu căn bản để tồn
tại, nhưng khác với sinh vật, con người cần sống và phát triển với những nhu
cầu vật chất và tinh thần khác. Nghèo về lương thực là mức nghèo tận cùng,
nhưng nghèo còn được phát hiện dưới ba dạng khác là nhà ở, tiện nghi sinh
hoạt trong gia đình và đời sống văn hóa. Do đó, nghèo đói còn được tiếp cận
dưới khía cạnh mức sống.
Chương trình phát triển Liên hợp quốc và các quốc gia khối OECD gồm
30 quốc gia Âu Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc thường dùng Chỉ số phát triển
con người HDI (Human development indicator) để đo lường mức sống của
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

người dân. Tuy nhiên, vì mức sống và nhu cầu của người dân ở các quốc gia
giàu, nghèo khác nhau, nên có hai công thức khác nhau, một áp dụng cho các
quốc giàu và một cho các quốc gia nghèo và đang phát triển.
HDI-1 áp dụng cho các nước nghèo và đang phát triển được tính dựa vào
3 yếu tố: tỷ lệ người dân sống dưới 40 tuổi, tỷ lệ người đi học, và tỷ lệ tiện
nghi (nước sạch, điều kiện y tế và tử vong trẻ em dưới 5 tuổi).
HDI-2 áp dụng cho các nước giàu cũng dựa vào 3 yếu tố trên nhưng gia
tăng phẩm lượng (tỷ lệ người sống dưới 60 tuổi, tỷ lệ người đi học, tiện nghi
tính theo tỷ lệ người dân có hơn phân nửa lợi tức đồng niên trung bình) và
thêm một yếu tố thứ tư là tỷ lệ người thất nghiệp dài hạn (không có việc làm ít
nhất 12 tháng).
b. Chuẩn mực đói nghèo của Việt Nam
Tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam được hai cơ quan thuộc Chính phủ
(Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động - Thương binh và xã hội) định nghĩa

theo hai tiêu chuẩn khác nhau và được liên tục điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kì. Chuẩn nghèo này dựa chủ yếu vào
tiêu chuẩn tiền tệ để xây dựng.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan tham mưu trực tiếp
giúp Chính phủ xây dựng chuẩn nghèo (chuẩn nghèo quốc gia) với mục đích
lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách các xã nghèo từ các
huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp của Chính phủ từ các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ khác; là cơ sở
để Chính phủ ban hành các chính sách giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội.
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội được tính toán dựa
vào nhu cầu chi tiêu cơ bản cho lương thực, thực phẩm, nhà ở, mặc, y tế, giáo
dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội, trong đó, tiêu chuẩn cho nhu cầu
lương thực, thực phẩm chiếm khoảng 60% và cho nhu cầu phi lương thực,
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

thực phẩm chiếm khoảng 40% tổng chi tiêu. Căn cứ vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, chuẩn nghèo có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng vùng, từng thời kì. Cụ thể, chuẩn nghèo quốc gia qua các thời kì
được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo quốc gia qua các giai đoạn

Loại
hộ

Khu vực
Thu nhập bình quân/ngƣời/tháng
1993-1995
1995-1997

1997-2000
2001-2005
2006-2010
2011 - 2015


Đói
Mọi vùng

< 13kg gạo
< 13kg gạo



Thành thị
< 13kg gạo





Nông thôn
< 8kg gạo









Nghèo
Thành thị
< 20kg gạo
< 25kg gạo
< 25kg gạo
150.000 đồng
260.000 đồng
500.000 đồng
Nông thôn
< 15kg gạo



200.000 đồng
400.000 đồng
- Miền núi,
hải đảo

< 15kg gạo
< 15kg gạo
80.000 đồng


- Đồng bằng,
trung du

< 20kg gạo
< 20kg gạo
100.000 đồng



Nguồn [29] ; [30]
Trên cơ sở chuẩn nghèo quốc gia của từng giai đoạn, trong các cuộc
khảo sát về mức sống, tỷ lệ hộ nghèo được tính dựa vào số thu nhập bình
quân đầu người một tháng của hộ được khảo sát. Chuẩn nghèo sau khi cập
nhật giá được sử dụng để tính tỷ lệ hộ nghèo qua các năm.
Bảng 1.2. Chuẩn nghèo quốc gia đƣợc cập nhật theo biến động giá

Khu vực
Thu nhập bình quân/ngƣời/tháng (đồng)
Năm 2004
Năm 2006
Năm 2008
Năm 2010
Thành thị
218.000
260.000
370.000
440.000
Nông thôn
168.000
200.000
290.000
350.000
Nguồn [29]; [30]
Tổng cục Thống kê Việt Nam phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới (WB)
xây dựng chuẩn nghèo từ năm 1993, được cập nhật theo sự biến động của giá
13


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ở các năm có khảo sát mức sống với mục tiêu đánh giá tác động của các
chính sách xóa đói, giảm nghèo của quốc gia, đồng thời từng bước xây dựng
chuẩn nghèo quốc gia tiệm cận dần với chuẩn nghèo khu vực và thế giới.
Điểm khác ở chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê và WB so với chuẩn nghèo
quốc gia là: (i) chuẩn nghèo này chỉ có một mức cho cả hai khu vực thành thị
và nông thôn, (ii) số liệu chi tiêu của các hộ gia đình được sử dụng để tính tỷ
lệ người nghèo thay vì số liệu thu nhập, và (iii) tính tỷ lệ người nghèo, không
phải hộ nghèo. Tỷ lệ người nghèo này được gọi là tỷ lệ nghèo chung hoặc tỷ
lệ nghèo chi tiêu.
Bảng 1.3. Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế
giới qua các giai đoạn
Năm
Chi tiêu bình quân/ngƣời/tháng (đồng)
1993
96.700
1998
149.000
2002
160.000
2004
173.000
2006
213.000
2008
280.000
Nguồn: [29]
Chuẩn nghèo này được áp dụng cho các cuộc điều tra về mức sống hộ
gia đình ở Việt Nam với sự hướng dẫn kỹ thuật của UNDP, WB và SIDA.

Các hộ được coi là nghèo nếu mức thu nhập và chi tiêu không đủ đảm bảo
yêu cầu trên. Tuy nhiên, tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam còn cách quá xa so
với chuẩn nghèo của WB đưa ra với ngưỡng 2 USD/người/ngày. Do đó, Việt
Nam cần phải nỗ lực hơn nữa trong công cuộc xóa đói giảm nghèo để xây
dựng chuẩn nghèo tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế.
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Hiện nay ở nước ta, một số địa phương có nền kinh tế - xã hội phát triển
đã áp dụng mức chuẩn nghèo cao hơn chuẩn nghèo chung của cả nước và chủ
động điều chỉnh chuẩn nghèo khi Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao.
- Tỉnh Bình Dương: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2008,
khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 400.000
đồng/người/tháng; giai đoạn 2009 – 2010, khu vực thành thị 780.000
đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 600.000 đồng/người/tháng.
- Tỉnh Khánh Hòa: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 – 2010,
khu vực miền núi, hải đảo 360.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn
430.000 đồng/người/tháng, khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 –
2015 là 12.000.000 đồng/người/năm (tương đương với 2 USD/người/ngày).
- Thành phố Hà Nội: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 – 2013,
khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 330.000
đồng/người/tháng.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1. Tình hình đói nghèo trên thế giới
a. Tình hình đói nghèo trên thế giới
Trong những thập niên vừa qua, với sự phát triển kinh tế, khoa học, kĩ
thuật, công nghệ, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và nỗ lực của các quốc
gia, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của thế giới đã đạt được nhiều thành

công. Theo phương pháp thống kê mới của Ngân hàng Thế giới, mức thu
nhập được xếp vào diện nghèo khổ là 1,25 USD/người/ngày (theo chỉ số giá
cả năm 2005). Theo tiêu chuẩn này, số người nghèo trên thế giới đã giảm từ
1,9 tỷ người xuống còn 1,4 tỷ người trong vòng ¼ thế kỷ (1981-2005)[27].
Báo cáo ngày 26/8/2008 của WB cũng nêu rõ, khoảng 2,6 tỷ người trên thế
giới gia nhập đội ngũ người nghèo với mức thu nhập chưa đến 2 USD

×