Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

thiết kế thử nghiệm cơ bản cho chu trình kiểm toán bán hàng năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.39 KB, 36 trang )

Tiểu luận kiểm toán
DANH SÁCH NHÓM
Nhóm SV thực hiện
Tiểu luận kiểm toán
MỤC LỤC
Nhóm SV thực hiện
Tiểu luận kiểm toán
LỜI MỞ ĐẦU
Kiểm toán là một loại hoạt động đã có từ rất lâu đời và thuật ngữ này
cũng không còn mới mẻ gì so với nhiều quốc gia phương Tây. Tuy nhiên đối với
Việt Nam, một quốc gia vừa bước qua một cuộc cải cách cơ bản về cơ cấu kinh
tế từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên còn
rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Để có thông tin kinh tế tài chính trung thực,
hợp lý để điều hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả là cần thiết. Về vai trò
cũng như sự cần thiết của kiểm toán đối với công tác tài chính - kế toán của
Doanh nghiệp nhà nước hay ngoài quốc doanh thì đã rất rõ ràng và được khẳng
định của nhiều người có trách nhiệm cao trong Chính phủ. Hiện nay, có một
thực tế nổi bật là nhiều Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả
mặc dù đã cố gắng rất nhiều, chỉ có số ít là làm ăn có lãi, rất nhiều đơn vị rơi
vào tình trạng làm ăn thua lỗ triền miên. Để trợ giúp Doanh nghiệp thì cần phải
xem xét đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp do chính bản thân doanh
nghiệp thực hiện. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại trường em chọn
nghiên cứu đề tài Thiết kế thử nghiệm cơ bản cho chu trình kiểm toán bán
hàng’’. Tuy nhiên, do có hạn chế nhất định về kinh nghiệm cũng như chuyên
môn nên trong chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo.
Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm các vấn đề
chính sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chu trình kiểm toán bán hàng và thu thu tiền
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong
kiểm toán báo cáo tài chính


Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện kiểm toán chu trình bán
hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính
Nhóm SV thực hiện Trang : 3
Tiểu luận kiểm toán
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHU TRÌNH KIỂM TOÁN
BÁN HÀNG VÀ THU THU TIỀN
1.1. KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN
1.1.1. Hệ thống các mục tiêu kiểm toán
Kiểm toán bao gồm có 2 chức năng cơ bản trong đó có chức năng xác
minh và theo thông lệ quốc tế phổ biến thì chức năng xác minh được cụ thể hoá
thành các mục tiêu và tuỳ thuộc vào đối tượng hay các loại hình kiểm toán mà
các mục tiêu có thể khác nhau.
Còn theo văn bản chuẩn mực kiểm toán 1 thì “ Mục tiêu của cuộc kiểm
tra bình thường các báo cáo tài chính của các kiểm toán viên là sự trình bày một
nhận xét về mức trung thực mà các báo cáo phản ánh tình hình tài chính, các kết
quả độc lập và sự lưu chuyển dòng tiền mặt theo các nguyên tắc kế toán đã được
thừa nhận ”. Đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào các mục tiêu đặt ra giúp
kiểm toán viên tập hợp đầy đủ bằng chứng cần thiết. Các mục tiêu đặt ra này có
liên quan chặt chẽ đến việc xác nhận của doanh nghiệp mà cụ thể là ban quản trị
về các tiêu chuẩn của đặc tính thông tin đã trình bày trên báo cáo tài chính.
Thông thường các bước triển khai mục tiêu kiểm toán như sau.
Nhóm SV thực hiện Trang : 4
Tiểu luận kiểm toán
Biểu 1: Các bước triển khai mục tiêu kiểm toán


Qua các bước trên ta thấy việc xác nhận của ban quản trị về các chu trình
nói chung và chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng là rất quan trọng để thiết kế
nên các mục tiêu kiểm toán. Từ việc xác nhận của ban quản trị mà chúng ta đi từ

mục tiêu kiểm toán chung đến các mục tiêu đặc thù của từng chu trình.
Các mục tiêu chung áp dụng cho toàn bộ báo cáo tài chính của một cuộc
kiểm toán tài chính như sau:
1. Xác minh về tính hiệu lực.
2. Xác minh về tính trọn vẹn.
3. Xác minh về việc phân loại và trình bày.
4. Xác minh về nguyên tắc tính giá.
5. Xác minh về quyền và nghĩa vụ.
6. Xác minh về tính chính xác, máy móc.
Nhóm SV thực hiện Trang : 5
Các báo cáo tài chính
Các bộ phận cấu thành của báo
cáo tài chính
Xác nhận của ban quản trị về chu
trình bán hàng thu tiền và các
Các mục tiêu kiểm toán chung
đối với các chu trình kiểm toán.
Các mục tiêu kiểm toán đặc
thù đối với các chu trình kiểm
toán.
Tiểu luận kiểm toán
Từ những mục tiêu chung của kiểm toán bảng khai tài chính đó ta có các
mục tiêu đặc thù cho chu trình bán hàng và thu tiền như sau:
1. Xác nhận về sự hiện hữu ( tính có thật): Doanh thu trên báo cáo kết
quả kinh doanh phản ánh những quá trình về trao đổi hàng hoá và dịch vụ thực
tế đã xảy ra, các khoản phải thu là có thực được lập vào ngày lập bảng cân đối
kế toán.
2. Xác nhận về tính đầy đủ ( tính trọn vẹn): Doanh thu về hàng hoá và
dịch vụ đã bán, các khoản thu bằng tiền và các khoản phải thu đã được ghi sổ và
đưa vào báo cáo tài chính.

3. Xác nhận về quyền sở hữu: Hàng hoá và các khoản phải thu của doanh
nghiệp tại ngày lập bảng cân đối tài sản đều thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp.
4. Xác nhận về sự đánh giá và phân loại: Doanh thu và các khoản phải
thu được phân loại đúng bản chất kinh tế và được đánh giá theo các chuẩn mực
kế toán và các quy định về tài chính.
5. Xác nhận về sự trình bày: Doanh thu và các khoản phải thu được trình
bày trung thực và đúng đắn trên tài khoản cũng như trên các báo cáo tài chính
theo đúng chế độ kế toán của doanh nghiệp và theo các quy định kế toán hiện
hành.
6. Xác nhận về sự tính toán chính xác: Các khoản giảm giá, chiết khấu,
hàng bán bị trả lại, các phép tính cộng dồn, nhân, chia được tính toán đúng đắn
và chính xác.
7. Xác nhận về tính đúng kỳ: Cụ thể doanh thu và các khoản phải thu
phải được ghi chép đúng kỳ, không được ghi giảm doanh thu kỳ này, ghi tăng
doanh thu kỳ sau và ngược lại.
Tóm lại : Đối với mỗi một chu trình kiểm toán có các mục tiêu đặc thù
riêng và chu trình Bán hàng - Thu tiền cũng có các mục tiêu riêng biệt. Tuy
nhiên với mỗi một cuộc kiểm toán cụ thể thì mục tiêu riêng của chu trình Bán
hàng Thu tiền là khác nhau. Vì vậy căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà kiểm
toán viên xác định các mục tiêu kiểm toán cụ thể.
Nhóm SV thực hiện Trang : 6
Tiểu luận kiểm toán
1.1.2. Các chứng từ, sổ sách sử dụng trong quá trình kiểm toán
1.1.2.1. Các chứng từ được sử dụng trong quá trình kiểm toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh của năm trước và năm nay
- Các đơn đặt hàng của khách (Đây là cơ sở pháp lý cho việc ràng buộc
trách nhiệm cho các bên tham gia hợp đồng)
- Hợp đồng đã ký kết về bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ
- Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.

- Các bản quyết toán, thanh lý hợp đồng bán hàng.
- Các chứng từ phiếu thu tiền mặt hoặc séc, giấy báo nợ, các bản sao kê
của ngân hàng.
- Các hợp đồng khế ước, tín dụng.
- Các chứng từ, các hợp đồng vận chuyển thành phẩm hay hàng hoá
1.1.2.2. Các sổ sách sử dụng trong quá trình kiểm toán
Nếu doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ nhật ký chung trong kỳ để hạch
toán kế toán thì hệ thống sổ bao gồm:
1. Sổ Nhật ký chung.
2. Sổ Nhật ký thu tiền.
3. Sổ cái.
4. Sổ chi tiết các khách hàng phải thu.
5. Sổ chi tiết doanh thu bán hàng.
6. Sổ chi tiết thuế VAT đầu ra.
Nhóm SV thực hiện Trang : 7
Tiểu luận kiểm toán
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN
HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
2.1. Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán
Bảng khai tài chính
Sau khi kiểm toán viên đã xác nhận các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho
chu trình bán hàng và thu tiền thì công việc tiếp theo là tập hợp bằng chứng
kiểm toán. Để đảm bảo cho công việc diễn ra theo đúng tiến độ, khoa học và
hiệu quả thì việc tập hợp và thu thập bằng chứng, đánh giá phải diễn ra theo một
quy trình.
Chu trình Bán hàng và thu tiền là một bộ phận cấu thành của Báo cáo tài
chính, vì vậy để cho toàn bộ cuộc kiểm toán diễn ra một cách thống nhất thì khi
kiểm toán chu trình này phải tuân theo quy trình kiểm toán của một cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính. Mỗi một cuộc kiểm toán nào cũng phải tuân theo các

bước cơ bản sau:
Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán.
Bước 2: Thực hiện kiểm toán.
Bước 3: Kết thúc kiểm toán.
Do Kiểm toán nội bộ có những đặc thù nhất định nên quy trình kiểm toán
báo cáo tài chính không phải chỉ là ba bước như Kiểm toán độc lập thực hiện mà
là 4 bước. Cụ thể kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán do Kiểm toán nội
bộ thực hiện gồm 4 bước sau :
Bước 1 : Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán.
Bước 2 : Thực hiện kiểm toán.
Bước 3 : Kết thúc kiểm toán.
Bước 4 : Theo dõi sau kiểm toán.
2.2. Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Nhóm SV thực hiện Trang : 8
Tiểu luận kiểm toán
Chất lượng của kiểm toán nội bộ phụ thuộc và kế hoạch kiểm toán. Chất
lượng này có thể đánh giá một cách dễ dàng tuỳ theo tính chất khách quan của
các kết luận, những giá trị mang lại cho ban lãnh đạo doanh nghiệp và bộ phận
được kiểm toán hay là quá mức độ đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Đây là bước đầu tiên trong quá trình kiểm toán, nó chiếm một vị trí quan
trọng trong toàn bộ cuộc kiểm toán do mục đích của giai đoạn này là tạo ra cơ sở
pháp lý, trí tuệ, vật chất cho công tác kiểm toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ lập
kế hoạch kiểm toán sao cho đảm bảo được rằng tất cả các lĩnh vực của đơn vị
đều được xem xét thường xuyên và tiến hành làm kiểm toán đột xuất trong
trường hợp cần thiết một. Một trong những chuẩn mực kiểm toán đươc IPAC
phê duyệt và ban hành vào tháng 10/ 1980 đòi hỏi kiểm toán viên phải lập kế
hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán được tiến hành có hiệu
quả, đúng thời gian.
Giai đoạn này bao gồm các bước chủ yếu sau:
2.2.1. Xác định mục tiêu và phạm vi kiểm toán

Mục tiêu và phạm vi kiểm toán cần được xác định cụ thể cho từng cuộc
kiểm toán. Mục tiêu kiểm toán là cái đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết
quả kiểm toán cho mỗi cuộc kiểm toán cụ thể. Mục tiêu chung phải gắn chặt với
mục tiêu riêng, yêu cầu của quản lý. Do vậy mục tiêu của kiểm toán phải tuỳ
thuộc vào quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào loại hình
kiểm toán.
Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối
tượng kiểm toán thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là
một hướng cụ thể xác định mục tiêu này. Với một khách thể kiểm toán cần xác
định rõ đối tượng cụ thể của kiểm toán: Bảng cân đối tài sản hay toàn bộ các bản
khai tài chính
Còn đối với kiểm toán nội bộ thì sẽ dễ dàng hơn thuộc sự điều hành của
Công ty.
2.2.2. Chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các điều
kiện vật chất cơ bản
Nhóm SV thực hiện Trang : 9
Tiểu luận kiểm toán
Tuỳ thuộc vào mục tiêu và phạm vi kiểm toán, cần chỉ định trước người
chủ trì kiểm toán sẽ tiến hành lần này. Công việc này có thể thực hiện đồng thời
với việc xây dựng mục tiêu cụ thể song cần được thực hiện trước khi thu thập
thông tin. ở đây, vì hệ thống kiểm toán nội bộ nắm được tình hình chung của
toàn thể đơn vị nên họ có thể ước lượng về công việc sẽ tiến hành trong năm,
chính vì thế bộ phận kiểm toán nội bộ thường lập kế hoạch cả năm và trình lên
ban lãnh đạo hoặc Hội đồng Quản trị phê duyệt. Sau khi phê duyệt sẽ chỉ định
người phụ trách kiểm toán.
Người được chỉ định phụ trách công việc kiểm toán phải có trình độ tương
xứng với vị trí, yêu cầu, nội dung và tinh thần của cuộc kiểm toán nói chung.
Bên cạnh đó cần chuẩn bị các thiết bị và điều kiện vật chất khác như phương
tiện tính toán, kiểm tra thích ứng với đặc điểm tổ chức kế toán
2.2.3. Thu thập thông tin

Thu thập thông tin chỉ hướng tới việc đưa ra các bước quyết định về
kiểm toán (kể cả kế hoạch kiểm toán), chưa đặt ra các mục đích thu thập bằng
chứng cho kết luận kiểm toán. Do vậy, nhiệm vụ thu thập thông tin đặt ra ở bước
này là mục tiêu và phạm vi kiểm toán song nói chung là cần quan tâm tới chiều
rộng hơn là chiều sâu.
Trong thu thập thông tin, trước hết cần tận dụng tối đa các tài liệu đã có
song khi cần thiết vẫn phải có các biện pháp điều tra bổ sung. Các nguồn tài liệu
đã có thường bao gồm :
- Các nghị quyết có liên quan đến hoạt động của các đơn vị được kiểm
toán.
- Các văn bản có liên quan đến đơn vị được kiểm toán.
- Các kế hoạch, dự toán, dự báo có liên quan.
- Các báo cáo kiểm toán lần trước, các biên bản kiểm kê hoặc biên bản xử
lý các vụ việc đã xảy ra trong kỳ kiểm toán.
- Các tài liệu khác có liên quan
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán KTV cần phải thực hiện các bước
công việc sau:
Nhóm SV thực hiện Trang : 10
Tiểu luận kiểm toán
* Tiếp xúc với cơ sở để nắm bắt được tình hình khái quát
Trong bước này các kiểm toán viên nội bộ cần phải xuống cơ sở, gặp
gỡ các cán bộ lãnh đạo đơn vị sắp được kiểm toán để tìm hiểu đặc điểm
của đơn vị đó như :
- Đơn vị đó có cơ cấu tổ chức ra sao.
- Bộ phận hay đơn vị đó chịu tác động ảnh hưởng bởi sự phát triển của
tổng thể doanh nghiệp như thế nào hay chính là tìm hiểu thông tin về lý do tồn
tại và quá trình hoạt động.
- Điều kiện hoạt động của đơn vị có thuận lợi và khó khăn gì.
- Vị trí của đơn vị đó trong tổng thể các mối quan hệ với doanh nghiệp
cũng như môi trường xung quanh.

- Tìm hiểu về những thay đổi hiện tại và trong tương lai của đơn vị về
những mặt kỹ thuật, tài chính, kế toán chức năng nhiệm vụ trong sản xuất kinh
doanh
Tiếp đó các KTV tiếp tục thực hiện công tác thu thập thông tin về những
loại tài liệu phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Nhất là những Báo
cáo tài chính nếu như đối tượng của cuộc kiểm toán là các Báo cáo tài chính,
những tài liệu thu thập là:
. Báo cáo quản trị nội bộ. Chính từ những báo cáo này mà KTV có thể tìm
ra được những vấn đề quan trọng nhất đã bàn luận trước trong cuộc họp về tài
chính, quản lý mà các vấn đề đó có khả năng ảnh hưởng đến sự trình bày trung
thực của Báo cáo tài chính.
. Kế hoạch sản xuất kinh doanh.
. Báo cáo kiểm toán kỳ trước trong trường hợp kỳ trước đơn vị này đã
được kiểm toán.
. Các loại sổ sách kế toán xem đơn vị áp dụng hình thức sổ sách kế toán gì
và có đủ các sổ của loại hình đó không.
. Ngoài ra còn có các quy trình riêng do đơn vị ban hành như là các quy
tắc và thể thức hoạt động của đơn vị qua đó đưa ra nhận xét ban đầu về sự
chặt chẽ của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nhóm SV thực hiện Trang : 11
Tiểu luận kiểm toán
Như vậy qua bước thu thập thông tin khái quát các KTV đã có sự nhìn
nhận bước đầu về sự tồn tại, hoạt động cũng như những số liệu cơ bản về kết
quả sản xuất kinh doanh.
2.2.4. Đánh giá rủi ro và xác định mức trọng yếu
Trọng yếu xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán là khái niệm chỉ tầm
cỡ và tính hệ trọng của các sai phạm. Các sai phạm ở đây là các gian lận và sai
sót. Mức độ trọng yếu có ảnh hưởng rất lớn đối với việc thành lập kế hoạch,
thiết kế phương pháp kiểm toán và đặc biệt là khi phát hành báo cáo kiểm toán.
Trách nhiệm của kiểm toán viên xác định xem báo cáo tài chính có sai phạm

trọng yếu không. Trong trường hợp phát hiện ra các sai phạm trọng yếu kiểm
toán viên sẽ yêu cầu khách hàng điều chỉnh lại, nếu khách hàng từ chối thì kiểm
toán viên sẽ phát hành báo cáo kiểm toán có loại trừ tuỳ theo mức độ trọng yếu
của sai phạm. Để xác định mức trọng yếu KTV phải thực hiện các bước sau:
Ước tính ban đầu về tính trọng yếu. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
là mức sai sót tối đa cho phép, nghĩa là mức mà KTV tin tưởng là không làm
cho báo cáo tài chính bị sai lầm nghiệm trọng, gây ảnh hưởng đến nhận định của
người sử dụng.
Việc ước tính ban đầu về tính trọng yếu là căn cứ để KTV xây dựng kế
hoạch, thu thập các bằng chứng kiểm toán . Mức trọng yếu càng thấp thì yêu cầu
về độ chính xác càng cao nên số lượng bằng chứng thu thập phải càng nhiều từ
đó chi phí kiểm toán lớn.
Phân phối ước tính ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục. Khi có
được ước tính ban đầu về tính trọng yếu KTV thực hiện phân phối ước tính đó
cho các khoản mục hoặc các bộ phận của báo cáo tài chính. Chu trình bán hàng
và thu tiền gồm các khoản mục doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu, các
khoản phải thu, tài khoản tiền và các khoản phải thu khó đòi. Các khoản mục
này sẽ lần lượt được phân phối ước tính ban đầu về tính trọng yếu. Việc phân
phối sẽ được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có thể xảy ra là
khai tăng và khai giảm và căn cứ vào bản chất, các rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
Nhóm SV thực hiện Trang : 12
Tiểu luận kiểm toán
soát đối với các khoản mục. Đặc biệt việc phân phối này phụ thuộc phần lớn vào
kinh nghiệm của KTV nên nó mang tính chất chủ quan.
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, khả năng KTV có nhận xét
không xác đáng về báo cáo tài chính là điều luôn có thể xảy ra, từ đó người ta
đưa ra khái niệm về rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán (AR) được hiểu là những
rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không thích hợp về
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ, KTV có thể đưa ra một ý kiến
nhận xét hoàn hảo về báo cáo tài chính của doanh nghiệp mà không biết rằng

báo cáo này có những sai lầm nghiệm trọng. Vấn đề đặt ra là phải tìm cách giới
hạn khả năng có rủi ro kiểm toán ở mức độ thấp nhất có thể chấp nhận được
bằng cách lập kế hoạch kiểm toán và điều hành cuộc kiểm toán một cách phù
hợp. Mức rủi ro thường nằm trong khoảng 0% - 100%. Rủi ro bằng 100% là
điều chắc chắn không, còn rủi ro bằng 0% là điều không thực tế vì khi đó phí
kiểm toán sẽ lớn đến mức bất hợp lý.
Mức độ rủi ro cao hay thấp sẽ quyết định khối lượng công việc KTV tiến
hành. Vì vậy, cần phải phân loại rủi ro, xem xét mối quan hệ tác động giữa các
loại rủi ro đến khối lượng công việc kiểm toán cần tiến hành cũng như đến các
trình độ và thủ pháp kiểm toán thích hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán .
Trong kiểm toán bao gồm các loại rủi ro sau:
- Rủi ro tiềm tàng (IR): là sự tồn tại sai sót trọng yếu trong bản thân đối
tượng kiểm toán (không kể đến sự tác động của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào
kể cả kiểm soát nội bộ). Rủi ro tiềm tàng tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh
của đơn vị.
- Rủi ro kiểm soát (CR): là sự tồn tại sai sót trọng yếu mà hệ thống kiểm
soát nội bộ không thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Rủi ro kiểm soát đại diện
cho sự đánh giá về cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả đối với
ngăn ngừa hoặc phát hiện sai sót hay không và mục đích của KTV là đánh giá ở
một mức thấp hơn mức tối đa (100%) như một phần của kế hoạch kiểm toán .
- Rủi ro phát hiện (DR): là sự tồn tại sai sót trọng yếu mà KTV kiểm
toán báo cáo tài chính không phát hiện ra. Rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp
Nhóm SV thực hiện Trang : 13
Tiểu luận kiểm toán
đến phạm vi kiểm toán và các phương pháp kiểm toán mà KTV sử dụng trong
quá trình kiểm toán . Nói chung các phương pháp kiểm toán , các bước tiến hành
kiểm toán càng chặt chẽ, phạm vi kiểm toán càng rộng, công việc kiểm toán
được tuân thủ theo các chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán thì mức rủi ro phát
hiện càng thấp.
2.2.5. Tìm hiểu cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán và đánh

giá rủi ro kiểm soát
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 400 quy định : “Kiểm toán viên cần
phải có sự hiểu biết phù hợp về hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ để lập kế
hoạch kiểm toán và đề ra một biện pháp kiểm toán có hiệu quả. KTV cần phán
đoán về mặt nghề nghiệp để đánh giá các rủi ro kiểm toán và đề ra các quy trình
kiểm toán nhằm hạn chế rủi ro một cách có thể chấp nhận được ”. Do đó, KTV
tìm hiểu cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm toán thông qua việc tìm hiểu
các vấn đề sau.
- Môi trường kiểm soát
- Hệ thống kế toán
- Các thủ tục kiểm soát
- Hệ thống kiểm soát nội bộ
Sau khi KTV có được sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ thì tiến
hành đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm soát đối với từng số dư tài khoản quan trọng
hoặc đối với từng loại giao dịch ở mức độ chấp nhận. Thông thường việc đánh
giá rủi ro kiểm soát gồm các bước:
2.2.6. Nhận diện mục tiêu kiểm soát:
Dựa trên những thông tin thu được về hệ thống kiểm soát nội bộ KTV
đánh giá khả năng ngăn ngừa các sai phạm. Chẳng hạn xem xét hoá đơn bán
hàng có đánh số trước hay không, việc đánh số trước hoá đơn bán hàng để đề
phòng ghi sổ nghiệp vụ thiếu, mất mát cũng như ghi sổ hai lần. Doanh nghiệp có
thường xuyên đôn đốc công nợ hay không, các khoản bán chịu có được phê
duyệt không?
2.3. Xác định các sai phạm, rủi ro có thể xảy ra đối với báo cáo tài chính
Nhóm SV thực hiện Trang : 14
Tiểu luận kiểm toán
* Rủi ro đối với các khoản phải thu là trường hợp các khoản phải thu
thường bị khai tăng lên để che đậy sự thụt két bởi số tiền thu được từ bị bán
hàng bị nhân viên thu tiền lấy đi. Ngoài ra khoản phải thu có thể bị khai tăng
bằng cách tạo ra khoản dự phòng không thích hợp cho các khoản phải thu khó

đòi. Khoản phải thu nội bộ không được phân loại đúng đắn bằng cách ghi lẫn
vào các khoản phải thu khách hàng vào khoản phải thu khác.
* Rủi ro đối với doanh thu thường là: phân loại doanh thu không đúng đắn
giữa doanh thu bán hàng ra bên ngoài với doanh thu bán hàng nội bộ. Chuyển
doanh thu từ nhóm hàng có thuế suất cao sang nhóm hàng có thuế suất thấp
nhằm mục đích trốn thuế. hoặc cũng có thể doanh thu bị để ngoài sổ sách, không
hạch toán doanh thu bán hàng trong trường hợp hàng đổi hàng hoặc dùng hàng
hoá, sản phẩm trả lương, trả thưởng cho công nhân viên, chi cho các quỹ doanh
nghiệp hay khi bán hàng hoá có thu bằng ngoại tệ thì hạch toán thấp hơn tỷ giá
thực tế.
2.3.1.Đánh giá rủi ro kiểm soát
Từ những nhận xét về các loại sai phạm có thể xảy ra và khả năng ngăn
chặn các sai phạm đó cấu hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV tiến hành đánh giá rủi
ro kiểm soát. Tuy nhiên, việc đánh giá rủi ro kiểm soát chỉ là ước tính. Sự ước
tính được thực hiện cho từng mục tiêu kiểm soát nội bộ của từng loại nghiệp vụ
và được thể hiện bằng cách diễn đạt chủ quan như rủi ro kiểm soát cao, trung
bình, thấp khi nào KTV cho rằng kiểm soát nội bộ là yếu kém thì họ sẽ đánh giá
rủi ro kiểm soát nội bộ là yếu kém thì họ sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát cao và
ngược lại.
2.3.2.Thiết lập chương trình kiểm toán
Để đạt được sự kết hợp hài hoà giữa chi phí và thời gian kiểm toán với
việc đáp ứng yêu cầu của Ban lãnh đạo doanh nghiệp hay bộ phận được kiểm
toán, các kiểm toán viên cần phải thiết lập được chương trình kiểm toán chu
trình bán hàng và thu tiền thích hợp.
Nhóm SV thực hiện Trang : 15
Tiểu luận kiểm toán
Chương trình kiểm toán là việc hoạch định chi tiết về những công việc
cần thực hiện và thời gian hoàn thành với trọng tâm là các thủ tục kiểm toán
được thực hiện đối với từng khoản mục.
Trình tự lập chương trình kiểm toán bao gồm các bước cụ thể như sau:

- Mục đích kiểm toán từng phần.
- Phạm vi và mức độ kiểm tra cần thiết.
- Xác định các bước đi chi tiết.
- Thu thập bằng chứng đánh giá phân tích và đưa ra nhận xét.
- Xác định thời gian kiểm toán, dự tính ngày hoàn thành và hình thức các
báo cáo sẽ lập.
- Bố trí lực lượng kiểm toán và sự phối hợp với các trợ lý khác.
2.3.3. Thực hiện kiểm toán
Đây là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế
hoạch, quy trình kiểm toán. Do vậy, trong bước công việc này, tính nghệ thuật
trong tổ chức bao trùm suốt quá trình. Mặc dù vậy tính khoa học trong tổ chức
vẫn đòi hỏi thực hiện kiểm toán phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản sau:
Một: Kiểm toán phải tuyệt đối tuân thủ quy trình kiểm toán đã được xây
dựng. Trong mọi trường hợp, kiểm toán viên không được tự ý thay đổi quy
trình.
Hai:Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thường xuyên ghi
chép những phát giác, những nhận định về các nghiệp vụ, các con số, các sự
kiện nhằm tích luỹ bằng chứng, nhận định cho những kết luận kiểm toán và
loại trừ những ấn tượng, nhận xét ban đầu không chính xác về nghiệp vụ, các sự
kiện thuộc đối tượng kiểm toán.
Ba: Định kỳ tổng hợp kết quả kiểm toán để nhận rõ mức độ thực hiện so
với khối lượng công việc chung thường là trên các bảng kê chênh lệch và bảng
kê xác minh.
Bốn: Mọi điều chỉnh về nội dung, phạm vi, trình tự kiểm toán đều phải có
ý kiến thống nhất của người phụ trách chung công việc kiểm toán viên, người ký
Nhóm SV thực hiện Trang : 16
Tiểu luận kiểm toán
thư mời và hợp đồng kiểm toán. Mức độ pháp lý của những điều chỉnh này phải
tương ứng với tính pháp lý trong lệnh kiểm toán hoặc hợp đồng kiểm toán.
Trong giai đoạn này để thu thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có

hiệu lực thì kiểm toán viên phải sử dụng kết hợp hàng loạt các kỹ thuật như
quan sát, phỏng vấn, đối chiếu, xác nhận, tính toán, phân tích
Chu trình bán hàng và thu tiền bao gồm các khoản mục trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Vì vậy, khi thực hiện kiểm toán kiểm toán viên sẽ vận dụng
một trong hai phương pháp sau:
- Phương pháp kiểm tra kiểm soát (hay phương pháp tuân thủ, phương
pháp tiếp cận dựa trên hệ thống) để áp dung được phương pháp này phải có điều
kiện là hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả.
- Phương pháp kiểm toán cơ bản được sử dụng để thu thập các bằng
chứng về mức độ trung thực và hợp lý của số liệu kế toán.
Thứ nhất: Thực hiện thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản đối với
nghiệp vụ bán hàng.
- Xem xét việc phân cách các nhiệm vụ trong khi thực hiện nghiệp vụ bán
hàng. Việc thực hiện nghiệp vụ bán hàng phải do các bộ phận đảm nhiệm từng
chức năng một.
- Việc xem xét đơn đặt hàng, chuẩn y các đơn đặt hàng, lập hoá đơn do
phòng tiêu thụ (phòng kinh doanh, phòng thị trường) lập.
- Việc phê chuẩn bán chịu, xét duyệt các khoản nợ không thu hồi được,
quyết định mức dự phòng nợ khó đòi do giám đốc hoặc người có thẩm quyền
của đơn vị phê chuẩn.
- Việc ghi sổ, tính toán các chiết khấu, giảm giá dự phòng do kế toán
ghi sổ đảm nhận.
- Việc thu tiền do thủ quỹ tiến hành.
- Việc xuất kho, bảo quản kho hàng do thủ kho thực hiện.
Thủ tục cần tiến hành trong trường hợp này là phỏng vấn nhân viên, quan
sát viên thực hiện hay kiểm tra các chữ ký của chứng từ, sổ sách tương ứng với
các bộ phận, xem rằng liệu đơn vị có tôn trọng nguyên tắc trách nhiệm không.
Nhóm SV thực hiện Trang : 17
Tiểu luận kiểm toán
- Sổ sách và chứng từ đầy đủ: Sổ sách chứng từ của chu trình này là sổ

nhật ký chung, nhật ký bán hàng, hoá đơn bán hàng ( hoá đơn kiêm phiếu xuất
kho), chứng từ vận chuyển, hợp đồng đã ký kết về cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Các loại chứng từ này có thể tập hợp thành từng bộ tương ứng với từng nghiệp
vụ bán hàng. Việc tập hợp này giúp cho kiểm toán viên biết được chứng từ nào
thiếu hoặc đầy đủ, từ đó có thể phán đoán có gian lận hoặc sai sót xảy ra hay
không.
Thủ tục cần tiến hành là xem từng bộ chứng từ, ví dụ như xem một chuỗi
lệnh vận chuyển, kiểm tra xem có kèm theo lệnh bán hàng hoặc hoá đơn kiêm
phiếu xuất kho hay không.
- Các loại chứng từ được đánh số trước: Sử dụng chứng từ được đánh số
trước nhằm ngăn ngừa gian lận, biển thủ tiền thu được do bán hàng hoặc sai sót
do ghi sổ trùng lặp.
Thủ tục kiểm toán là thực hiện kiểm tra tính liên tục, số thứ tự của hoá
đơn bán hàng, số hạng, số quyển các loại nhật ký bán hàng
- Nghiệp vụ bán hàng được phê chuẩn
Hiện nay hầu hết các loại nghiệp vụ bán hàng trong Công ty, doanh
nghiệp đều thực hiện bán hàng trả chậm để khuyến khích khách mua hàng. Tuy
vậy luôn có rủi ro đi kèm do việc bán chịu gắn liền với việc thanh toán của
khách hàng. Trong trường hợp nào đó, nếu gặp khách hàng cố tình dây dưa trả
nợ, hoặc do một nguyên nhân nào đó như bị phá sản chẳng hạn đều dẫn đến
khả năng doanh nghiệp gặp khó khăn do không thu hồi được nợ, từ đó có thể
gặp khó khăn trong việc thanh toán kèm theo tình hình tài chính có nhiều biến
động phức tạp, ảnh hưởng lớn đến công việc kinh doanh lâu dài. Cho nên khi
thực hiện bán chịu đòi hỏi phải có sự phê chuẩn, ký duyệt của người có thẩm
quyền như giám đốc hoặc kế toán trưởng.
Thủ tục kiểm toán ở đây là áp dụng thử nghiệm tuân thủ, thực hiện việc
kiểm tra các chữ ký trên các hoá đơn bán hàng, hoặc chính sách bán hàng của
doanh nghiệp .
Nhóm SV thực hiện Trang : 18
Tiểu luận kiểm toán

Thứ hai: thực hiện thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản với tài
khoản doanh thu.
Việc thực hiện hai loại thử nghiệm này cùng theo các mục tiêu kiểm toán
được nhìn nhận.
- Doanh thu bán hàng được ghi sổ là có thật:
Khi thực hiện kiểm toán viên thông thường chọn mẫu một số nghiệp vụ
bán hàng, đối chiếu giữa việc ghi sổ, hoá đơn bán hàng và các chứng từ khác
kèm theo như chứng từ vận chuyển, phiếu xuất kho hàng hoá, có thể tiến hành
tính toán lại số tiền trên hoá đơn xem có đúng không. Mục đích của việc kiểm
tra chi tiết từng loại nghiệp vụ để xem xét liệu có thể có gian lận, khai khống,
hoặc hàng chưa xuất kho, chưa chuyển giao cho khách mà đã ghi doanh thu.
- Doanh thu bán hàng được ghi sổ đầy đủ.
Khi có sự gian lận, cố tình biển thủ tài sản hoặc ghi giảm doanh thu để
trốn thuế thì doanh thu thường bị khai thiếu.
Khi kiểm toán mục tiêu này, thường kiểm toán viên thực hiện các công
việc sau
Trước hết, kiểm toán viên tiến hành phân tích doanh thu năm nay và năm
trước xem có biến động gì lớn. Thường thì việc phân tích này kết hợp chặt chẽ
với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giả sử như
doanh nghiệp đang mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh bởi sản phẩm sản xuất
ra trên thị trường được ưa chuộng, tình hình tiêu thụ là khả quan, trong khi đó
doanh thu của công ty lại giảm sút so với năm trước. Chính từ đặc điểm này
khiến cho kiểm toán viên phải chú ý đến khả năng doanh thu bị khai thiếu. Mặt
khác khi phân tích, để có một cái nhìn tổng quát thì phải xem xét cơ cấu của
doanh thu bao gồm những loại nào và tỷ lệ của chúng trong tổng doanh thu. Một
trong những nguyên nhân để tăng hay giảm doanh thu cũng là bắt nguồn từ sự
thay đổi doanh thu.
Sau khi tiến hành thủ tục phân tích (trắc nghiệm phân tích) kiểm toán viên
tiếp tục tìm hiểu về các thủ tục kiểm soát áp dụng cho việc quản lý doanh thu tại
đơn vị như thế nào.

Nhóm SV thực hiện Trang : 19
Tiểu luận kiểm toán
Khi doanh thu có biến động lớn (giảm mạnh so với năm trước) kết hợp
với việc tìm hiểu các thủ tục kiểm soát và các hoạt động quản lý cho thấy có sự
buông lỏng, thì kiểm toán viên sẽ tiến hành ngay việc kiểm tra chi tiết (trắc
nghiệm trực tiếp các số dư) với số lượng đại diện các phần tử cho mẫu. Nếu các
thủ tục kiểm soát đã được thiết kế vận hành liên tục và có hiệu quả thì lúc đó lý
do nghi ngờ doanh thu bị khai thiếu là do sai sót nhiều hơn là gian lận và kiểm
toán viên có thể giảm số lượng mẫu chọn đi so với trường hợp trên.
Khi doanh thu có biến động không lớn, có thể xấp xỉ so với năm trước
nhưng sản phẩm của doanh nghiệp có thể đang được ưa chuộng trên thị trường,
sản lượng sản xuất tăng hơn so với năm trước thì khả năng doanh thu bị khai
thiếu là nhiều hơn và kiểm toán viên lại tiếp tục như trên.
Khi doanh thu có biến động không lớn, kết hợp với việc kiểm tra đánh
giá các thủ tục kiểm soát thấy có hoạt động có hiệu quả, vì vậy kiểm toán viên
chỉ cần kiểm tra chi tiết ở mức độ phù hợp.
Để tiến hành các công việc đã nêu như ở trên, kiểm toán viên sẽ kiểm tra
việc phê chuẩn nghiệp vụ bán hàng ( do đặc điểm của thủ tục kiểm soát này gắn
chặt chẽ với việc ghi thiếu hay ghi đầy đủ doanh thu), thể hiện qua chữ ký của
người có thẩm quyền tại đơn vị trên các loại hoá đơn, chứng từ. Bên cạnh đó
kiểm toán viên cũng phải chú ý đến thủ tục quản lý chứng từ tại đơn vị và thông
thường việc ghi thiếu doanh thu thường gắn liền với việc lập chứng từ khống,
hoặc hoá đơn bán hàng bị mất mát. ngoài ra kiểm toán viên có thể tổng hợp các
hợp đồng quan trọng, tính tổng cộng lại để phát hiện sự chênh lệch.
- Doanh thu được ghi chép đúng kỳ.
Đây là mục tiêu kiểm toán đặc thù áp dụng cho tài khoản doanh thu bởi
doanh thu của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng được tính toán trong một quá
trình lâu dài. Nếu doanh thu bị khai thiếu thì thường có một số nghiệp vụ bán
hàng được chuyển sang kỳ sau. Trong trường hợp ngược lại doanh thu bị khai
tăng thì có một số hoá đơn bán hàng sẽ được ghi nhận trước. Như vậy mục tiêu

này gắn liền với mục tiêu kiểm toán tính đầy đủ hoặc có thật của doanh thu.
Mục tiêu này bị vi phạm có thể do chủ ý của doanh nghiệp muốn khai tăng
Nhóm SV thực hiện Trang : 20
Tiểu luận kiểm toán
doanh thu để khuếch trương danh thế, hoặc để ghi nhận thành tích và hưởng các
mức ưu đãi, hoặc ghi giảm doanh thu để trốn thuế. Cũng có thể kế toán viên sai
sót, không thể quản lý hết được sự biến động của doanh thu do nghiệp vụ bán
hàng xảy ra thường xuyên với tần xuất lớn.
Đối với mục tiêu này, kiểm toán viên cũng thực hiện việc phân tích như ở
trên. Khi tìm hiểu các thủ tục kiểm soát kiểm toán viên phải đặc biệt lưu ý đến
tần xuất xảy ra các nghiệp vụ bán hàng, việc luân chuyển chứng từ bán hàng từ
các bộ phận đến phòng kế toán, cùng trình độ của kế toán viên tương ứng.
Khi tiến hành kiểm tra chi tiết thông thường sẽ chọn một số hoá đơn
chứng từ lập trước và sau ngày kết thúc niên độ kế toán, kiểm tra việc ghi sổ với
từng hoá đơn và phát hiện xem có hoá đơn nào được chuyển sang ghi kỳ sau
hoặc có một số chứng từ của năm sau được ghi nhận sang năm trước hay không.
- Doanh thu bán hàng được phân loại và trình bày đúng đắn .
Việc phân loại và trình bày các loại doanh thu thường gắn chặt chẽ với cơ
cấu doanh thu. Để thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên sẽ thực hiện việc
so sánh cơ cấu của các loại doanh thu như doanh thu tiêu thụ nội bộ, doanh thu
các loại hàng hoá dịch vụ, doanh thu từ bên thứ ba của năm kiểm toán và năm
trước đó, nếu thấy có sự biến động lớn thì có thể tiến hành so sánh phân tích về
tình hình sản xuất (thể hiện ở số lượng nhập kho hàng hoá thành phẩm) và tình
hình tiêu thụ (thể hiện ở số lượng hàng hoá, thành phẩm xuất kho). Do việc phân
loại và trình bày có liên quan tới việc tính toán thuế doanh thu, ứng với mỗi loại
hàng hoá, dịch vụ khác nhau sẽ được áp dụng các mức thuế khác nhau, kiểm
toán viên có thể tiến hành tính toán lại các loại thuế, đối chiếu lại với mức thuế
đã ghi nhận, nếu phát hiện thấy sự chênh lệch đáng kể thì phải tiến hành kiểm
tra tổng doanh thu với số tổng hợp chi tiết từng loại hàng bán và các hình thức
tiêu thụ trong kỳ để phát hiện sai sót khi kế toán viên không phân loại và trình

bày đúng đắn doanh thu.
- Doanh thu bán hàng được đánh giá đúng đắn.
Nhóm SV thực hiện Trang : 21
Tiểu luận kiểm toán
Để kiểm toán mục tiêu này, kiểm toán viên cũng thực hiện các bước phân
tích và tìm hiểu về thủ tục kiểm soát như trên. Còn việc tiến hành kiểm tra chi
tiết sẽ được thực hiện như sau:
Với số hoá đơn mẫu được chọn, kiểm toán viên tiến hành thính toán lạI
số liệu trên hoá đơn bán hàng (số tiền = số lượng hàng bán * đơn giá), đối chiếu
xem giá bán trên hoá đơn có phải được quy định trên bảng yết giá của doanh
nghiệp hay không đồng thời đối chiếu số liệu trên hoá đơn bán hàng (đã được
tính lại) với các bút toán tương ứng trên sổ nhật ký bán hàng, ngoài ra còn đối
chiếu số liệu trên hoá đơn bán hàng và số liệu trên chứng từ vận chuyển với các
đơn dặt hàng của khách hàng và với hợp đồng đã ký trước. Thông thường mục
tiêu ghi nhận doanh thu được đánh giá và tính toán đúng đắn kết hợp với việc
ghi nhận các loại chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại vì những nghiệp vụ
này gắn liền với việc ghi giảm doanh thu.
Các nghiệp vụ này phát sinh có liên quan đến việc giảm giá trị tài sản của
doanh nghiệp nên trước khi nghiệp vụ xảy ra phải có sự phê chuẩn của người có
thẩm quyền trong doanh nghiệp và kiểm toán viên phải đặc biệt chú ý đến đặc
điểm thời gian được hưởng chiết khấu, giảm giá với khách hàng mua nhiều hoặc
hàng hoá có chất lượng kém, mà sau khi kiểm tra công ty thấy đúng với thực tế,
đặc biệt là với hàng đã bán bị trả lại, mỗi nghiệp vụ đều phải có sự phê chuẩn
của trưởng phòng kinh doanh hoặc của người có thẩm quyền về lý do trả lại
hàng.
Kiểm toán viên thực hiện kiểm tra chi tiết bằng cách chọn một số nghiệp
vụ phát sinh trong kỳ, so sánh với mức chiết khấu, giảm giá trên hoá đơn với
mức tính cho khách hàng thực tế trên sổ nhật ký bán hàng, các khoản phải thu.
Với hàng bán bị trả lại kiểm tra sự phê chuẩn bằng cách đối chiếu số lượng trên
hoá đơn, hàng trả lại với phiếu nhập kho (nếu nhập kho) hoặc trên sổ hàng gửi

bán, đối chiếu số tiền bán hàng trả lại với bên có của tài khoản phải thu nếu hàng
bán chưa thanh toán.
Thứ ba: Thực hiện thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản đối với tài
khoản phải thu khách hàng.
Nhóm SV thực hiện Trang : 22
Tiểu luận kiểm toán
Khi nhìn nhận chu trình bán hàng và thu tiền trong mối liên hệ giữa các
bộ phận cấu thành cho thấy khoản phải thu khách hàng có quan hệ chặt chẽ
không chỉ với khoản tiền đã thu được mà còn phản ánh tới các khoản doanh thu
đã ghi nhận và các khoản khác như chiết khấu hàng bán, hàng bán bị trả lại và
đặc biệt là liên quan đến khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi và việc xử lý các
khoản này. Với một hệ thống kiểm soát hoạt động mạnh thông thường các
khoản phải thu được quản lý hết sức chặt chẽ thể hiện thông qua các biểu hiện
sau.
- Các khoản bán chịu phải được phê duyệt trước khi giao hàng hoá cho
khách. Việc phê duyệt phải được thực hiện bởi người có thẩm quyền như Giám
đốc và kế toán trưởng. Chính vì thế khi thực hiện thử nghiệm tuân thủ, kiểm
toán viên có thể phỏng vấn nhân viên của doanh nghiệp và tiến hành xem xét
các loại hoá đơn chứng từ bán chịu hàng hoá liệu đã có đầy đủ chữ ký của người
có thẩm quyền hay không, hoặc quan sát một nghiệp vụ cụ thể phát sinh.
Việc thực hiện bán chịu hay bán hàng thu tiền ngay phải được tiến hành
theo một trình tự hợp lý, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất của các bộ phận.
Chú ý đến việc luân chuyển chứng từ bán hàng giữa các bộ phận, liệu các chứng
từ được lập tại phòng kinh doanh có được chuyển đến cho phòng kế toán đúng
lúc để ghi sổ hay không. Thông thường tính đúng lúc của quy trình luân chuyển
chứng từ gắn liền với việc ghi chép đúng kỳ của các loại doanh thu và các khoản
phải thu. Để thực hiện thử nghiệm kiểm soát đối với vấn đề này, kiểm toán viên
tiến hành quan sát một số nghiệp vụ cụ thể về việc bán hàng cho khách hàng để
thấy được việc lập và luân chuyển chứng từ như thế nào, kết hợp với các tài liệu
do khách hàng cung cấp về chính sách bán hàng, sơ đồ mô tả việc bán hàng.

Một trong những phương pháp thường được áp dụng là lập bảng so sánh
các tỷ suất của năm nay và năm trước các tỷ suất được sử dụng bao gồm:
Các thủ tục phân tích tài khoản phải thu của khách hàng
Thủ tục phân tích Sai sót có thể Xảy ra
So sánh doanh thu bán chịu năm nay
với năm trước
Tăng hay giảm các khoản
phải thu
Nhóm SV thực hiện Trang : 23
Tiểu luận kiểm toán
So sánh số dư của khách hàng có số
dư nợ vượt quá một giới hạn nào đó
so với năm trước
Sai sót ở tài khoản phải
thu
So sánh giữa số dư của tài khoản phải
thu với doanh thu bán chịu của năm
nay so với năm trước
Tăng hay giảm khoản thu
được từ khách hàng
Ngoài việc so sánh chung, kiểm toán viên cần duyệt lại các bảng kê nợ
phải thu để chọn ra một số khách hàng có mức dư nợ vượt qua một số nào đó,
hoặc có số dư kéo dài trong nhiều năm để nghiên cứu thêm.
Từ việc tìm hiểu các thủ tục kiểm soát nội bộ và thực hiện các thủ tục
phân tích kiểm toán viên sẽ tiến hành khoanh vùng sai sót, tập trung vào việc
thiết kế các kiểm tra chi tiết theo các mục tiêu kiểm toán đặc thù.
- Các khoản phải thu được tính toán đúng đắn
Số liệu chi tiết tài khoản phải thu phải nhất quán với các sổ phụ có liên
quan, số tổng hợp lại tương ứng với số liệu trên sổ tổng hợp. Có thể chọn một số
mẫu bao gồm các số dư cá biệt, đối chiếu với sổ chi tiết các khoản phải thu để

kiểm tra đúng đắn về tên khách hàng, số dư và tài khoản nợ.
- Các khoản phải thu là có thật
Kiểm toán viên yêu cầu khách hàng cung cấp bảng kê khách nợ, chọn
mẫu và tiến hành gửi thư xác nhận. Việc chọn khách hàng nợ để gửi thư xác
nhận phụ thuộc vào:
- Tính trọng yếu của các khoản phải thu, nếu các khoản phải thu thực sự là
trọng yếu theo đánh giá của kiểm toán viên thì cần phải có dung lượng mẫu lớn
hơn.
- Số lượng các khoản phải thu.
- Kết quả hiểu biết về cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng và việc
thực hiện các thủ tục phân tích.
- Kết quả xác nhận của năm trước.
Nhóm SV thực hiện Trang : 24
Tiểu luận kiểm toán
Sau khi tiến hành chọn khách hàng để xác minh các khoản phải thu,
kiểm toán viên có thể yêu cầu công ty khách hàng gửi thư xác nhận dưới sự
kiểm soát của kiểm toán viên hoặc do kiểm toán viên tự tiến hành. Hình thức thư
xác nhận thông thường bao gồm hai loại là: Thư xác nhận loại tích cực (yêu cầu
khách hàng trong trường hợp nào cũng gửi thư lại cho dù có sự thống nhất hay
không về số liệu cần xác minh) và loại không tích cực (chỉ gửi thư trả lời trong
trường hợp có sự chênh lệch về số liệu). Tuy nhiên trên thực tế thông thường
kiểm toán viên hay sử dụng loại thứ nhất bởi cách này tuy có tốn kém và mất
thời gian nhưng thể hiện rõ sự hợp tác hay bất hợp tác của khách hàng nợ.
Thư xác nhận thường được gửi cận hoặc sau ngày lập báo cáo tài chính để
tránh các rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp khách nợ không đáp ứng yêu
cầu xác nhận (không nhận được thư trả lời sau hai hoặc ba lần gửi thư xác nhận)
kiểm toán viên phải tiếp tục kiểm tra với các khoản thu tiền mặt sau đó đối chiếu
số liệu trên sổ cái với hoá đơn bán hàng.
- Các khoản phải thu được ghi sổ đầy đủ
Với mục tiêu này, khi thực hiện việc tìm hiểu các thủ tục kiểm soát kết

hợp với các thủ tục phân tích đã trình bày khi thực hiện việc kiểm toán tài khoản
doanh thu và tài khoản tiền mặt đã góp phần khẳng định mục tiêu này vì vậy,
chúng ta có thể lướt qua mà không cần phải xem xét kỹ lưỡng.
- Các khoản phải thu được ghi đúng kỳ
Việc xem xét mục tiêu này cũng gắn liền với tính đúng kỳ của khoản
doanh thu. Vì vậy, việc thực hiện mục tiêu này đã được đề cập kết hợp với việc
kiểm toán các khoản doanh thu như đã trình bày ở trên.
Thứ tư: Thực hiện thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản đối với
khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi và việc xử lý các khoản phải thu không thu
hồi được.
Khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi là những khoản giảm tài sản của
doanh nghiệp (cụ thể là giảm khoản phải thu) mà theo ước tính của doanh
nghiệp trong tương lai sẽ không thể thu hồi được.
Nhóm SV thực hiện Trang : 25

×