Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.91 KB, 22 trang )

Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
DANH SÁCH NHÓM
STT Họ và tên MSSV Ghi chú
1 LÊ THỊ MAI 10021833
2 LÊ THỊ YẾN 10021363
3 LÊ THỊ LÝ 10007603
4 LÊ THỊ QUẾ 10011643
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN












SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM 1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 1
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 2
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 3
2.1: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ


NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN VIÊN. 3
2.2: CÁC NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 4
2.2.1: Tính độc lập 4
2.2.2: Tính liêm chính và tính khách quan 6
2.2.3: Các chuẩn mực về nghiệp vụ và năng lực 6
2.2.4: Trách nhiệm đối với khách hàng – tính bảo mật 7
2.2.5: Trách nhiệm đối với khách hàng – Thù lao phụ thuộc 8
2.2.6: Trách nhiệm đối với đồng nghiệp 9
2.2.7: Trách nhiệm và thông lệ khác – Hành vi làm mất tín nhiệm 10
2.3: CÁC NGUY CƠ DẪN ĐẾN VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 10
2.3.1: Nguy cơ do tư lợi 10
2.3.2: Nguy cơ tự kiểm tra 11
2.3.3: Nguy cơ về sự bảo chữa 11
2.3.4: Nguy cơ từ sự quen thuộc 11
2.3.5: Nguy cơ bị đe dọa 11
2.3.6: Một vài ví dụ về vi phạm trong kiểm toán 11
CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 14
3.1: Trách nhiệm dân sự 14
3.2: Trách nhiệm hình sự 14
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
3.3: Những giải pháp của kiểm toán viên khi phát hiện ra sai sót – gian lận
14
KẾT LUẬN 19
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, số lượng dịch vụ kiểm toán ngày càng tăng lên
kéo theo là số lượng người sử dụng các thông tin tài chính sau khi được kiểm

toán ngày càng tăng đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực về đạo
đức nghề nghiệp khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Việc kiểm toán viên
tuân thủ đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp bảo vệ và nâng cao uy tín của nghề kiểm
toán trong xã hội, bảo đảm về chất lượng cao của các dịch vụ cung ứng cho
khách hàng và cho xã hội. Nếu kiểm toán viên không tuân thủ các chuẩn mực về
đạo đức nghề nghiệp thì lòng tin của công chúng vào dịch vụ kiểm toán sẽ giảm
xuống.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm pháp
lý đối với kiểm toán viên nhóm em đã quyết định chọn đề tài : “Đạo đức nghề
nghiệp và trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên” . Do thời gian ngắn , khả
năng tìm hiểu đề tài còn hạn chế , những vấn đề nhóm em tìm hiểu đã được và
trình bày trong bài tiểu luận môn học này có thể còn nhiều thiếu sót . Chúng em
rất mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn và góp ý của cô để bài viết của
chúng em được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 1
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Là những quy tắc hướng dẫn cho các thành viên ứng xử vào hoạt động môt
cách trung thực phục vụ cho lợi ích nghề nghiệp và xã hội
Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu những kiểm toán viên phải có đạo đức và mỗi
tổ chức kiểm toán phải là một cộng đồng của những người có đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp kiểm toán là yêu cầu bắt buộc với kiểm toán viên
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 2
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN.
2.1: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN VIÊN.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho kiểm

toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho lợi ích chung
của nghề nghiệp và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp là những chỉ
dẫn để các thành viên luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất quan
trọng. Nó là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán. Một
kiểm toán viên cần phải có đạo đức và một công ty kiểm toán cần phải là một
cộng đồng các kiểm toán viên có đạo đức. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường
thì nhu cầu đối với nghề kiểm toán đáng tin cậy và được công nhận trở nên lớn
hơn bao giờ hết. Hơn nữa, những người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính
nếu không có đạo đức thì dễ có thể làm cho thông tin báo cáo kiểm toán tài
chính không tin tưởng dẫn đến hậu quả là sự mất lòng tin trong công chúng.
Trong bối cảnh đó, nếu không có hoạt động kiểm toán để xác định tính tin cậy
của các hệ thống thông tin tài chính thì sẽ gây cản trở lớn. Do vậy, những đòi
hỏi về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên phải được xác định rõ ràng
và được công bố để cho công chúng nói chung biết, qua đó họ có thể đòi hỏi các
hành vi đạo đức của kiểm toán viên cũng như đánh giá các cam kết của ngành
này.
Chuẩn mực là tiêu chuẩn đánh giá và định lượng các nghiệp vụ hoạt động
kiểm toán, hay nói cách khác là mẫu mực để hành nghề của hoạt động kiểm
toán. Thông qua các chuẩn mực đã phát triển một cách thích hợp, có thể đánh
giá trình độ và chất lượng của hoạt động kiểm toán. Đồng thời các chuẩn mực
cũng là cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhằm đạt được chuyên môn hoàn
hảo. Đối với những người không thuộc lĩnh vực kiểm toán như các nhà quản lý,
hội đồng quản trị, các cổ dông, nhà đầu tư, các tổ chức điều khiển và tất cả
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 3
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
những ai quan tâm, các chuẩn mực được sử dụng như là biện pháp hữu ích của
dịch vụ kiểm toán mà mọi người mong muốn có được.
Như vậy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng trong các
cuộc kiểm toán nên nó phải được xây dựng một cách chặt chẽ, hợp lý để làm sao

cho kiểm toán viên áp dụng một cách thuận lợi mà không phạm sai lầm hay bị
chồng chéo bởi các điều lệ khác.
2.2: CÁC NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Yêu cầu về nhân cách đạo đức của bất cứ tổ chức kiểm toán nào cũng phải
dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau. Các nguyên tắc này chỉ đạo kiểm toán viên
trong quá trình hành nghề và quan hệ với người khác.
2.2.1: Tính độc lập
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có tính
độc lập thì chức năng kiểm toán không có giá trị trong xã hội.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định rằng trong quá trình kiểm toán,
kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích
vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc
lập nghề nghiệp của mình.
Tính độc lập trong kiểm toán có nghĩa là việc có một quan điểm vô tư khi
thực hiện các cuộc kiểm toán, đánh giá các kết quả và công bố báo cáo kiểm
toán. Nếu kiểm toán viên là một luật sư của khách hàng, một chủ ngân hàng cá
biệt hoặc bất kỳ ai khác có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp về mặt tài chính, có
quan hệ họ hàng thân thuộc với những người trong bộ máy quản lý của đơn vị
được kiểm toán thì anh ta sẽ không thể được xem là độc lập. Ví dụ trước đây đã
có lần chấp nhận cho kiểm toán viên sở hữu một số lượng cổ phần giới hạn
trong công ty khách hàng.
Nhưng ngày nay điều đó được xem như khả năng tiềm ẩn tác động xấu đến
tích độc lập của công ty kiểm toán và chắc chắn có khả năng ảnh hưởng đến
nhận thức của người sử dụng về tính độc lập của kiểm toán viên. Việc trực tiếp
hay gián tiếp sở hữu cổ phần của một công ty thì theo nguyên tắc 101 công ty
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 4
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
kiểm toán đó sẽ bị cấm trình bày quan điểm về các báo cáo tài chính của công ty
này. Hoặc nếu kiểm toán viên là một thành viên của hội đồng quản trị hay một
viên chức của công ty khách hàng, khả năng để thực hiện những đánh giá độc

lập của anh ta về sự trình bày trung thực ở các báo cáo tài chính sẽ dễ dàng bị
ảnh hưởng. Ngay cả khi việc các chức vụ này không thực tế làm ảnh hưởng đến
tính độc lập của kiểm toán viên thì sự dính líu thường xuyên với ban quản trị và
các quyết định mà ban quản trị lập sẽ có khả năng ảnh hưởng đến cách nhìn
nhận tính độc lập của kiểm toán viên từ những người sử dụng báo cáo. Để loại
trừ khả năng này, nguyên tắc 101 nghiêm cấm kiểm toán viên có tư cách là giám
đốc hoặc viên chức của công ty khách hàng.
Tính độc lập có thể coi là cơ sở quan trọng để hoạt động kiểm toán có hiệu
quả. Tuy nhiên chúng ta hoàn toàn nhận thức được rằng tính độc lập không bao
giờ là đủ vì luôn có những điều kiện hạn chế ít nhiều tính độc lập. Ví dụ hội
đồng quản trị bắt buộc phải giải trình với chính quyền và xã hội, giám đốc điều
hành cũng chịu sự bắt buộc như vậy cộng thêm sự bắt buộc của hội đồng quản
trị. Kiểm toán viên bên ngoài hoàn toàn không bao giờ quên rằng khách hàng trả
tiền cho họ và tiền công đó là cần thiết để duy trì một hãng kiểm toán tồn tại và
phát triển. Kiểm toán viên nội bộ báo cáo với một cá nhân trong tổ chức phụ
thuộc vào tổ chức đó vì cuộc sống của họ. Việc chống lại sức ép của đồng sự
trong tổ chức mà kiểm toán viên nội bộ muốn giữ quan hệ làm việc tốt luôn là
vấn đề đáng quan ngại.
Tất cả những điều đó có nghĩa là không người nào tự cho mình là một ốc
đảo cô lập và tính độc lập bao giờ cũng là một thuật ngữ tương đối - độc lập
nhiều hay độc lập ít - chứ không bao giờ tuyệt đối. Điều này không làm giảm giá
trị của tính độc lập hoặc coi thường những cố gắng mở rộng phạm vi và nâng
cao chất lượng cuả tính độc lập mong muốn. Đối với kiểm toán viên, sự cố gắng
không ngừng của chúng ta là củng cố tính độc lập cần thiết mặc dù có và luôn
luôn có những giới hạn thực sự đối với tính độc lập đó. Giá trị của sự cố gắng
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 5
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
này là góp phần làm cho tính độc lập cao hơn để hoạt động kiểm toán có hiệu
quả, góp phần vào sự phồn vinh tối đa của tổ chức.
2.2.2: Tính liêm chính và tính khách quan

Kiểm toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành vi như:
phải trung thực và thẳng thắn trong quá trình làm việc và trong quan hệ của họ
với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía công
chúng, các kiểm toán viên không được để bị nghi ngờ và không được để bị chỉ
trích, phẩm chất liêm chính được đánh giá theo nghĩa đúng đắn và công bằng.
Phẩm chất này đòi hỏi kiểm toán viên phải tuân thủ cả về hình thức và tinh thần
các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về kiểm toán. Phẩm chất trung
thực cũng đòi hỏi kiểm toán viên tuân thủ các nguyên tắc khách quan và độc lập,
duy trì các chuẩn mực cao nhất về nhân cách và các hành vi nghề nghiệp, đưa ra
các quyết định vì lợi ích của công chúng và áp dụng các tiêu chuẩn cao về phẩm
chất trung thực trong khi xử lý công việc và các nguồn lực của cơ quan kiểm
toán.
Kiểm toán viên phải là người có tính khách quan và công bằng trong tất cả
các công việc bao gồm việc lập các báo cáo trung thực và chính xác. Do đó các
kết luận trong báo cáo và ý kiến chỉ nên bị ảnh hưởng bởi các bằng chứng được
thu thập theo các chuẩn mực kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao. Các kiểm
toán viên nên sử dụng các thông tin cũng như các ý kiến do đối tượng kiểm toán
hoặc các đơn vị khác cung cấp. Tuy vậy các kết luận của kiểm toán không nên
bị tác động bởi các ý kiến đó, còn theo nguyên tắc 102 về tính khách quan thì
một hội viên không được chủ tâm phản ánh sai sự việc và khi hợp đồng thực
hiện kiểm toán độc lập anh ta không được để sự phán xét của mình bị lệ thuộc
vào người khác.
2.2.3: Các chuẩn mực về nghiệp vụ và năng lực
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và
những chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 6
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận và các quy
định pháp luật hiện hành. Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên
tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ

bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực
chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên
cần. Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong
hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng
yêu cầu công việc. Kiểm toán viên cần phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề
nghiệp trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và luôn ý thức rằng có
thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu của báo cáo tài
chính như khi nhận được bản giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được những
bằng chứng cần thiết để chứng minh cho những giải trình đó. Điều đó nói lên
rằng tính thận trọng trong nghề nghiệp đúng mực chính là điều kiện cần có để
xác định và kiến nghị đúng đắn những cơ hội đem lại hiệu quả quản lý và có khả
năng thu lợi nhuận tốt hơn.
Tuy vậy, các kiểm toán viên trải qua nhiều giai đoạn trong quá trình phát
triển nghề nghiệp. Họ có trình độ năng lực khác nhau do mỗi cá nhân có kiến
thức, kỹ năng và kỷ luật cũng như bề dày kinh nghiệm khác nhau. Do đó cần
phải lưu ý khi giao trách nhiệm kiểm toán cho kiểm toán viên.
2.2.4: Trách nhiệm đối với khách hàng – tính bảo mật
Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình kiểm
toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người
có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật
hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Trong tiến trình kiểm tra, các kiểm toán viên thu được một số lượng lớn
thông tin bảo mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm,
các kế hoặch quảng cáo, số liệu chi phí sản phẩm. Nếu những thông tin này bị
tiết lộ ra ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng biết thì mối quan
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 7
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
hệ giữa kiểm toán viên với Ban quản trị sẽ trở nên căng thẳng nghiêm trọng,
thậm chí còn có thể là nguyên nhân làm hại đến công ty khách hàng.Hơn nữa,

được tiếp cận với các bản tư liệu sẽ cho các nhân viên của công ty khách hàng
một cơ hội để làm thay đổi thông tin trên các tư liệu đó. Vì thế, luôn luôn phải
cẩn trọng để bảo vệ các tư liệu.
Kiểm toán viên chỉ có thể cung cấp tư liệu cho người khác khi được phép
của công ty khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp các tư liệu đó được toà án
triệu đòi hoặc được sử dụng như một bộ phận của chương trình xem xét chất
lượng tự nguyện với các công ty kiểm toán khác thì sẽ không cần có sự cho
phép. Nếu tư liệu bị triệu đòi, công ty khách hàng phải được thông báo ngay.
Công ty khách hàng và luật sư hợp pháp của công ty có thể phản đối trát đòi
này.
2.2.5: Trách nhiệm đối với khách hàng – Thù lao phụ thuộc
Theo nguyên tắc 302- thù lao phụ thuộc, các dịch vụ về nghiệp vụ không
được bán hoặc cung cấp theo một sự thu xếp mà theo đó không có khoản thù lao
nào được tính trừ phi đạt được một phát hiện cụ thể, hoặc ở đó thù lao phụ thuộc
vào những phát hiện hoặc kết quả của những dịch vụ đó.Thí dụ, giả sử có một
công ty kiểm toán hợp đồng với khách hàng là thù lao được tính là 4000 USD,
nếu là một báo cáo chấp nhận hoàn toàn, nhưng chỉ là 2000 USD, nếu là một
báo cáo chấp nhận có loại trừ.
Tuy vậy, thù lao của một hội viên có thể thay đổi.Và thường thì công ty
kiểm toán tính thù lao căn cứ trên số giờ làm việc. Các mức giá theo thời gian
khác nhau được tính cho các trình độ khác nhau của nhân viên. Song trong
những năm gần đây, các công ty kiểm toán đã tăng dần các cuộc đấu thầu hợp
đồng dựa trên một căn cứ tính thù lao cố định mà không cần xem xét đến nhu
cầu về thời gian phải bỏ ra.
Các khoản thù lao không được xem là phụ thuộc nếu chúng được quy định
bởi toà án hay các tổ chức quyền lực khác hoặc, trong các vấn đề về thuế, nếu
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 8
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
được xác định dựa trên các kết quả của các vụ kiện theo luật hoặc những phát
hiện của các cơ quan nhà nước.

Như vậy, việc tính thù lao dựa trên kết quả của dịch vụ cung cấp là để giúp
các kiểm toán viên giữ vững tính khách quan khi điều tra các cuộc kiểm toán
hoặc khi cung cấp các dịch vụ về thuế hoặc tư vấn quản lý.
2.2.6: Trách nhiệm đối với đồng nghiệp
Hiện nay không có nguyên tắc đạo đức nào về trách nhiệm đối với đồng
nghiệp. Tuy nhiên, mối quan hệ tốt đẹp giữa các đồng nghiệp được AICPA thừa
nhận là rất quan trọng. Cách mà những người trong cùng một nghề đối xử với
nhau sẽ ảnh hưởng đến thái độ của xã hội đối với nghề nghiệp đó. Sự hỗ trợ lẫn
nhau nên bao gồm việc cung cấp người trợ lý có nghiệp vụ chuyên môn cao
trong các vấn đề có tính nghiệp vụ cho bạn hành nghề và sự hạn chế hợp lý
trong việc thay thế các công ty kiểm toán hiện hữu ở các khách hàng hiện nay
của họ.
Mỗi thành viên của Công ty là một phần thành tố làm nên năng lực của cả
Công ty. Các kiểm toán viên phải gắn kết với nhau, tạo nên một khối năng lực
thống nhất, không tách rời. Sự gắn kết ấy không chỉ thể hiện ở sự đoàn kết thuần
tuý theo cách hiểu lâu nay mà còn thể hiện ở công việc, ở trình độ nghiệp vụ
chuyên môn, ở công tác quản lý. Có nghĩa rằng, trong nghiệp vụ chuyên môn tất
cả phải có trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần cùng học tập và cùng tiến
bộ. Mỗi kiểm toán viên phải tự học và học hỏi lẫn nhau, đó là động lực, là trách
nhiệm và quyền lợi của chính mình, của công ty.
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 9
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
2.2.7: Trách nhiệm và thông lệ khác – Hành vi làm mất tín nhiệm
Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các nguyên
tắc, các văn bản hướng dẫn, hoặc các quy định ( không có quy định nào về hành
vi làm mất tín nhiệm ). Tuy nhiên, trong nguyên tắc 501 nói rõ hội viên không
được phạm phải một hành vi làm mất tín nhiệm đối với nghề nghiệp.
Có ba văn bản hướng dẫn, nhưng ngoài văn bản đầu tiên, hai văn bản còn lại
cũng rất mơ hồ. Ba văn bản hướng dẫn có thể được tóm lược như sau:
- Giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp ứng là

một hành vi làm mất tín nhiệm. Thí dụ, giả sử Ban quản trị không trả thù lao cho
công ty kiểm toán và các chủ chung vốn của công ty kiểm toán do đó từ chối trả
lại sổ sách của khách hàng. Chủ chung vốn của công ty kiểm toán đã vi phạm
nguyên tắc 501.
- Một công ty kiểm toán không được phân biệt đối xử giữa các chủng tộc,
màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác hoặc quốc tịch.
- Nếu một người hành sự đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan nhà
nước, mà cơ quan này quy định các thể thức kiểm toán khác với GAAS , thì cả
các thể thức của cơ quan nhà nước đó và GAAS đều phải được tuân thủ trừ phi
báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác.
2.3: CÁC NGUY CƠ DẪN ĐẾN VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA KIỂM TOÁN VIÊN
Bao gồm 5 nguy cơ:
2.3.1: Nguy cơ do tư lợi
Nguy cơ này xảy do việc người làm kiểm toán hoặc thành viên trong quan
hệ gia đình ruột thịt hay quan hệ gia đình trực tiếp của người làm kiểm toán có
các lợi ích tài chính hay lợi ích khác.
Ví dụ như: một khoản nợ, khoản bảo lãnh, hoặc quà tặng nhận khách hàng
sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc từ giám đốc hay nhân viên của họ
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 10
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
2.3.2: Nguy cơ tự kiểm tra
Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kiểm toán phải xem xét là các đánh
giá trước đây do mình chịu trách nhiệm
Ví dụ như: một thành viên của nhóm kiểm toán gần đây đã hoặc đang làm
giám đốc hoặc nhân viên có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng sử dụng dịch vụ
đảm bảo.
2.3.3: Nguy cơ về sự bảo chữa
Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kiểm toán ủng hộ một quan điểm
hay ý kiến tới mức độ mà tính khách quan có thể bị ảnh hưởng

Ví dụ: Là người trung gian giao dịch hoặc xúc tiến bán các loại cổ phiếu, các
chứng khoán khác của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo
2.3.4: Nguy cơ từ sự quen thuộc
Nguy cơ này có thể xảy ra khi do các mối quan hệ quen thuộc mà là người
làm kiểm toán trở nên quá đồng tình đối với lợi ích của người khác
Ví dụ: Một thành viên của nhóm kiểm toán có quan hệ gia đình ruột thịt với
giám đốc hoặc thành viên BGĐ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo
2.3.5: Nguy cơ bị đe dọa
Nguy cơ này có thể xảy ra khi người làm kiểm toán có thể bị ngăn cản
không được hành động một cách khách quan do các đe dọa
Ví dụ: Đe dọa sẽ thay thế khi có bất đồng về việc áp dụng một nguyên tắc
kiểm toán
2.3.6: Một vài ví dụ về vi phạm trong kiểm toán
Ví dụ 1: công ty TNHH A&C là công ty chuyên cung cấp dịch cụ kiểm toán
và tư vấn tài chính.ngày 10/01/2008.công ty nhận được lời đề nghi thực hiện
kiểm toán của công ty cổ phần thịnh vượng. Trưởng đoàn kiểm toán là ông An
hiện đang nắm giữ 12% cổ phần của công ty thịnh vượng. Ngày 12/01/2008,
công ty chấp nhận lời đề nghị mà không có một hành động nào liên quan đến số
cổ phần của ông An đang nắm giữ tại công ty thịnh vượng.
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 11
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
- Công ty TNHH Thăng long có ông Bìnhlàm giám đốc đến kì kiểm toán
cần thuê một kiểm toán viên. Hiền là con gái ông Bình biết và giới thiệu người
yêu là điệp đang làm kiểm toán viên tại công ty A&C đến kiểm toán công ty.
Điệp chấp nhận lời đề nghị trên. Sau đó Điệp được hiền và ông Bình nhờ làm
luôn việc lập BCTC và tờ khai thuế năm 2008 cho công ty thăng long.
- Phân tích:
Công ty A&C mà trực tiếp là trưởng đoàn KT – ông An có lợi ích tài chính
tại đơn vị kiểm toán – công ty thịnh vượng.về nguyên tắc trước khi thực hiện
cuộc KT ông An phải chuyển nhượng số cổ phần trên, nhưng lại không có bất kì

một hành động nào. Nên vi phạm ngtắc độc lập về mặt kinh tế.
KTV Điệp có mối quan hệ ruột thịt nhưng Điệp là người yêu của Hiền con
gái của giám đốc đơn vị được KT Nên ảnh hưởng đến tình độc lập về mặt tình
cảm của cuôc KT đối với công ty thăng long.
Ví dụ 2: Enron-Arthu Andersen môt công ty có bề dày lịch sử 89 năm,
85.000 chuyên gia, là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Big 4 ngày nay lại sụp đổ?
Nguyên nhân chủ yếu là vì Andersen đã vi phạm trầm trong các nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp:
Enron là một Cty năng lượng lớn của Mỹ- khách hàng của Andersen 25 tr
USD phí KT và 27 tr USD phí dịch vụ khác- 1 mức phí quá lớn. Bù lại Enron
được Andersen bảo kê về tín nhiệm với các nhà đầu tư khi báo cáo tình hình
kinh doanh có lãi của mình nhưng thực chất là lỗ 500 tr USD từ năm 1997 nên
Andersten đã vi phạm trầm trọng nguyên tắc độc lập về mặt kinh tế, chạy theo
lợi nhuận kếch xù thu được từ phí kiểm toán để công bố một báo cáo kiểm toán
sai lệch về Enron. Vì thế nên Andersen thường để các KTV có kinh nghiệm và
năng lực làm dịch vụ tư vấn còn các KTV trẻ ít kinh nghiệm và năng lực thường
được Andersen giao nhiệm vụ kiểm toán các BCTC của Enron nên chất lượng
của các cuọc kiểm toán Enron bị ảnh hưởng lớn bởi năng lực của kiểm toán
viên. Các sai xót gian lận của Enron hoặc là không thể phát hiện hoặc là bị che
đậy một cách tinh vi các nhà đầu tư, cổ đông của Enron tin vào thương hiệu
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 12
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Arthu Andersen nên ồ ạt mua cổ phiếu của Enron để Enron lãi giả lỗ thật kéo
theo sự sụp đổ của Enron rồi đến Andersen
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 13
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA KIỂM TOÁN
VIÊN
3.1: Trách nhiệm dân sự
Nguyên nhân : chủ yếu là do kiểm toán viên thiếu thận trọng đúng mực hoặc

do không tôn các chuẩn mực nghề nghiệp
Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với khách hàng là người thuê BCTC
thường liên quan đến viêc không hoàn thành hợp đồng kiểm toán và gây thiệt
hại cho khách hàng
Chịu trách nhiệm đối với người sở hữu của công ty
Chịu trách nhiệm với bên thú 3 có liên quan
3.2: Trách nhiệm hình sự
Nguyên nhân : kiểm toán viên có hành vi gian lận
Trách nhiêm của kiểm toán viên sẽ bị truy tố và tòa án hình sự xét xử
3.3: Những giải pháp của kiểm toán viên khi phát hiện ra sai sót – gian lận
Nhu cầu kiểm toán xuất phát từ việc các chủ sở hữu doanh nghiệp (cổ đông)
bởi họ không thể và cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài chính của
doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và báo cáo cho
họ, do vậy họ đã bổ nhiệm các kiểm toán viên – những người có đủ năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách quan - thay thế họ kiểm tra một cách độc
lập và báo cáo lại theo ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các báo
cáo tài chính.
Cùng với sự phát triển và đa dạng của nền kinh tế, các thông tin tài chính
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Tuy
nhiên tất cả những người sử dụng kết quả kiểm toán đều cần sự đảm bảo rằng
những thông tin tài chính mà họ được cung cấp có trung thực và hợp lý hay
không. Như vậy nghĩa vụ trước hết của kiểm toán viên là báo cáo một cách độc
lập theo ý kiến của mình dựa trên kết quả kiểm toán về mức độ trung thực và
hợp lý của các thông tin tài chính. Đồng thời trong một số trường hợp, kết quả
kiểm toán cho thấy doanh nghiệp có hành vi không tuân thủ pháp luật ở mức độ
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 14
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
nào đó mà theo qui định của pháp luật cần báo cáo cho các cơ quan chức năng,
khi đó kiểm toán viên còn có nghĩa vụ báo cáo lại cho các cơ quan chức năng về
hành vi vi phạm đó của doanh nghiệp. Tóm lại, nghĩa vụ của kiểm toán viên là

dựa trên kết quả kiểm toán và báo cáo cho:
Những người sử dụng kết quả kiểm toán theo yêu cầu, mục đích của kiểm
toán.
Các cơ quan chức năng nếu thấy có những hành vi vi phạm pháp luật ở mức
độ nhất định mà pháp luật yêu cầu phải báo cáo.
Việc xác định nghĩa vụ báo cáo của kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng
bởi cuộc kiểm toán được tiến hành dựa trên hợp đồng kiểm toán ký kết giữa đơn
vị được kiểm toán và tổ chức kiểm toán, do vậy về hình thức các kiểm toán viên
phải báo cáo cho đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên những người sử dụng kết
qủa kiểm toán mới là đối tượng chính mà kiểm toán viên có nghĩa vụ phải báo
cáo đó là các chủ sở hữu, các cổ đông, những người cho vay, , hay những đối
tượng khác theo qui định của pháp luật (gọi chung là bên thứ 3). Để thực hiện
trách nhiệm của mình trước những đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán, kiểm
toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán, mà trong đó
phải luôn luôn giữ được tính độc lập, chính trực và khách quan trong quá trình
kiểm toán. Các kiểm toán viên phải có nghĩa vụ phát hiện các sai sót trọng yếu
và thậm chí là các hành vi phạm pháp (nếu có) của các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp. Về nghĩa vụ phải thông báo cho các cơ quan chức năng về những hành
vi phạm pháp của doanh nghiệp. Không phải mọi phát hiện của kiểm toán viên
về hành vi không tuân thủ pháp luật đều phải thông báo cho các cơ quan chức
năng mà chỉ những trường hợp cụ thể theo qui định của pháp luật.
Mặc dù qui định như vậy trong chuẩn mực kiểm toán nhưng trong thực tế ở
việt nam cũng như các nước khác trên thế giới cũng chưa có qui định nào chỉ rõ
rằng những tình huống nào kiểm toán viên cần phải thông báo.
Tuy nhiên trong các chuẩn mực kiểm toán hướng dẫn, khi phát hiện các
hành vi không tuân thủ pháp luật hay gian lận của doanh nghiệp thì tuỳ từng tình
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 15
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
huống mà kiểm toán viên có ứng sử thích hợp, từ việc đánh giá mức độ ảnh
hưởng đến báo cáo tài chính, thông báo cho Ban giám đốc doanh nghiệp, thông

báo cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán và trong trường hợp pháp luật
qui định cần thông báo cho cơ quan chức năng và trong trường hợp này kiểm
toán viên cần tham khảo ý kiến của chuyên gia pháp luật, hoặc kiểm toán viên
có thể và cần thiết từ bỏ cuộc kiểm toán khi thấy rằng mức độ an toàn trong việc
thực hiện hợp đồng kiểm toán này dưới mức cho phép.
Trong thực tế luôn tồn tại khoảng cách giữa kiểm toán viên và những những
người sử dụng kết quả kiểm toán về những mong muốn của những đối tượng
này với phạm vi trách nhiệm của kiểm toán viên. Các mong muốn của này luôn
vượt quá trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên. Trách nhiệm của kiểm
toán viên là đảm bảo rằng trong báo cáo tài chính đó không có các sai sót trọng
yếu, và nếu có các sai sót trọng yếu, kiểm toán viên phải hành động theo hướng
dẫn của các chuẩn mực kiểm toán và pháp luật. Theo nguồn số liệu trong cuốn
Auditing – Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde,
Glasgow cho thấy kết quả khảo sát đối với những người sử dụng kết quả kiểm
toán thì các yêu cầu, mong đợi của các đối tượng này đối với các kiểm toán viên
xoay quanh các vần đề:
 93% những người được hỏi cho rằng kiểm toán viên cung cấp sự đảm bảo
rằng không có bất cứ gian lận nào gây ra bởi các người lãnh đạo của công ty,
 92% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo chắc chắn rằng Ban giám đốc công
ty đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của họ,
 71% Kiểm toán viên phải cảnh báo về bất cứ sự kém hiệu quả nào của
Ban giám đốc công ty,
 81% cho rằng kiểm toán viên mang lại sự đảm bảo rằng Công ty có tình
hình tài chính tốt và
 71% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo rằng mọi hành vi của Ban giám
đốc là phù hợp với lợi ích của các cổ đông.
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 16
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Kiểm toán viên rất khó và không thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu trên.
Khoảng cách này tồn tại một phần do sự thiếu hiểu biết đầy đủ về bản chất, mục

tiêu của kiểm toán của khách hàng và những người sử dụng kết quả kiểm toán.
Về mặt pháp lý, trong chuẩn mực kiểm toán cũng đã nêu, kiểm toán viên không
thể có và không phải chịu trách nhiệm ngăn ngừa những gian lận, tuy nhiên
công tác kiểm toán chỉ có thể được coi là một biện pháp răn đe hữu hiệu.
Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên được luật pháp qui định: “Nếu kiểm
toán viên vị phạm pháp luật (như cố ý làm sai qui định, thông đồng bao che cho
người phạm lỗi, dùng thủ thuật nghiệp vụ để che dấu sai sót, nhận hối lộ, báo
cáo kiểm toán thiếu khách quan trung thực…) thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ có
thể bị thu hồi chứng chỉ kiểm toán viên và bị xử lý theo pháp luật hiện hành; nếu
vì những vi phạm và thiếu sót mà gây thiệt hại vật chất cho khách hàng thì kiểm
toán viên phải bồi thường thiệt hại”. Ở các nước có hoạt động kiểm toán phát
triển thì qui định này chỉ cụ thể rằng, các kiểm toán viên chịu trách nhiệm về
những thiệt hại do sự thiếu trách nhiệm hoặc đã không đủ năng lực khi thực hiện
dịch vụ kiểm toán dẫn đến các thiệt hại cho những đối tượng sử dụng báo cáo
kiểm toán. Trách nhiệm này chỉ có thể xẩy ra khi:
 Có thiệt hại xẩy ra trực tiếp đến đối tượng cụ thể sử dụng báo cáo kiểm
toán đó và đối tượng này yêu cầu kiểm toán viên thực hiện trách nhiệm bồi
thường
 Thiệt hại xẩy ra là hậu quả trực tiếp của việc sử dụng báo cáo kiểm toán
có sai sót trọng yếu.
 Kiểm toán viên chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp với đối tượng bị thiệt hại.
 Khi xẩy ra các thiệt hại cần phải xác định rõ nguyên nhân gây ra. Các
kiểm toán viên không thể bảo đảm cho các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán
khỏi các rủi ro tiềm tàng trong kinh doanh, đầu tư, cho vay Lý do của vấn đề
này do sự khác biệt giữa rủi ro thông tin và rủi ro kinh doanh.
Mặc dù kiểm toán viên không có trách nhiệm ngăn ngừa các sai sót cố ý hay
gian lận hoặc các hành vi không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đồng thời
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 17
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
kiểm toán viên cũng không thể đảm bảo rằng ban giám đốc doanh nghiệp thực

hiện tốt chức năng của mình và phù hợp với lợi ích của các cổ đông, nhưng
trong quá trình kiểm toán, bằng các kỹ thuật nghiệp vụ kiểm toán thông thường,
nếu phát hiện bất cứ sự yếu kém, thiếu hiệu quả trong hệ thống quản lý
Đồng thời với báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến, nhận
xét, đánh giá và các gợi ý hoàn thiện về từng nội dung cần sửa đổi thông qua thư
quản lý. Thư quản lý được gửi cho Ban giám đốc công ty và có thể cần gửi cho
các thành viên công ty – Hội đồng Quản trị.
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 18
Bài tiểu luận kiểm toán GVHD: Lê Thị Hồng Hà
KẾT LUẬN
Trong quá trình làm bài tiểu luận môn kiểm toán với đề tài “ Trách nhiệm
pháp lý và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán” chúng em đã hiểu một phần
nào đạo đức nghề nghiệp mà một kiểm toán cần phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
trong việc làm kiểm toán của mình đối với các bên liên quan. Trong quá trình
làm do còn thiếu nhiều kiến thức hạn chế nhóm chúng em vẫn còn nhiều thiếu
sót han chế. Mong cô và các bạn trong lớp đọc bài và góp ý để bài hoàn thiện
hơn. Chúng em xin xhân thành cảm ơn!.
SV thực hiện: nhóm 02 Lớp CDKT12CTH Trang: 19

×