Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.58 KB, 25 trang )

ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, sự ra đời của
nhiều loại hình kinh doanh mới đa dạng, phong phú, hoạt động kiểm toán với
chức năng xác minh và bày trò ý kiến nhằm tăng cường công tác kiểm tra,
kiểm soát, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng có
vai trò quan trọng. Đồng thời, nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo sự
phức tạp, rắc rối, đan xen của thực trạng tài chính và của các nghiệp vụ kế
toán. Thực tế này đòi hỏi các kiểm toán viên phải có đủ trình độ chuyên môn,
bản lĩnh nghiệp vụ tương ứng để thực hiện được chức năng của mình. Việc
xác minh các thông tin tài chính khó khăn hơn dẫn đến sự gia tăng của rủi ro
kiểm toán.
Trong những năm gần đây, những vụ kiện các Công ty kiểm toán ngày
càng tăng lên cả về quy mô, số lượng, số tiền bào chữa, có vụ kiện mà số tiền
để giải quyết hậu quả lên đến hàng trăm triệu đô la. Điều này đã gây ra thiệt
hại nghiêm trọng đến uy tín của ngành nghề kiểm toán.
Ở Việt Nam, sự phá sản của một số doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp
Nhà nước) trong mấy năm trở lại đây đã đặt ra một vấn đề: Trách nhiệm của
kiểm toán viên (KTV) và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán đã
được phát hành như thế nào? Trong những trường hợp nào KTV và Công ty
kiểm toán phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng và cho bên thứ ba bị tổn
thất do sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, KTV và
Công ty kiểm toán phải làm gì để tự bảo vệ trong trường hợp phải ra hầu
toà?...
Nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của kiểm toán độc lập (KTĐL) là một
vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao uy tín nghề nghiệp kiểm toán, củng
1
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
cố niềm tin cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán, tạo ra sự yên tâm


cho các kiểm toán viên và Công ty kiểm toán trong quá trình thực hiện công
việc kiểm toán, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại, tổn thất không
đáng có do những vụ kiện cáo gây ra.
Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của KTĐL
nên em đã chọn đề tài "Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công
ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán" làm đề án môn học. Với tầm hiểu
biết còn hạn hẹp, nguồn tài liệu chưa được phong phú, đa dạng nên chắc chắn
đề án của em còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo trong khoa kế toán kiểm toán trường ĐHKTQD
để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Hồng Thuý đã
tận tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành đề án này.
Bố cục đề án:
Chương I- Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên
và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
Chương II- Một số kiến nghị trong vấn đề trách nhiệm pháp lý của
kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
2
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA KIỂM
TOÁN VIÊN (KTV) VÀ CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỐI VỚI
BÁO CÁO KIỂM TOÁN (BCKT)
I- Một số thuật ngữ liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm
toán độc lập:
1- Lý thuyết chung:
Trước hết, để có thể nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm pháp lý của
KTV và Công ty kiểm toán đối báo cáo kiểm toán thì cần làm rõ một số khái
niệm, thuật ngữ sau:

* Báo cáo kiểm toán:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700: Báo cáo kiểm toán là loại
báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và Công ty kiểm toán lập và công bố
để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã
được kiểm toán.
* Kiểm toán viên:
Kiểm toán viên là khái niệm chung chỉ những người làm công tác kiểm
toán cụ thể có trình độ nghiệp vụ tương xứng với công việc đó.
* Sự vi phạm hợp đồng: là việc không thực hiện các điều khoản ghi trên
hợp đồng của một hoặc của cả hai bên, ví dụ như kéo dài thời gian kiểm toán,
giao báo cáo kiểm toán chậm, gây khó khăn, thậm chí gây tổn thất cho khách
hàng trong hoạt động kinh doanh, khách hàng không cung cấp đầy đủ chứng
từ, tài liệu kế toán phục vụ cho cuộc kiểm toán theo yêu cầu của kiểm toán
viên.
* Những nguyên tắc đạo đức cơ bản của kiểm toán viên:
Theo những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế do IFAC
(International Federation of Accountants - Liên đoàn kế tóan quốc tế) ban
3
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
hành từ 1 - 1980 đến 9 - 1990 thì nguyên tắc đạo đức cơ bản của KTV bao
gồm:
+ Chính trực: KTV phải là người thẳng thắn, trung thực, thật thà trong
quá trình tiếp cận công việc nghiệp vụ của mình.
+ Khách quan: KTV phải là người công minh, không được phép định
kiến, thiên vị khi lập BCKT các báo cáo tài chính KTV phải giữ thái độ vô tư.
+ Độc lập: Khi hành nghề KTV phải thể hiện mình là người không bị
vật chất chi phối. Bất cứ biểu hiện vụ lợi nào đều không phù hợp với phẩm
cách chính trực, khách quan.
+ Bí mật: KTV phải tôn trọng tính bí mật của những thông tin thu thập

được trong quá trình hành nghề và không tiết lộ bất cứ thông tin nào cho
người thứ ba khi không có sự uỷ thác đặcbiệt hoặc nghĩa vụ pháp lý hay nghĩa
vụ nghề nghiệp yêu cầu phải tiết lộ.
+ Các chuẩn mực nghiệp vụ: KTV phải tiến hành công việc nghiệp vụ
của mình theo những chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công
việc đó.
+ Trình độ nghiệp vụ: KTV có nghĩa vụ phải duy trì trình độ nghiệp vụ
của mình trong suốt quá trình hành nghề, KTV chỉ nhận làm những việc mà
bản thân hoặc hãng của mình có đủ trình độ nghiệp vụ hoàn thành công việc
đó.
+ Đạo đức ứng xử: KTV phải tự điều chỉnh mình cho phù hợp với uy
tín của ngành nghề và tự kiềm chế những đức tính có thể phá hoại uy tín nghề
nghiệp.
* Gian lận và sai sót
+ Giai lận là hành vi cố ý lừa dối, dấu diếm, xuyên tạc sự thật với mục
tiêu tự lợi; Gian lận có thể được thể hiện dưới các dạng: Xử lý chứng từ theo ý
muốn chủ quan, sửa đổi, xuyên tạc làm giả các chứng từ, tài liệu, dấu diếm
4
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
những thông tin tài liệu hoặc nghiệp vụ, ghi chép nghiệp vụ không đúng sự
thật, áp dụng sai các nguyên tắc kế toán một cách cố ý.
+ Sai sót:
Sai sót thường được hiểu là sự nhầm lẫn hoặc bỏ sót không chú ý đến
các đối tượng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính như: lỗi về tính toán số học
hay ghi chép sai, áp dụng sai các nguyên tắc kế toán, bỏ sót hoặc hiểu sai các
khoản mục.
* Quan hệ riêng theo hợp đồng
Là mối quan hệ trực tiếp giữa hai bên hoặc nhiều bên của một hợp
đồng. Đối với một cuộc kiểm toán, khách hàng và bất kỳ bên thứ ba nào được

nêu lên trong hợp đồng kiểm toán (thư hẹn kiểm toán) có mối quan hệ riêng
theo hợp đồng.
2- Thực trạng về trách nhiệm pháp lý của KTV trong thời gian qua:
Một số vụ kiện tiêu biểu liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và
Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán:
Từ khi hoạt động kiểm toán ra đời cho đến nay, đặc biệt từ những năm
30 của thế kỷ 20 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của ngành kiểm toán, trên
phạm vi toàn thế giới hàng năm có rất nhiều cuộc kiểm toán diễn ra. Cùng với
sự phức tạp của các ngành nghề kinh doanh, rủi ro kiểm toán là điều không
tránh khỏi. Đã có rất nhiều vụ kiện cáo của các khách hàng và của bên thứ ba
đối với các Công ty kiểm toán. Có thể nêu ra một số vụ kiện tiêu biểu sau:
a. Các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm của Công ty kiểm toán đối với
bên thứ ba:
* Công ty ULTRAMARES và TOUCHE (1931)
Năm 1931, Công ty Ultrmares không có khả năng trả nợ, các chủ nợ
của Công ty dựa vào báo cáo tài chính đã được chứng nhận rồi sau đó kiện các
kế toán viên, họ cho rằng các kế toán viên đã phạm tội bất cẩn và trình bầy
5
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
gian dối. Các khoản phải thu đã bị bóp méo bằng cách cộng thêm khoảng
650.000 USD vào các khoản phải thu một khoản mục khác trên 700.000USD.
Các chủ nợ cho rằng một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng sẽ tìm thấy 700.000 USD
gian lận này. Các khoản phải trả cũng có những khoản không nhất quán tương
tự.
Sau khi điều tra vấn đề, toà án liên bang Mỹ kết luận rằng các kiểm toán
viên đã có bất cẩn trong quá trình kiểm toán, tuy nhiên kiểm toán viên không
phải chịu trách nhiệm đối với các chủ nợ của Công ty Ultramares vì điều sai
lầm vượt ra ngoài phạm vi của hợp đồng kiểm toán ban đầu. Toà án cho rằng
chỉ có người ký hợp đồng với kiểm toán viên về các dịch vụ kiểm toán mới có

thể kiện nếu các dịch vụ đó được cung cấp một cách bất cẩn.
Vụ kiện này là cơ sở cho sự ra đời của cái gọi là "học thuyết
Ultramares". Theo học thuyết này, những bất cẩn thông thường không đủ ràng
buộc trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên với bên thứ ba vì không có quan
hệ riêng theo hợp đồng giữa bên thứ ba với kiểm toán viên. Ultramares cũng
cho rằng chỉ khi có gian lận hoặc bất cẩn nghiêm trọng thì KTV có thể chịu
trách nhiệm đối với bên hưởng lợi thứ ba.
* Stephens industries kiện Haskin and Sells (1971):
Năm 1971, người mua 2/3 cổ phiếu của Công ty cho thuê ô tô Stephens
industries đã kiện Công ty kiểm toán Haskin and Sells vì bất cẩn khi kiểm
toán các khoản phải thu. Tuy nhiên, theo hợp đồng kiểm toán thì số liệu của
các khoản phải thu trên sổ sách của Công ty phải được giữ nguyên không có
sự điều chỉnh và trong báo cáo kiểm toán, nhận xét của KTV đã nêu cụ thể:
"Theo điều khoản của hợp đồng, chúng tôi không yêu cầu khách hàng phải
xác nhận số dư của họ và cũng không xem xét lại khả năng thu của bất kỳ
khoản phải thu thương mại nào". Việc không có sự điều chỉnh để phản ánh số
6
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
tiền không thu được cũng được ghi rõ ở "các ghi chú trong Bảng cân đối tài
sản".
Áp dụng "học thuyết Ultramares", toà án sơ thẩm cho rằng không có
mối quan hệ riêng theo hợp đồng giữa bên nguyên đơn và KTV nên không tồn
tại trách nhiệm pháp lý vì sự bất cẩn của KTV. Toà án phúc thẩm cũng đưa ra
quyết định tương tự.
Hiện nay học thuyết " Ultramares" đã được mở rộng: đối với những
người không có quan hệ theo hợp đồng với KTV, nhưng KTV thấy trước là sẽ
sử dụng BCTC, thì nếu vì sự bất cẩn mà KTV gây ra thiệt hại cho những
người này, KTV sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên vẫn còn những tranh cãi xung quanh học thuyết

"Ultramares". Nhiều người cho rằng bất kể KTV có thấy trước những người
sử dụng BCTC hay không thì KTV cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý mà do
sự bất cẩn, KTV đã gây ra sự thiệt hại cho bên thứ ba.
b- Trách nhiệm của Công ty kiểm toán đối với khách hàng:
Công ty Cenco Incorporated kiện Seidman and Seidman (1982):
Giữa năm 1970 và 1975, các nhân viên quản trị của Cenco, sau đó cả
ban quản trị cao cấp đã dính líu vào một vụ gian lận lớn là thỏi phồng giá trị
hàng tồn kho của Công ty. Điều này đã giúp cho Công ty vay được tiền với lãi
suất thấp hơn và đạt được tiền bồi thờng bảo hiểm hoả hoạn cao hơn mức
đáng đựoc hưởng. Sau khi sự gian lận bị phát hiện bởi một nhân viên của
Cenco và được báo cáo với SEC (Securities and Exchange Commission) các
cổ đông đã đệ đơn kiện Công ty Cenco, Ban quản trị của Công ty và các kiểm
toán viên của Công ty. Công ty kiểm toán đã dàn xếp cho vụ kiện tụng này
bằng cách chi ra 3,5 triệu USD.
Sau đó, Ban quản lý mới của Công ty nhân danh Công ty Cenco đệ đơn
kiện lần thứ hai Công ty kiểm toán vì vi phạm hợp đồng, bất cẩn nghề nghiệp
7
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
và gian lận. Công ty kiểm toán đã bào chữa là mặc dù Công ty đã nỗ lực cố
gắng để phát hiện ra dấu hiệu của sự gian lận nhưng tập thể phần lớn những
người trong ban quản trị của Công ty Cenco đã ngăn cản họ phát hiện ra gian
lận.
Kỳ họp thứ 7 của toà thượng thẩm đã kết luận là Công ty kiểm toán
không chịu trách nhiệm trong trường hợp này. Việc làm sai trái của Ban quản
trị Công ty Cenco được xem là lời bào chữa thích hợp chống lại lời buộc tội về
vi phạm hợp đồng, bất cẩn và gian lận cho dù ban quản trị đó không còn làm
việc cho Công ty nữa.
c- Trách nhiệm đối với tính bảo mật:
Công ty TNHH Fund of Funds kiện ArthurArderse và Công ty (1982):

Công ty Fund of Funds là một Công ty đầu tư chuyên về mua các quỹ
hỗ trợ. Vào cuối thập niên 1970, Ban quản trị quyết định đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh bằng cách thực hiện các khoản đầu tư lớn vào bất động sản
về khí đốt và dầu hoả. Khoảng 90 triệu USD đã đưa chi cho trên 400 mỏ thiên
nhiên theo một thoả hiệp với Công ty King Resources. Bản thoả hiệp đã ký kết
giữa Fund of Funds và King Resources quy định rằng tất cả bất động sản
được bán trên căn cứ trao tay với giá thoả đáng cho cả 2 bên. Một sự kiện
quan trọng trong trường hợp này là Công ty kiểm toán Arthur Anderse kiểm
toán cho cả hai Công ty Fund of Funds và King Resources với hai hợp đồng
riêng biệt và cả hai cuộc kiểm toán cho hai Công ty đều do cùng một kiểm
toán viên chính tiến hành.
Trong quá trình kiểm toán, Công ty kiểm toán phát hiện giá bán bất
động sản về khí đốt và dầu hoả của Công ty cho Công ty Fund of Funds cao
hơn giá bán cho khách hàng khác của King Resources. Công ty kiểm toán
không báo cáo thông tin này cho ban quản trị Fund of Funds và ban quản trị
Fund of Funds không biết được sự kiện đó trong một thời gian khá lâu. Ban
8
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
quản trị Fund of Funds cho rằng Công ty kiểm toán có bổn phận hoặc thông
báo cho họ về sự vi phạm thoả hiệp hoặc từ chối một trong hai cuộc kiểm
toán. Công ty kiểm toán thì cho rằng Công ty có trách nhiệm bảo mật thông
tin theo các điều khoản về tư cách đạo đức trong bản quy tắc đạo đức nghề
nghiệp.
Toà án liên bang Mỹ đã quyết định Công ty kiểm toán phải bồi thường
thiệt hại cho các cổ đông của Fund of Funds 80 triệu USD, một phán quyết
cao nhất dành cho Công ty kiểm toán cho đến thời điểm lúc đó.
d- Trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình kiểm toán, nếu KTV có những vi phạm nghiêm trọng
thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như trong trường hợp UNITED

STATES kiện SIMON (1969): Vụ kiện này liên quan đến việc ba KTV bị kiện
vì đệ trình các báo cáo giả đến một cơ quan Nhà nước và vi phạm đến luật trao
đổi chứng khoán năm 1934.
Kết thúc vụ kiện ba KTV bị phạt tổng số tiền là 17000 USD và bị mất
giấy chứng nhận KTVĐL theo điều 501 của bản điều lệ đạo đức nghề nghiệp
(hành vi làm mất tín nhiệm) và bị buộc phải ra khỏi nghề. Sau đó, họ được
tổng thống Nixơn ân xá.
Đó là một số vụ kiện tiêu biểu đã xẩy ra trong lịch sử hoạt động của
kiểm toán. Có thể thấy rằng mâu thuẫn, tranh chấp giữa Công ty kiểm toán và
những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính thường xảy ra mỗi khi
người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính bị thiệt hại bất kể lỗi là do ai. Ở
Việt Nam, tuy chưa có vụ kiện nào đối với Công ty kiểm toán nhưng thời gian
gần đây, khi hiện tượng các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước bị
phá sản có chiều hướng tăng lên thì một câu hỏi được đặt ra là các Công ty
kiểm toán có trách nhiệm như thế nào đối với báo cáo kiểm toán đã được phát
hành.?
9
ĐỀ ÁN MÔN HỌC Nguyễn Thanh Tuấn A - Kiểm toán
40B
Vậy do đâu mà các vụ kiện Công ty kiểm toán ngày một nhiều hơn?
II- Những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng các vụ kiện Công ty
kiểm toán:
a- Trên cơ sở nghiên cứu các vụ kiện đã xảy ra, rất nhiều chuyên gia kế
toán và chuyên gia pháp luật cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ
kiện chống lại các Công ty kiểm toán bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết của
những người sử dụng BCTC về sự khác nhau giữa sai lầm kinh doanh với sai
lầm kiểm toán, giữa sai lầm kiểm toán và rủi ro kiểm toán.
Sai lầm kinh doanh xảy ra khi việc kinh doanh không có khả năng trả
các món nợ hoặc khi công việc kinh doanh gặp khó khăn, không đáp ứng được
mục tiêu của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của sai lầm kinh doanh có thể là

chủ quan hoặc khách quan, ví dụ như các nhà quản lý do không đủ trình độ
chuyên môn đã đưa ra những quyết định quản lý tồi, do sự cạnh tranh khốc liệt
và bất ngờ của các đối thủ... Trường hợp xấu nhất của sai lầm kinh doanh là
doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản.
Sai lầm kiểm toán được hiểu là sai lầm của KTV trong việc đưa ra
chương trình kiểm toán không phù hợp hoặc do không tuân thủ các quy định
của chuẩn mực kiểm toán đã được thừa nhận dẫn đến đưa ra một kết luận
kiểm toán sai lầm.
Rủi ro kiểm toán là khái niệm chỉ rõ sự tồn tại (trong dự toán hoặc trên
thực tế) sai sót trọng yếu trong quá trình kiểm toán. Rủi ro kiểm toán bao gồm
rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro tiềm tàng là sự tồn tại sai sót trọng yếu trong bản thân đối tượng
kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào kể
cả kiểm soát nội bộ).
Rủi ro kiểm soát là sự tồn tại sai sót trọng yếu mà hệ thống kiểm soát
nội bộ không phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
10

×