Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững ở xã bản hon tam đường – lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.43 KB, 69 trang )


i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM








VÀNG VĂN BUN

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững ở xã Bản Hon-
Tam Đường – Lai Châu

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ Đào Tạo : Chính Quy
Chuyên Nghành : Khuyến nông
Lớp : K43 - KN
Khoa : KT &PTNT
Khóa Học : 2011 - 2015
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Trần Thị Bích Hồng


Thái Nguyên, năm 2015

ii
LỜI CẢM ƠN



Qua quá trình học tại trường và sau hơn 4 tháng thực tập tại cơ sở em cũng
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Qua đây em bày tỏ long biết ơn chân thành sâu sắc
tới Ban giám hiệu trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên; Ban chủ nhiệm khoa
Kinh Tế và PTNT; Các phòng ban cùng các thầy giáo, cô giáo đã trang bị những
kiến thức cơ bản, giúp em có những kiến thức mới trong quá trình học tập tại cơ sở
cũng như ngoài xã hội.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo Trần Thị Bích Hồng đã trực
tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn
thành bài khóa luận này.
Em xin trân thành cảm ơn tới cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn, người dân xã
Bản Hon, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu, đã tạo điều kiện giúp đỡ để em có điều
kiện được thực tập, nâng cao sự hiểu biết.
Trong thời gian thực tập khóa luận, bản thân em đã cố gắng khắc phục mọi
khó khăn để hoàn thiện khóa luận.Tuy nhiên với thời gian ngắn và hạn chế và kiến
thức chuyên đề của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong các thầy cô
và cô hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý tạo điều kiện để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên ngày tháng năm 2015
Sinh viên


Vàng Văn Bun

iii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1: Tình hình dân số và lao động của xã Bản Hon 2014 32
Bảng 4.2 Tình hình sử dụng đất đai xã Bản Hon năm 2014 33
Bảng 4.3 Nhà ở và các phương tiện sinh hoạt của các hộ năm 2014 36

Bảng 4.4 Tình hình phát triển một số cây trồng chính của xã Bản Hon 37
Bảng 4.5. Tổng số hộ nghèo tại các thôn của xã Bản Hon năm 2014 42
Bảng 4.6: nhà ở và phương tiện sinh hoạt của các hộ điều tra 43
Bảng 4.7. Nhà ở và phương tiện sản xuất của nhóm hộ điều tra 44
Bảng 4.8. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra 45
Bảng 4.9. Nguyên nhân đói nghèo của nhóm hộ điều tra. 47


iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHYT : Bảo hiểm y tế
CSXH : Chính sách xã hội
ĐBKK : Đặc biệt khó khăn
GDP : Thu nhập quốc dân
KHKT : Khoa học kỹ thuật
LĐTB&XH : Lao động thương binh và xã hội
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
NHNN&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
PTDTBT : Phổ thông dân tộc bán trú
PTSX : phương thức sản xuất
THCS : Trung học cơ sở
USD : Đô la mỹ
WB : ngân hàng thế giới
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo


v
MỤC LỤC


Phần 1.MỞ ĐẦU 1
1.1.Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.3 Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 3
1.3.2.Ý nghĩa thực tiễn sản xuất 3
1.4. Yêu cầu của đề tài 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1 cơ sở lý luận 4
2.1.1 những vấn đề cơ bản về đói nghèo và XĐGN 4
2.1.2 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu. 8
2.2 Cơ sở thực tiễn 9
2.2.1.Hoạt động XĐGN trên thế giới 9
2.2.2. Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác giảm nghèo của một số nước
trên thế giới 11
2.2.3. Hoạt động XĐGN ở Việt Nam 13
Phần 3. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 26
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 26
3.2. Nội dung nghiên cứu 26
3.3. Phương pháp nghiên cứu 26
3.3.1. Thu thập thông tin thứ cấp 26
3.3.2. Thu thập thông tin sơ cấp 26
3.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 27
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28

vi
4.1 Điều kiện tự nhiên 28

4.2 Điều kiện kinh tế xã hội 31
4.2.1. Lĩnh vực kinh tế 31
4.2.2. Đặc điểm văn hóa – xã hội. 39
4.3 Thực trạng và đời đời sống đói nghèo tại xã bản Hon 41
4.3.1 Thực trạng đói nghèo của người dân 41
4.3.2. Thực trạng về các yếu tố sản xuất 42
4.3.3. Tình hình nhà ở và phương tiện sản xuất của nhóm hộ điều tra 43
4.3.4 Điều kiện sản xuất của các hộ điều tra. 44
4.3.5. Thực trạng việc làm tại các thôn điều tra. 45
4.3.6. Trình độ học vấn 45
4.3.7. Tình hình vay vốn sản xuất của các hộ điều tra năm 2014 46
4.3.8. Tình hình thu nhập của các hộ điều tra năm 2014 46
4.4. Nguyên nhân nghèo đói tại địa bàn nghiên cứu 47
4.3.1 Nguyên nhân nghèo đói tại địa bàn nghiên cứu 47
4.4.2. Do thiếu vốn sản xuất 47
4.4.3. Do thiếu đất canh tác, đất nghèo dinh dưỡng 48
4.4.4. Do đông người ăn theo 48
4.4.5. Do thiếu phương tiện sản xuất 48
4.4.6. Do không biết cách làm ăn, không có tay nghề 49
4.5.7. Do ốm đau, bênh tật 49
4.5. Giải pháp giảm nghèo bền vững tại xã 49
4.5.1. Các giải pháp trước mắt. 50
4.5.2. Giải pháp giảm nghèo bền vững chống tái nghèo. 52
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 55
5.1. Kết luận 55
5.2. Kiến nghị 56
TÀI LIỆU THAM KHA
̉
O
PHỤ LỤC


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở mọi
quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống trong cảnh đói
nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong
tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước
cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát
triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất nhiều. Trong xu thế hợp tác và
toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN) không còn là trách
nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả động đồng Quốc tế.
Việt Nam là một trong những nước có thu nhập khá thấp so với các nước trên
thế giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN là một chiến lược lâu dài
cần được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, kết hợp chặt chẽ với tinh thần
tự lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát
triển kinh tế của các nước tiên tiến.
Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát
triển của Quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã hội,
bệnh tật phát triển, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Trong
thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá,hiện đại hoá, phát triển
kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng trở nên khó khăn hơn vì
khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn ra. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực
nhằm giảm nhanh và bền vững tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người dân
thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN riêng phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, đất đai, thổ nhượng của mình nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bản Hon là một xã vùng III của huyện Tam Đường cách trung tâm huyện lỵ
20 km về phía tây nam, phía bắc giáp xã Hồ Thầu huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu,

Phía nam giáp với xã Khun Há huyện tam đường, Phía tây giáp với xã Bản Giang

2
huyện Tam Đường, phía đông giáp với xã Bình Lư huyện Tam Đường. có diện tích
tự nhiên 5.443,06 ha. Toàn xã có 7 bản với 497 hộ, 2.432 khẩu. Có 2 dân tộc chính
là dân tộc lự và dân tộc mông…, trong những năm gần đây được sự quan tâm của
các cấp đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường trạm…, sự nỗ lực
cố gắng của lãnh đạo và nhân dân địa phương nên tình hình kinh tế - xã hội đã có
những bước chuyển biến tích cực, sản xuất phát triển.[5]
Là xã đặc biệt khó khăn của huyện, địa hình chủ yếu là đồi núi có độ dốc cao,
hệ thống đường giao thông đã được phát triển có đường ô tô đến trung tâm xã
nhưng chủ yếu là đường giao thông nông thôn loại b thường bị chia cắt vào mùa
mưa, giao thông đi lại khó khăn nên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát
triển kinh tế hộ gia đình.
Trình độ dân trí không đồng đều do vậy nhận thức và ứng dụng KHKT vào
sản xuất còn chậm, còn chông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước chưa chú trọng
phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp
chưa quy hoạch thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
Vấn đề đặt ra ở đây là: với tình hình, thực trạng nghèo đói của xã Bản Hon
như vậy, huyện Tam Đường và Xã Bản Hon đã có những chính sách gì, bằng cách
nào, thực hiện các giải pháp nào để đẩy mạnh quá trình xoá đói giảm nghèo, từng
bước ổn định đời sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều kiện, tiền đề thuận
lợi để các hộ vươn lên thoát nghèo và không bị tái nghèo. Đây là vấn đề rất bức
thiết đối với xã Bản Hon cần sớm được nghiên cứu giải quyết, xuất phát từ thực tiễn
đó em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải
pháp giảm nghèo bền vững ở xã Bản Hon- Tam Đường – Lai Châu ".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nhằm tìm hiểu đánh giá hiện trạng thực hiện mục tiêu XĐGN trên địa bàn,

những thực trạng về các chương trình XĐGN tại xã và đưa ra một số giải pháp chủ
yếu cho các hoạt động XĐGN nhằm từng bước đưa xã thoát nghèo một cách bền vững.

3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương.
- Đánh giá thực trạng việc giảm nghèo bền vững cho các hộ nông dân xã Bản
Hon huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu. Từ đó rút ra các hạn chế của việc giảm
nghèo bền vững cho các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp thúc đẩy quá trình giảm nghèo bền vững cho các hộ nông
dân trên địa bàn xã Bản Hon nói riêng và các địa bàn có điều kiện tương đồng.
1.3 Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
- Bổ sung thêm kiến thức về đói nghèo đã được học về lý thuyết trong nhà trường.
- Bổ sung thêm kiên thức về thực trạng và xác định nguyên nhân đói nghèo.
- Có được cái nhìn tổng thể về thực trạng đói nghèo của cộng đồng
người dân trên địa bàn.
- Đề tài cũng được coi như một tài liệu tham khảo cho nhà trường,
khoa, các cơ quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo.
1.3.2.Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
Đề tài cơ sở để có những định hướng, giải pháp nhằm XĐGN cho địa
phương nghiên cứu và áp dụng vào một số địa phương có điều kiện tương tự.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Tiến hành tìm hiểu điểm nghiên cứu, quan sát và thực hiện phỏng vấn để thu
thập số liệu sơ cấp và thứ cấp về các nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững tại xã Bản Hon.
- Tư liệu hóa được các thông tin để hoàn thành đề tài tốt nghiệp.

4
PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 cơ sở lý luận
2.1.1 những vấn đề cơ bản về đói nghèo và XĐGN
2.1.1.1 Một số khái niệm về đói nghèo
- Khái niệm về đói nghèo được Bộ LĐTB&XH tách riêng đói và nghèo không
khái niệm chung như thế giới.
- Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần
các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng của từng vùng, từng khu vực xét trên mọi phương diện.
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những
bảo đảm ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và sinh hoạt hàng
ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, giao tiếp…
+ Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống. Đó là những hộ dân hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1-2 tháng, thường vay nợ
của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và
thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là trong
lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một
vùng.[7]
2.1.1.2 Các quan điểm đánh giá đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
- Phương pháp thông dụng để đánh giá mức độ nghèo là xác định mức thu
nhập có thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của con người, sau đó xác định
xem ở trong nước hay vùng có bao nhiêu người có mức thu nhập ở mức đó. Tuy

5
nhiên phương pháp lượng hóa nhu cầu tối thiểu ở mỗi nước để biểu hiện đường

ranh giới đói nghèo cũng khác nhau.
- Trên thế giới, các nước thường đưa ra những chỉ số thu nhập khác
nhau của mình. Tuy nhiên thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ là một trong
những căn cứ để đo mức độ phát triển chung của một số nước so với các nước
khác. Chỉ số thu nhập có tính chất tương đối và có hạn chế nhất định,
không phải chỉ số trung bình cao về thu nhập quốc dân (GDP) là hết đói
nghèo. Thực tế trên thế giới không thiếu gì những quốc gia tư bản chủ nghĩa có
trình độ phát triển cao, phải có thu nhập bình quân đầu người rất cao song cũng
chính ở đó đang diễn ra cảnh đói nghèo và mất công bằng xã hội gay gắt.
Cho đến nay, tiêu chuẩn thu nhập quốc dân bình quân đầu người đang được
sử dụng ngày càng phổ biến để đánh giá trình độ phát triển của một quốc
gia. XĐGN là tìm con đường phát triển tốt nhất, là làm tăng lên không ngừng mức
sống và chất lượng cuộc sống của dân cư theo mục tiêu công bằng xã hội. Để phân
tích nước nghèo, nước giàu của quốc gia bằng mức thu nhập bình quân đầu người
trên năm để đánh giá thực trạng giàu- nghèo của các nước ở cấp độ sau:
Nước cực giàu: Từ 20.000- 25000 USD/người/năm.
Nước khá giàu: Từ 10.000- 20.000 USD/người/năm.
Nước trung bình: Từ 2.500- 10.000USD/người/năm.
Nước cực nghèo: Từ 500USD/người/năm.
- Ở Việt Nam, Bộ Lao động thương binh và xã hội (LĐ- TB&XH) là cơ quan
thường trực thực hiện XĐGN. Cơ quan này đã đưa ra mức xác định khác nhau về
nghèo đói tùy theo từng thời kỳ phát triển của đất nước. Từ năm 1993 đến nay
chuẩn nghèo đã được điều chỉnh qua 5 giai đoạn cụ thể từng giai đoạn như
sau:
 Lần 1 (giai đoạn 1993- 1995)
- Hộ đói: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13kg đối
với khu vực thành thị, dưới 8kg đối với khu vực nông thôn.

6
- Hộ nghèo: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20kg

đối với khu vực thành thị, 15kg đối với khu vực nông thôn.
 Lần 2 (giai đoạn 1995- 1997)
- Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ 1
tháng quy ra gạo dưới 13kg, tính cho mọi vùng.
- Hộ nghèo: Là hộ thu nhập như sau:
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: Dưới 15kg/người/tháng.
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng.
Vùng thành thị: Dưới 25kg/người/tháng.
 Lần 3 (giai đoạn 1997- 2000) (Công văn số 1751/LĐTBXH)
- Hộ đói: là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ 1 tháng quy ra gạo
dưới 13kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính cho mọi vùng)
- Hộ nghèo: Hộ có thu nhập tùy theo từng vùng ở mức tương ứng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: Dưới 15kg/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
+Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng).
+ Vùng thành thị: Dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
 Lần 4 (giai đoạn 2001- 2005) (Quyết định số 1143/2000/QĐ-
LĐTBXH) về việc điều chỉnh chuẩn nghèo( không áp dụng chuẩn đói)
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng.
-Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
- Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
 Lần 5: Theo tiêu chí mới (giai đoạn 2006- 2010) (Quyết định số
170/2005/QĐ-TTg)
- Vùng nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng.
- Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.

7
 Lần 6: (2011- 2015) theo quyết định số 09/2011/QĐ- TTg ngày
30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận

nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015
- Vùng nông thôn: 400.000 đồng/người/tháng.
- Vùng thành thị: 500.000 đồng/người/tháng.
Với cách đánh giá mức chuẩn nghèo đói theo thu nhập như trên tuy đã có tiến
bộ và định mức thu nhập được quy thành giá trị, dễ so sánh nhưng vẫn còn một số
hạn chế là: Không phản ánh được chỉ tiêu, tổng hợp mức sống của người nghèo
(như tình trạng nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt, y tế, giáo dục và mức hưởng
thụ các dịch vụ cơ bản khác): không phản ánh được mức cân đối giữa chuẩn mực so
với đời sống thực của người nghèo. Mỗi vùng mỗi địa phương quy định chuẩn
nghèo khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương theo
thời điểm nhất định. Ở xã Bản Hon nói riêng và tỉnh Lai Châu nói chung đều lấy
chuẩn nghèo theo quy định chung của bộ LĐ- TB&XH đã quy định.
2.1.1.3 Tính tất yếu, cấp thiết phải thực hiện XĐGN.
“ Sống một cuộc sống nghèo khổ hiển nhiên sẽ gây ra những thất vọng Mà
những thất vọng này là nguyên nhân của sự phá phách, gây phiền hà cho cuộc sống
và trật tự xã hội. Hoàn cảnh nghèo khổ buộc người ta phải khai thác bừa bãi
môi trường và làm giảm khả năng sản xuất của nó, là mầm bệnh cho các xung đột
chính trị- xã hội. Phá hoại những giá trị cơ bản của con người và làm xói
mòn hạnh phúc gia đình. Những hành động kiểu này đang là bi kịch cho nhiều gia
đình và xã hội.[7]
Nghèo đói là nguyên nhân của hàng loạt những tác động tiêu cực tới sự phát
triển xã hội và phát triển con người mà biểu hiện cụ thể là:
Thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của con người.
Mức sống không đảm bảo dẫn đến hậu quả tất yếu, đó là suy dinh dưỡng của trẻ em
và giảm tuổi thọ ở người lớn. Nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại là nhu cầu cơ bản, nhu
cầu đầu tiên của con người. Trong điều kiện thu nhập thấp, chỉ tiêu cho giáo
dục, cho y tế và cho các sinh hoạt khác sẽ bị cắt giảm để nhường chỗ cho các chỉ

8
tiêu về lương thực, về quần áo, Thiếu sự chăm sóc về y tế, giáo dục, thiếu kiến

thức về sức khỏe sinh sản, phòng tránh thai cũng như chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em dẫn tới tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh, thậm trí cả các bà mẹ.
Trong báo cáo phát triển thế giới nêu rõ: “Hơn một tỷ người ngày nay đang
sống trong tình trạng nghèo đói, đa số những người này sẽ sinh ra những gia đình
nghèo, “(World Development Report 1992)[1]. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ
dừng lại ở mức độ “nghèo đói duy trì sự nghèo đói “ mà nó còn làm cho tình
trạng này ngày càng trầm trọng hơn và lan sang những lĩnh vực tưởng như không
liên quan, đó là môi trường và đạo đức xã hội. Lối sống thấp cộng với lối du canh
du cư đã tồn tại từ lâu đời của đồng bào miền núi làm cho rừng bị tàn phá ngày
một nặng nề hơn. Còn ở những nơi không có rừng để tàn phá thì nghèo đói, thiếu
việc làm nên nảy sinh tự phát dòng di dân ra thành phố, khu công nghiệp cửa
khẩu biên giới để kiếm sống. Mức độ di chuyển này ngày càng tăng, là nguồn
gốc mất an ninh trật tự và lây lan các tệ nạn xã hội, kể cả phạm tội.
“Vì vậy trách nhiệm của thế giới là phải làm giảm nạn nghèo khổ.
Điều đó vừa là mệnh lệnh của đạo lý, vừa là cái tất yếu để có được sự
bền vững của môi trường.[1]
2.1.2 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
 Các chỉ tiêu phản ánh thực trạng nghèo đói
 Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo trong toàn xã
- Thu nhập của hộ
Bao gồm toàn bộ giá trị sản phẩm và các nguồn thu tính được của hộ,
được dùng để chi trả cho đời sống và tích lũy. Để phản ánh chính xác
được mức độ nghèo đói và thực trạng đời sống của hộ, tôi nghiên cứu chỉ tiêu thu
nhập bình quân đầu người theo tháng.
 Hệ thống các chỉ số
Chỉ số phát triển con người Human Development Index (HDI), bao gồm
Tuổi thọ bình quân được phản ánh bằng số năm sống.

9
Trình độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp giữa tỷ lệ người biết chữ và tỷ

lệ người đi học đúng độ tuổi.
Mức thu nhập bình quân/đầu người theo sức mua tương đương. HDI được tính
theo phương pháp chỉ số, có giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất bằng 0
Khía cạnh 1: Liên quan đến khả năng sống như tỷ lệ % người sống đến 40 tuổi.
Khía cạnh 2: Liên quan đến trình độ giáo dục như tỷ lệ % người lớn không
biết chữ.
Khía cạnh 3: Liên quan đến mức sống, được tổng hợp bởi 3 yếu tố:
+ Tỷ lệ % người dân không có khả năng tiếp cận với nguồn nước sạch.
+ Tỷ lệ % người dân không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế.
+ Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1.Hoạt động XĐGN trên thế giới
2.2.1.1. Tình hình nghèo đói trên thế giới
Đói nghèo là vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới, nó trở thành
vấn nạn trên toàn cầu. Trong lịch sử có nhiều nạn đói chết hàng triệu người
dân châu Á, châu Phi. Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều
hướng rất đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người
nghèo đang gia tăng trên quy mô toàn cầu và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm
trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo đói,
thêm vào con số 130- 155 triệu người năm 2008, khi giá nhiên liệu và thực
phẩm tăng cao.[9]
Ngày 15/5/2012, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra nghiên cứu
năm 2012 về thị trường lao động, nhấm mạnh từ những năm qua, tình trạng
nghèo khổ gia tăng không còn là vấn đề đáng lo ngại ở các nước phát triển. Từ
khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, tỷ lệ nghèo khổ đã giảm mạnh ở 75%
các nước đang phát triển, nhưng lại đang tăng lên ở 25 nước trong 36 nước phát
triển.[9]

10
Đói nghèo đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn định và

phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là một
chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể thống
nhất.Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết giữa các quốc gia lại với nhau, các
quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, sự ổn định và phát
triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định và
phát triển của các quốc gia khác. Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài
người bởi. “Nghèo đói đã trở thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị đặc
biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn chính
trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến tranh không chỉ
trong phạm vi một quốc gia mà là cả thế giới. Bởi những bất công và nghèo đói
thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ quốc tế, và
nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết một cách thỏa đáng bằng
con đường hòa bình thì tất yếu sẽ xảy ra chiến tranh.[9]
2.2.1.2. Các giải pháp và kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới.
 Giải pháp
Từ thực trạng đói nghèo trên thế giới đã rút ra được bài học kinh
nghiệm chống đói nghèo ở các nước trong khu vực, mà một số nước thực hiện đã
có kết quả. Đó là can thiệp vĩ mô thuộc vai trò quản lý của nhà nước để
chống đói nghèo, XĐGN có hiệu quả. Điểm mẫu chốt của nhà nước là kịp
thời có những chính sách, giải pháp đúng đắn, đồng bộ đảm bảo được những điều
kiện để thực thi.
 Kinh nghiện XĐGN của một số nƣớc
Vấn đề đói nghèo và XĐGN đang trở thành chủ đề quan tâm của toàn
nhân loại. Việc hạn chế và từng bước XĐGN là nhiệm vụ quan trọng và nặng
nề của nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia. Trong một vài thập kỷ
gần đây, công tác XĐGN trên thế giới và một số quốc gia đã đạt được một số kết
quả nhất định. Các kết quả này được tổng kết và đút rút thành kinh nghiệm để cho
các nước tham khảo và học tập.

11

2.2.2. Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác giảm nghèo của một số
nước trên thế giới
* Đài Loan
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES), nhưng là 1 nước
thành công nhất về mô hình kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp với phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ( mặc dù Đài Loan không có các điều kiện
thuận lợi như một số nước trong khu vực) đó là chính phủ Đài Loan đã áp dụng
thành công một số chính sách về phát triển kinh tế -xã hội như:
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang
trại gia đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản
xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp
nông thôn, mở mang thêm những nghành sản xuất kinh doanh ngoài nông
nghiệp cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông
nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% số trang trại, sản xuất thuần
nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động, trong
nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phát triển .
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển
nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về
đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông
thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn
góp phần cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính
quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng
nông thôn để thu hút những lao đông nhàn rỗi của khu vực nông nghiệp, tăng thu
nhập cho những người nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài
Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi,
do đó trình độ học vấn của nhân dân nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng
với trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống được cải thiện,Tỷ lệ tăng


12
dân số đã giảm từ 3,2%/năm(1950) xuống còn 1,5%/năm(1985). Hệ thống y
tế , chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được quan tâm đầu tư
thích đáng.[10]
* Kinh nghiệm từ Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ý
đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng
đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng
60% dân số Hàn Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói,
tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân
dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông
thôn vào thành thị để kiếm việc làm, chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây nên
tình trạng mất ổn định chính trị - xã hội. Để ổn định tình hình chính trị - xã
hội, chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các chính sách kinh tế - xã
hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều chỉnh các chính sách về phát
triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn và một chương trình phát triển
nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản:
- Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay.
- Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
- Thay giống lúa mới có năng suất cao.
- Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các
HTX sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và
nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dân có
việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân các thành phố lớn để kiếm
việc làm. chính sách này đã được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ
cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng
hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xoá đói
giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn. Tóm lại, Hàn Quốc đã trở thành 1
nước công nghiệp phát triển nhưng chính phủ vẫn coi trọng những chính sách


13
có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá
đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói
giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế.[10]
2.2.3. Hoạt động XĐGN ở Việt Nam
2.2.3.1.Thực trang nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Trong những năm tới công tác xoá đói giảm nghèo tiếp tục có nhiều
khó khăn, thách thức, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững; tỷ lệ hộ tái
nghèo, phát sinh nghèo hàng năm còn cao; tập quán lạc hậu, tư tưởng trông
chờ, ỷ lại Nhà nước, thiếu ý chí vươn lên trong một bộ phận nhân dân và
người nghèo, thiên tai, dịch bệnh luôn đe dọa, sẽ tiếp tục là trở ngại trong
công cuộc XĐGN thời gian tới. Trước những khó khăn, thách thức đó, để
thực hiện thắng lợi mục tiêu XĐGN đến năm 2015, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống còn 20% phổ cập chính sách giảm nghèo. Chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ XI thông qua tháng 1/2011 với mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2020 cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao
hơn trong giai đoạn sau. Do đó, các chương trình và chính sách giảm nghèo của
Chính phủ đã được xây dựng tập trung trên ba chiến lược chính: Thúc đẩy
các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập cho người nghèo, tăng cường
khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ xã hội, tăng cường năng lực và
nâng cao nhận thức của người dân ở các vùng nghèo.
Những chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc
gia hỗ trợ giảm nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5nhóm chính
sách: Tín dụng, phát triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục và y
tế. Nhờ đó, người nghèo được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công
nghệ, thị trường) và các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp
pháp lý).


14
Tính đến năm 2010, có hơn 77% người nghèo được hưởng lợi từ các
chương trình và chính sách hỗ trợ của Chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập
chính sách rộng khắp trên cả nước.
Đánh giá về những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc xây
dựng những chính sách giảm nghèo, bà Victoria Kwa kwa, Giám đốc Quốc
gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nhấn mạnh: Thành công của Việt Nam
có được đầu tiên là nhờ vào tầm nhìn và quyết tâm lãnh đạo của Chính phủ, cũng
như tinh thần chịu khó, làm việc chăm chỉ của người dân Việt Nam. Là đối tác
phát triển, WB rất tự hào được đồng hành cùng Việt Nam trong chặng
đường phát triển kinh tế-xã hội, XĐGN thời gian qua, đóng góp cho sự phát triển
chung của Việt Nam. Cơ hội hợp tác này cũng giúp cho WB kiểm nghiệm những ý
tưởng mới với điều chắc chắn rằng, hỗ trợ phát triển là có thể làm được và hiệu quả.
Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của
Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo là chương
trình lớn và quan trọng, có tác động mạnh đến giảm nghèo và nâng cao
điều kiện sống của người nghèo. Chương trình này đã lồng ghép một loạt
các hạng mục phát triển kinh tế-xã hội như: Phát triển cơ sở hạ tầng công cộng cấp
xã, tín dụng cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh
môi trường và các chương trình khuyến nông.
Với chính sách toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh của đời sống, hướng đến
nhóm dân cư dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất ở vùng sâu, vùng xa, các chương
trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm nghèo, tăng thu nhập và cải thiện
điều kiện sống của nhóm người dân những vùng này. Kết quả đánh giá tác động qua
3 năm thực hiện cho thấy tỷ lệ nghèo đã giảm 4-5%/năm và khả năng tiếp cận dịch
vụ xã hội như giáo dục, y tế, điện, nước sạch của các hộ gia đình tăng đáng kể.
Vấn đề đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp cũng được nhà nước quan
tâm. Nhiều chính sách, chương trình phát triển nhà ở cho các đối tượng có khó khăn
về nhà ở như người lao động tại các khu công nghiệp, học sinh, sinh viên, người


15
nghèo ở nông thôn, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị đã được ban
hành và triển khai thực hiện trên thực tế.
Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách
nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên, công nhân lao động tại các
khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Thông qua
các chương trình đó, đến nay đã có hơn 530.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; có
62 dự án nhà ở cho công nhân với tổng quy mô 11.719 căn hộ được hoàn thành, đáp
ứng chỗ ở cho 67.600 công nhân lao động tại các khu công nghiệp; Đã có 163 khối
nhà cho sinh viên đã được đưa vào sử dụng, đáp ứng khoảng 140.000 chỗ ở (dự
kiến hết năm 2013 sẽ đáp ứng được chỗ ở cho 330.000 sinh viên); có 56 dự án nhà
cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị được triển khai, đáp ứng cho khoảng
130.000 hộ thu nhập thấp có nhu cầu về nhà ở.
Việt Nam cũng đang nghiên cứu, soạn thảo Luật Nhà ở sửa đổi để
trình Quốc hội thông qua vào năm 2014, trong đó tập trung vào các chính
sách hỗ trợ người nghèo (cả đô thị và nông thôn), người thu nhập thấp và các đối
tượng ưu tiên khác như công nhân tại khu công nghiệp, học sinh, sinh
viên,Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách về phát triển nhà
ở xã hội, nhà cho thuê ở khu vực đô thị và nhà ở tái định cư; thúc đẩy các biện pháp
tăng cường trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc
xây dựng nhà ở cho người nghèo nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn có nhà ở, ổn
định cuộc sống.
2.2.3.2 Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
Theo đánh giá của Bộ Lao động thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) nguyên
nhân đói nghèo là hậu quả của nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính
gây ra đói nghèo có thể chia làm 3 nhóm nhưng sau:
- Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên- xã hội: khí hậu khắc
nghiệt, thiên tai, bão lũ, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó
khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến tranh.


16
- Nhóm nguyên nhân thuộc cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng
bộ về chính sách đầu tư cơ sơ hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách
khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn làm ăn, khuyến nông lâm
ngư, chính sách giáo dục - đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh
tế mới và đầu tư nguồn lực còn hạn chế.
- Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân hộ nghèo: Do chính bản thân hộ
nghèo không biết cách làm ăn, không có hoặc thiếu vốn sản xuất, gia đình đông
con, ít người làm, do chi tiêu lãng phí bừa bãi, lười lao động, mắc tệ nạn xã hội
như: Cờ bạc, rượu chè, nghiện hút. Ngoài ra còn một bộ phận không nhỏ
người nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước
nên chưa chủ động vươn lên tự thoát nghèo.
Để xác định các biện pháp phù hợp trong công cuộc XĐGN, mỗi địa
phương phải xác định rõ đâu là nguyên nhân chính và những thuận lợi, khó
khăn của địa phương mình.
2.2.3.3. Chính sách XĐGN của Việt Nam
Chương trình 134. Chương trình 134 tên gọi khác là chương trình hỗ
trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo, đời sống khó khăn mà Chính phủ Việt Nam áp dụng từ năm 2004 nhằm
mục đích đẩy nhanh tiến độ xóa nghèo cho các hộ dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Các nội dung chính sách của Chương trình 134 gồm:
- Đảm bảo mỗi hộ dân tộc thiểu số có tối thiểu 0,5 ha đất nương, rẫy
hoặc 0,25ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15ha đất ruộng lúa nước hai vụ để
sản xuất nông nghiệp.
- Đảm bảo mỗi hộ dân tộc thiểu số ở nông thôn có tối thiểu tối thiểu
200m đất ở. Riêng hộ dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có chính sách riêng.
- Chính quyền trung ương cùng chính quyền địa phương sẽ trợ cấp cho các hộ
dân tộc thiểu số nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở tạm bợ để họ xây nhà.
- Chính quyền trung ương sẽ trợ cấp bằng 0,5 tấn xi măng cho mỗi hộ dân tộc

thiểu số để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc cấp 300.000 đồng để đào

17
giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt đối với các hộ dân tộc thiểu số sống phân tán
tại vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt. Đối với các thôn,
bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên, chính quyền trung ương
sẽ trợ cấp 100% kinh phí xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung.
Đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc
thiểu số, chính quyền trung ương sẽ trợ cấp 50% kinh phí xây dựng công trình
cấp nước sinh hoạt tập trung.
2.2.3.4. Công tác XĐGN của đồng bào dân tộc thiểu số
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách nhằm tạo điều kiện phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
bào các dân tộc thiểu số, đưa vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta có hơn 14 triệu người, cư trú trên 52 tỉnh,
thành của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản miền núi, vùng cao, vùng
sâu nếu áp dụng theo chuẩn nghèo năm 2011, là gần 50%.
 Các nhóm chương trình giảm nghèo
Nhóm chính sách giảm nghèo toàn diện: Đó là các chính sách tổng hợp, nhằm
mục tiêu cải thiện toàn diện các khía cạnh đời sống của các hộ nghèo, bao gồm các
dự án tiếp cận dịch vụ, kết cấu hạ tầng; hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa
và liên kết thị trường, đào tạo nghề, tạo điều kiện phát triển các mặt của đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào (Chương trình 135, Chương trình 30a)
Nhóm các chính sách có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp nâng cao
đời sống nhân dân mang tầm quốc gia: Các chính sách này với các chủ trương tiếp
cận theo mục tiêu, tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể, thiết thực đặt ra từ thực tế
đời sống kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (chương trình mục tiêu
quốc gia về nước sạch; giáo dục đào tạo, giải quyết việc làm; dân số, kế hoạch hóa
gia đình; chương trình xây dựng nông thôn mới,).

Các chính sách theo vùng: Đó là các chính sách có trọng tâm hỗ trợ cho một
số vùng nhất định như: Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các xã biên

18
giới Việt Nam - Lào - Căm-pu-chia, vùng Tây Bắc; Giải quyết đất ở, đất
canh tác cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nam Bộ;Giao rừng và bảo vệ rừng
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Thanh Hóa- Nghệ An,
Chính sách giảm nghèo tiếp cận theo ngành: Chính sách này tập trung hỗ trợ
theo từng lĩnh vực cụ thể như giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, nước
sạch, trồng rừng .
Các chính sách tiếp cận đặc trưng cho nhóm nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
như: Chính sách hỗ trợ một số dân tộc đặc biệt khó khăn; những dân tộc đặc biệt ít
người,.
Các nhóm chính sách trên thông qua các dự án, các chương trình
nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào các dân tộc thiểu số, đưa vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu, chậm phát triển; tạo điều kiện cho hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ
xã hội và hoạt động nâng cao nhận thức, năng lực giảm nghèo.(Bộ LĐ-
TB&XH)[3].
2.2.3.5. Vấn đề về giảm nghèo bền vững
Một số trao đổi về khái niệm giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là một khái niệm mới và trong thời gian gần đây được
đưa vào sử dụng trên các diễn đàn, trên các hội nghị, hội thảo và các chính sách vĩ
mô về công tác xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa có một
khái niệm cụ thể nào về thuật ngữ này. Do vậy, để tìm hiểu khái niệm về giảm
nghèo bền vững chúng ta cần phải tìm hiểu rộng hơn về các vấn đề này, nó bao gồm
các nội dung về giảm nghèo và phát triển bền vững.
Trước khi bàn về giảm nghèo và phát triển bền vững, cần có những trao đổi về
một số thuật ngữ hay sử dụng như nghèo kinh niên, thoát nghèo, tái nghèo, rơi
xuống nghèo và thoát nghèo bền vững, Hiện nay, chưa có các văn bản chính thức

đưa ra các khái niệm này, nhưng để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài cần thiết
phải làm rõ các nội dung này. Qua tham khảo các tài liệu và một số công trình
nghiên cứu đã công bố, có thể khái quát các khái niệm trên như sau

19
Nghèo kinh niên: Một hộ được coi là nghèo kinh niên là hộ chưa bao giờ có thu
nhập bình quân đầu người cao hơn mức nghèo theo chuẩn nghèo cho từng khu vực
và trong từng giai đoạn khác nhau.
Thoát nghèo: Một hộ được coi là thoát nghèo khi hộ đang là hộ nghèo theo
chuẩn nghèo, đã có được thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức nghèo theo
chuẩn nghèo cho từng khu vực và trong từng giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn
2011-2015 hộ thoát nghèo là những hộ đang là hộ nghèo vươn lên hộ có mức thu
nhập trên 400.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và trên 500.000
đồng/người/tháng đối với thành thị được coi là hộ thoát nghèo.
Tái nghèo: Một hộ được gọi là tái nghèo khi hộ đó đã thoát nghèo nhưng vì
nguyên nhân nào đó đã không còn đủ khả năng ứng phó với những bất lợi trong
cuộc sống dẫn đến đói nghèo, tức là có mức thu nhập thấp hơn mức chuẩn nghèo
cho từng khu vực và trong từng giai đoạn. Hiện tượng này xảy ra khá phổ biến khi
có các tác động của thiên tai, rủi ro, bệnh tật hoặc do chuẩn nghèo thay đổi lên mức
cao hơn.
Rơi xuống nghèo: Một hộ được gọi là rơi xuống nghèo nếu là hộ thường
xuyên có thu nhập ở trên mức nghèo theo chuẩn nghèo cho từng khu vực và trong
từng giai đoạn khác nhau, nhưng vì một lý do nào đó hộ không còn đủ cơ hội để
ứng phó với những bất lợi trong cuộc sống hoặc có thu nhập của hộ chỉ thấp hơn
mức chuẩn nghèo cho từng khu vực và trong từng giai đoạn.
Thoát nghèo bền vững: Một hộ được gọi là thoát nghèo bền vững nếu đang là
hộ nghèo đã có thu nhập ổn định và phát triển có mức thu nhập trên mức chuẩn
nghèo cho từng khu vực, trong từng giai đoạn (kể cả việc tăng mức chuẩn nghèo),
họ không bị tái nghèo và có các kỹ năng, đủ năng lực để ứng phó với những bất lợi
xảy ra.

2.2.3.6. Vấn đề đói nghèo của tỉnh Lai Châu
Chương trình XĐGN tỉnh Lai Châu nói chung và huyện Tam Đường nói riêng
là một chương trình tổng hợp có tính chất liên ngành trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo, hộ nghèo,

×