Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÖC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN CỦA THẢM THỰC VẬT SAU NƢƠNG RẪY
TẠI XÃ KÝ PHÖ - HUYỆN ĐẠI TỪ- TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Thái Nguyên - Năm 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÖC VÀ TÁI SINH
TỰ NHIÊN CỦA THẢM THỰC VẬT SAU NƢƠNG RẪY
TẠI XÃ KÝ PHÖ - HUYỆN ĐẠI TỪ - TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MA THỊ NGỌC MAI
Thái Nguyên - Năm 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực. Nếu sai tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Thuỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới cô giáo- người
hướng dẫn khoa học: TS. Ma Thị Ngọc Mai đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin cả m ơn Ban chủ nhiệm khoa , các thầy cô khoa Sinh – KTNN và phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạ o điề u kiệ n thuận lợi giúp đỡ
tôi trong thời gian học tập và nghiên cứ u tạ i trườ ng.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái
Nguyên, Hạt kiểm lâm huyện Đại Từ, Trạm khí tượng thuỷ văn tỉnh Thái Nguyên,
UBND xã Ký Phú huyện Đại Từ, Trường THPT Ngô Quyền đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi tiến hành điều tra, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới nhữ ng ngườ i thân trong gia đì nh ,
bạn b và đng nghiệp đã động viên , giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học và thực hiện
luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Thuỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình viii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu 3
1.1.1. Khái niệm về thảm thực vật 3
1.1.2. Thảm thực vật thứ sinh 3
1.1.3. Khái niệm về rừng 4
1.1.4. Tái sinh rừng 4
1.2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu trên thế giới 5
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 5
1.2.1.1. Cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng 5
1.2.1.2. Hình thái cấu trúc rừng 6
1.2.1.3. Định lượng về cấu trúc rừng 7
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 8
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam 10
1.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 11
1.3.1.1. Nghiên cứu về phân loại rừng 11
1.3.1.2. Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng 14
1.3.1.3. Nghiên cứu về phân chia tầng thứ trong rừng mưa nhiệt đới 14
1.3.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 16
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ- XÃ HỘI VÙNG
NGHIÊN CỨU 21
2.1. Điều kiện tự nhiên của vùng nghiên cứu 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.1. Vị trí địa lý 21
2.1.2. Địa hình 21
2.1.3. Khí hậu thuỷ văn 21
2.1.4. Điều kiện đất đai 23
2.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội của vùng nghiên cứu 23
2.3. Rừng và đất lâm nghiệp 25
Chƣơng 3: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 27
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 27
3.2. Đối tượng nghiên cứu 27
3.3. Nội dung nghiên cứu 28
3.4. Phương pháp nghiên cứu 28
3.4.1. Phương pháp luận 28
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 28
3.4.2.1.Thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế- xã hội 28
3.4.2.2. Phương pháp phân chia giai đoạn phục hồi 29
3.4.2.3. Thu thập các số liệu tại khu vực nghiên cứu 29
3.4.2.4. Điều tra sơ bộ theo tuyến 29
3.4.2.5. Điều tra chi tiết theo ô tiêu chuẩn 30
3.4.2.6. Phương pháp phân tích mẫu vật 33
3.4.2.7. Phương pháp xử lý số liệu 33
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
4.1. Hiện trạng thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 34
4.2. Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến quá trình tái sinh phục hồi rừng sau
nương rẫy 39
4.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa hình 39
4.2.2. Ảnh hưởng của độ dốc 42
4.2.3. Ảnh hưởng của sự thoái hóa đất 43
4.3. Thay đổi số lượng loài theo nhóm dạng sống 46
4.4. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao 48
4.5. Phân bố cây theo cấp đường kính ngang ngực 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4.6. Phân bố cây tái sinh theo mặt phẳng nằm ngang 55
4.7. Chất lượng cây tái sinh 57
4.8. Đa dạng về thành phần dạng sống 59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 62
1. Kết luận 62
2. Kiến nghị 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
PHỤ LỤC 70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
1. D
1.3
: Đường kính ngang ngực ( cm)
2. H
vn
: Chiều cao vút ngọn (m)
3. N : Mật độ ( cây/ha)
4. KVNC: Khu vực nghiên cứu
5. ODB : Ô dạng bản
6. OTC : Ô tiêu chuẩn
7. OĐV : Ô định vị
8. FAO : Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc
( Food and Agriculture Organization)
9. IUCN: Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế
( International union conservation of nature)
10. UNDP: Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
( Union national development programme)
11. WWF: Quỹ bảo vệ động vật hoang dã thế giới
( Word widlife fund)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1.
Ký hiệu độ nhiều của thực bì theo tiêu chuẩn Drude 33
Bảng 4.1.
Ảnh hưởng của vị trí địa hình đến tái sinh thảm cây gỗ 40
Bảng 4.2.
Ảnh hưởng của độ dốc đến tái sinh thảm cây gỗ 42
Bảng 4.3.
Ảnh hưởng của sự thoái hóa đất đến cây gỗ tái sinh trong một số quần xã
thực vật tại KVNC 45
Bảng 4.4.
Thay đổi số lượng loài theo nhóm dạng sống 47
Bảng 4.5.
Mật độ cây gỗ tái sinh theo cấp chiều cao 49
Bảng 4.6.
Phân bố cây theo cấp đường kính ngang ngực 53
Bảng 4.7.
Phân bố cây gỗ tái sinh theo mặt phẳng nằm ngang 56
Bảng 4.8.
Đánh giá chất lượng của cây tái sinh ở các giai đoạn phục hồi rừng 58
Bảng 4.9.
Kết quả phân tích phổ dạng sống ở KVNC 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1.
Bản đồ hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp huyện Đại Từ- tỉnh
Thái Nguyên 26
Hình 3.1.
Sơ đồ bố trí các ODB trong OTC 30
Hình 4.1.
Thay đổi số lượng loài theo nhóm dạng sống 47
Hình 4.2.
Mật độ cây gỗ tái sinh theo cấp chiều cao 50
Hình 4.3.
Phân bố cây tái sinh theo cấp đường kính 54
Hình 4.4.
Nguồn gốc cây tái sinh 58
Hình 4.5.
Chất lượng cây tái sinh 58
Hình 4. 6.
Phân bố phổ dạng sống hệ thực vật tại khu vực nghiên cứu 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
Thảm thực vật rừng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của
các sinh vật trên trái đất nói chung và con người nói riêng. Thảm thực vật rừng
có khả năng điều hoà khí hậu, chống xói mòn và cải tạo đất, bảo vệ nguồn nước
mặt và nước ngầm, làm giảm ô nhiễm môi trường, làm giảm sức tàn phá của
thiên tai…đồng thời cung cấp nhiều lâm sản quý và là nơi lưu trữ nguồn gen
quý báu phục vụ cho các hoạt động sống của con người. Vì thế con người và
các sinh vật khác không thể tồn tại nếu thiếu rừng.
Nhưng thực tế hiện nay thảm thực vật rừng vẫn đang trên đà suy giảm về
số lượng và chất lượng. Theo số liệu công bố của tổ chức IUCN, UNDP và
WWF (1993) 18, trung bình mỗi năm trên thế giới mất đi khoảng 20 triệu ha
rừng. Trong đó diện tích rừng bị mất đi do đốt rừng làm nương rẫy chiếm 50%,
do cháy rừng 23%, do khai thác từ 5 -7 %, còn lại là do các nguyên nhân khác.
Ở Việt Nam, năm 1954 nước ta có 14,3 triệu ha rừng với độ che phủ là
43%; năm 1975 còn 11,169 triệu ha rừng với độ che phủ là 33,8%; năm 1985
còn 9,892 triệu ha rừng; năm 1995 chỉ còn 9,302 triệu ha rừng với độ che phủ
28,2%. Nguyên nhân chủ yếu làm giảm độ che phủ của thảm thực vật rừng ở
Việt Nam là do đốt rừng làm nương rẫy. Nhưng từ năm 1992 trở lại đây, nhờ
vào các chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước như: giao đất giao rừng
cho từng hộ dân, chương trình 327, chương trình PAM…nên diện tích rừng của
nước ta đang tăng lên. Theo thống kê của Cục kiểm lâm Việt Nam 52, năm
2005, diện tích rừng tăng lên 12,64 triệu ha rừng với độ che phủ 36,3%. Năm
2007, nước ta có 12,837 triệu ha rừng với độ che phủ 38,2%. Năm 2009, nước
ta có 13,259 triệu ha rừng với độ che phủ 39,1%. Năm 2011, nước ta có 13,515
triệu ha rừng với độ che phủ 39,7%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tuy diện tích rừng ở nước ta có tăng lên nhưng chủ yếu là rừng trồng,
rừng non với độ đa dạng thấp. Còn rừng giàu, rừng nguyên sinh với độ đa dạng
loài cao vẫn tiếp tục bị suy giảm và hiện nay chỉ còn chưa đến 10%.
Để thực hiện mục tiêu nâng độ che phủ của thảm thực vật rừng ở Việt
Nam lên 42- 43% vào năm 2015 và lên 44 - 45% vào năm 2020 thì một trong
những biện pháp kỹ thuật vô cùng quan trọng là bảo vệ và phục hồi lại rừng
dựa trên cơ sở lợi dụng triệt để khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng.
Tỉnh Thái Nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói
riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc Bộ nói chung. Diện tích đất có
rừng của tỉnh là 155.063 ha chiếm 43,9% diện tích tự nhiên, trong đó diện tích
rừng tự nhiên là 93.002 ha, diện tích rừng trồng khoảng 62.061 ha và đất chưa
có rừng là 20.213 ha (chiếm 11,23% tổng diện tích đất lâm nghiệp). Rừng tập
trung chủ yếu ở các huyện Đại Từ, Võ Nhai, Định Hoá…với nhiều lâm sản quý
như: Nghiến, Đinh, Lát hoa, Sến, Táu…Nhưng hiện nay số lượng và chất lượng
rừng tự nhiên vẫn đang bị suy giảm nghiêm trọng do tập quán đốt rừng làm
nương rẫy của đồng bào dân tộc, sự khai thác gỗ bừa bãi của lâm tặc và sự quản
lý chưa đồng bộ của chính quyền.
Ký Phú là một xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Đây là một xã
thuộc vùng núi Tam Đảo thuộc phía nam của huyện. Hiện nay chưa có công
trình nào nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng sau nương rẫy
tại xã Ký Phú. Mà việc tìm hiểu đặc điểm quá trình tái sinh tự nhiên của thảm
thực vật sau nương rẫy là cơ sở cung cấp những kiến thức thực tế cũng như cơ
sở khoa học cho việc bảo vệ và phục hồi lại rừng tại huyện Đại Từ nói riêng, tại
tỉnh Thái Nguyên nói chung và cũng như các khu vực khác.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau
nương rẫy tại xã Ký Phú - Huyện Đại Từ - Tỉnh Thái Nguyên”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng và vận dụng một số
khái niệm có liên quan sau:
1.1.5. Khái niệm về thảm thực vật
Thảm thực vật (vegetation) là một khái niệm được nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước đề cập đến. Theo J. Schmithusen (1959) 33, thì thảm thực
vật là lớp thực bì của Trái đất và các bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Theo
Thái Văn Trừng (1978) 46 cho rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ
trên mặt đất như một tấm thảm xanh. Còn Trần Đình Lý (1998) 25 cho rằng
thảm thực vật là toàn bộ lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp
phủ thực vật trên toàn bộ bề mặt trái đất.
Như vậy, dù hiểu theo khái niệm nào đi nữa thì thảm thực vật cũng là một
khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ thể. Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ
thể khi có định ngữ kèm theo như: Thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật rừng
ngập mặn, thảm thực vật thứ sinh…
1.1.6. Thảm thực vật thứ sinh
Thảm thực vật thứ sinh là các trạng thái thảm thực vật xuất hiện sau khi
thảm thực vật nguyên sinh bị mất đi do các nguyên nhân chủ quan hoặc khách
quan như: Do sự biến động của vỏ Trái đất, do con người khai thác, do chiến
tranh, do đốt rừng làm nương rẫy…Thảm thực vật thứ sinh được hình thành
theo thời gian và thường bao gồm các trạng thái sau: Thảm cỏ, thảm cây bụi,
rừng tái sinh tự nhiên ở các giai đoạn khác nhau (rừng non, rừng trưởng thành,
rừng già). Cấu trúc của thảm thực vật thứ sinh và thảm thực vật nguyên sinh rất
khác nhau ở thành phần thực vật, cấu trúc tầng tán, khả năng phát triển, sinh
khối, hoàn cảnh rừng và các yếu tố khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.1.7. Khái niệm về rừng
Năm 1964, VN. Sukhatrép đề xướng học thuyết sinh địa quần lạc. Theo
ông “Rừng là một quần lạc sinh địa. Quần lạc sinh địa là tổ hợp các yếu tố
thiên nhiên đng nhất trên vùng đất xác định (khí hậu, đá mẹ, đất, các điều
kiện thuỷ văn, thực vật, động vật, vi sinh vật). Các yếu tố tự nhiên có vai trò
thiết lập ra các mối quan hệ, cùng với các nhóm sinh vật chúng hình thành nên
kiểu trao đổi chất và năng lượng đặc trưng giữa chúng với nhau và với các yếu
tố tự nhiên, nó là một thể thống nhất đang biến động và phát triển” (Dẫn theo
Hoàng Chung, 2005) 5.
Theo Trần Đình Lý (1995) 24, sự có mặt của các loài cây gỗ có chiều
cao từ 3m trở lên và độ tàn che (k) của chúng là thông số cho thấy trạng thái
của rừng gỗ. Nếu k < 0,3 là đất chưa có rừng. Nếu k = 0,3 – 0,6 là rừng thưa.
Nếu k > 0,6 là rừng kín. Đối với rừng vầu, nứa theo tiêu chuẩn tại điểm c mục 2
điều 7 quy phạm QPN 21-98 3 độ che phủ đạt trên 80%, nhưng điểm bổ sung
là độ che phủ tính cho cả vầu, nứa và cây gỗ hỗn giao.
1.1.8. Tái sinh rừng
Tái sinh rừng được nhiều nhà lâm học nghiên cứu và đề xuất các khái
niệm khác nhau. Xét về phương diện lý luận, khái niệm tái sinh rừng gồm cả
hai thuật ngữ: “Restoration” thuật ngữ dùng để diễn đạt sự hoàn trả, sự lặp lại
của toàn bộ quần xã sinh vật giống như nó đã xuất hiện trong tự nhiên (Jordan,
Peter và Allan, 1988) và thuật ngữ “Rehabitilation” chỉ sự phục hồi lại và đã
được hiểu là những xúc tiến, quản lý, điều chế rừng đã bị suy thoái
(Schereckenbeg, Hadley và Dyer, 1990).
Ở Việt Nam, tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của cả
hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại
thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ (Phùng Ngọc Lan, 1986) 19.
Trong luận văn, tái sinh rừng được hiểu là quá trình phục hồi các thành
phần của hệ sinh thái rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu trên thế giới
Trong những năm gần đây, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về cấu trúc và tái sinh rừng nhằm đưa ra cơ sở khoa học cho việc kinh
doanh rừng một cách hiệu quả. Có thể điểm qua một số công trình có liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài như sau:
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trong hệ sinh thái rừng, trong đó các sinh vật rừng luôn có mối quan hệ qua lại
với nhau và với môi trường thông qua các mối quan hệ sinh thái giúp rừng có
cấu trúc ổn định trong một thời gian nhất định.
1.2.1.1. Cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái học,
hệ sinh thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho hiệu
quả sản xuất cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng người ta chia thành ba dạng
cấu trúc là: Cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian. Cấu
trúc của lớp thảm thực vật là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản
phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn giữa thực vật với thực vật và giữa thực
vật với hoàn cảnh sống. Theo quan điểm sinh thái học thì cấu trúc rừng chính là
hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng. Thực tế
cấu trúc rừng có tính trật tự và theo quy luật của quần xã.
Các nghiên cứu về cấu trúc rừng mưa nhiệt đới đã được Richards P.W
(1933- 1934), Baur G. N (1962), Odum E. P (1971)…tiến hành. Các nghiên
cứu này nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng
sống và tầng phiến của rừng.
Theo Baur G. N (1962) 2 đã nghiên cứu các vấn đề cơ sở sinh thái nói
chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong đó
đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp
dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó tác giả đã đưa ra những tổng kết hết sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh nhằm đem lại hiệu quả cao
trong trồng rừng.
Trong công trình nghiên cứu của Catinot R. (1965) 4 đã biểu diễn cấu
trúc sinh thái rừng bằng các phẫu đồ ngang và đứng với các nhân tố cấu trúc
sinh thái được mô tả phân loại theo các khái niệm: dạng sống, tầng phiến…
Nổi bật nhất có nghiên cứu của Odum E. P (1971) [57] về sinh thái rừng
mưa nhiệt đới. Tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa rừng và các yếu tố hoàn cảnh
của rừng. Hệ sinh thái rừng mưa rất phức tạp, ngoài việc tuân theo quy luật vận
động chung nhất, bản thân từng nhân tố lại vận động theo quy luật riêng. Tác
giả cho thấy, muốn ổn định hệ sinh thái rừng nhất thiết phải nắm vững các quy
luật vận động đó, biết cách điều tiết hài hoà mối quan hệ trong sự phức tạp đó.
1.2.1.2. Hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành
phần sinh vật rừng theo chiều ngang và theo chiều thẳng đứng. Phương pháp vẽ
biểu đồ trắc diện của rừng do Davit và Richards P.W (1933- 1934) đề xuất
trong khi phân loại và mô tả rừng nhiệt đới phức tạp về thành phần loài và cấu
trúc thảm thực vật theo chiều nằm ngang và theo chiều thẳng đứng đến nay vẫn
là phương pháp có hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng. Tuy nhiên
phương pháp này có nhược điểm là chỉ minh họa được cách sắp xếp theo
hướng thẳng đứng của các loài cây gỗ trong một diện tích có hạn. Cusen (1951)
đã khắc phục bằng cách vẽ một số dải kề nhau và đưa lại một hình tượng về
không gian ba chiều của rừng.
Richards P.W (1952) [32] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa
nhiệt đới thành hai loại là: Rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và
rừng mưa đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây. Theo tác giả thì rừng mưa
thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ cây bụi và cây thân cỏ). Trong
rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và tầng cây cỏ còn có nhiều loài
dây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều loài trên thân hoặc cành cây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hiện nay có nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng, trong đó
phương pháp phân loại rừng dựa theo cấu trúc và dạng sống của thảm thực vật,
phương pháp dựa vào hình thái ngoại mạo của thảm thực vật được sử dụng
nhiều nhất.
Kraft (1884), lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng. Dựa vào khả
năng sinh trưởng, kích thước và chất lượng của cây rừng, tác giả đã chia cây
rừng trong một lâm phần thành 5 cấp. Hệ thống phân cấp cây rừng này của ông
đã phản ánh được tình hình phân hoá cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng,
đơn giản và dễ áp dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài đều tuổi.
Còn đối với rừng nhiệt đới tự nhiên, việc phân cấp cây rừng là một vấn đề
phức tạp mà cho đến nay chưa có tác giả nào đưa ra được phương án phân cấp
cây rừng tối ưu được chấp nhận rộng rãi. Sapion Gripfit (1984), khi nghiên cứu
rừng tự nhiên Ấn Độ và rừng ẩm nhiệt đới Tây Phi có kiến nghị phân cấp cây
rừng thành 5 cấp cũng dựa trên kích thước và chất lượng cây rừng.
Như vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu hình thái cấu trúc rừng
thường đưa ra những nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo
chiều cao mang tính cơ giới nên chưa phản ánh được đầy đủ thực trạng sự phân
tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.2.1.3. Định lượng về cấu trúc rừng
Để kết quả nghiên cứu cấu trúc rừng mang tính chính xác, thực tế, nhiều
nhà nghiên cứu đã chuyển dần từ mô tả định tính sang nghiên cứu định lượng
với sự hỗ trợ của toán học và tin học. Trong đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng
(cấu trúc không gian và thời gian), xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu
trúc rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất.
Rollet B (1971) đã mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính bằng
các hàm hồi quy, phân bố đường kính bằng các dạng phân bố xác suất. Nhiều tác
giả còn sử dụng hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đường kính loài theo mô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hình của Schumarcher và Coil (Belly, 1973). Ngoài ra các hàm Meyer, Hyperbol,
hàm mũ…cũng được nhiều tác giả sử dụng để mô hình hoá cấu trúc rừng.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc phân
loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái. Cơ sở phân loại
rừng theo xu hướng này là đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng
thứ và một số đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật rừng. Đại diện cho
hệ thống phân loại rừng theo hướng này có Humbold (1809), Schimper (1903),
Aubreville (1949), UNESCO (1973)…Trong nhiều hệ thống phân loại rừng
theo xu hướng này khi nghiên cứu ngoại mạo của quần xã thực vật đã không
tách rời khỏi hoàn cảnh của nó và do vậy hình thành một hướng phân loại theo
ngoại mạo sinh thái.
Khác với hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu mô tả
rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động, Melkhov
đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự biến đổi của tổ
thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát
sinh và phát triển của rừng.
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng. Có nhiều
công trình nghiên cứu công phu đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc thảm thực vật tự
nhiên phục hồi sau nương rẫy còn ít.
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài
cây gỗ ở những nơi có hoàn cảnh rừng: Dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng,
đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò của lớp cây con này là
thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp là quá
trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng chủ yếu là tầng cây gỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930;
Richards, 1933, 1939; Schultz, 1960; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969). Do tính
chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong
thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loại cây có ý nghĩa kinh tế nhất định.
Đối với rừng nhiệt đới, quá trình tái sinh tự nhiên có nhiều điểm khác biệt.
Van Steenis (1956) [60] đã nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến: Tái sinh phân
tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Tác giả gọi những loài cây tiên phong là các loài cây tạm cư, còn những loài
cây mọc sau là những loài cây định cư hay định vị. Cách tái sinh để hàn gắn các
lỗ trống trong tán rừng được ví như hàn gắn các vết thương ở con người, mà
loài cây tạm cư giữ vai trò làm đông máu. Mangenot lại gọi những loài cây đó
là những loài “ làm liền vết sẹo”.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thưc xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các
kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương
thức chặt tái sinh. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương thức
đối với tái sinh đã được Baur G.N (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm “Cơ sở
sinh thái học của kinh doanh rừng mưa”.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng sau nương rẫy được một số tác
giả nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại 24 điểm thuộc vùng rừng
nhiệt đới ở Colombia và Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hoá số lượng loài thực
vật tăng dần từ ban đầu đến rừng thành thục. Thành phần các loài cây trưởng
thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài cây nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ giai
đoạn đầu của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi phụ thuộc vào mức độ, tần
số canh tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Lambert et al (1989), Warner (1991),
Rouw (1991) đều cho thấy quá trình diễn thế sau nương rẫy như sau: Đầu tiên
đám nương được các loài cỏ xâm chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên
phong được gieo giống từ vùng lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần tụ các
loài cây gỗ, tạo ra tiểu hoàn cảnh thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con.
Những cây gỗ tiên phong chết đi sau 5- 10 năm và được thay thế dần bằng các
rừng cây mọc chậm, ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ
mới chuyển thành loại hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Sau khi nghiên cứu khả năng tái sinh của thảm thực vật sau nương rẫy từ
1- 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981- 1992) đã cho thấy chỉ
số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá
trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự (1993)
đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna
tỉnh Vân Nam- Trung Quốc nhận xét: Tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3
năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật; bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi,
176 loài (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Tóm lại, tái sinh rừng nhiệt đới là vấn đề cực kỳ phức tạp bởi tính đa dạng
sinh học cao trong trong cùng một quần xã thực vật. Mặc dù vậy nhưng đến nay
các công trình nghiên cứu về tái sinh rừng nhiệt đới, tái sinh tự nhiên của thảm
thực vật sau nương rẫy khá phong phú. Từ các kết quả nghiên cứu đó cho ta
những hiểu biết về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh rừng tự nhiên ở
một số nơi để vận dụng xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm
quản lý tài nguyên rừng một cách có hiệu quả.
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về cấu trúc và tái
sinh rừng trồng, rừng tự nhiên, rừng sau nương rẫy nhằm đưa ra cơ sở khoa học
cho việc kinh doanh rừng một cách hiệu quả. Có thể điểm qua một số công
trình có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.3.1.1. Nghiên cứu về phân loại rừng
Năm 1918, nhà bác học Pháp, Quang Huy là người đầu tiên đã đưa ra một
bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây được xem là bảng
phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo
bảng phân loại này, rừng ở miền Bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu.
Năm 1960, Cục điều tra và Quy hoạch rừng thuộc Tổng cục Lâm nghiệp
Việt Nam đưa ra bảng phân loại đầu tiên của ngành lâm nghiệp Việt Nam về
thảm thực vật rừng ở Việt Nam. Theo bảng phân loại này, rừng trên toàn lãnh
thổ Việt Nam được chia làm 4 loại hình lớn:
- Loại I: Đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
- Loại II: Gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc
tỉa thưa.
- Loại III: Gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh nên trở thành
nghèo kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến
tái sinh, tu bổ, cải tạo.
- Loại IV: Gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa
bị phá hoại, cần khai thác hợp lý.
Tuy nhiên bảng phân loại này không phân biệt được kiểu rừng nguyên
sinh với các kiểu phụ thứ sinh và các giai đoạn diễn thế.
Trần Ngũ Phương (1970) [28] đưa ra bảng phân loại rừng ở miền bắc Việt
Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: Đai rừng nhiệt đới mưa mùa, đai rừng á
nhiệt đới mưa mùa, đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
tại hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat, 1975), Thái Văn Trừng
45, đã đưa ra bảng phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan điểm
sinh thái, đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam phù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hợp nhất trên quan điểm sinh thái cho đến nay. Theo tác giả, thảm thực vật
rừng Việt Nam được chia thành 14 kiểu:
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín lá cứng hơi khô nhiệt đới.
- Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới.
- Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô nhiệt đới.
- Kiểu trảng cây to, cây bụi, cây cỏ cao khô nhiệt đới.
- Kiểu truông bụi gai hạn nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới.
- Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim, ẩm á nhiệt đới núi thấp.
- Kiểu rừng kín cây lá kim, ẩm ôn đới ẩm núi vừa.
- Kiểu rừng thưa cây lá kim, hơi khô á nhiệt đới núi thấp.
- Kiểu quần hệ khô lạnh vùng núi cao.
- Kiểu quần hệ lạnh vùng cao.
Khi bàn về vấn đề rừng theo hệ thống phân loại kinh doanh, Vũ Biệt
Linh (1984) [20] cho rằng cần phân chia rừng, đất rừng theo mục đích, nội
dung, phương thức, biện pháp kinh doanh nhằm tổ chức định hướng tác nghiệp
kinh doanh theo các đối tượng khác nhau để đạt được hiệu quả cần thiết.
Phan Kế Lộc (1985) [21] dựa trên bảng phân loại của UNESCO (1973),
cũng đã xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp
quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn Đình
Thìn (1994- 1996) cũng đã áp dụng cách phân loại này trong
những nghiên cứu của ông.
Vũ Đình Phương (1985- 1988) [30] đã đưa ra phương pháp phân chia rừng
phục vụ cho công tác điều chế với đơn vị phân chia là lô và dựa vào 5 nhân tố:
Nhóm sinh thái tự nhiên, các giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
năng tái tạo rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm về địa hình, thổ
nhưỡng với một bảng mã hiệu dùng để tra trong quá trình phân chia. Phương
pháp phân chia này đã được áp dụng trong khi xây dựng đề án điều chế cho
một số lâm trường ở Tây Nguyên và Quảng Ninh đã tỏ ra có nhiều ưu điểm.
Đặng Kim Vui (2002) 56 nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống
thực vật dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời đã
xác định được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi (cây bụi;
cây bụi thân bò; cây bụi nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây nửa bụi).
Nguyến Thế Hưng (2003) [17] dựa trên bảng phân loại của UNESCO
(1973), cũng đã xây dựng 8 trạng thái thực vật khác nhau đặc trưng cho loại
hình thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh.
Lê Ngọc Công (2004) [9] dựa trên bảng phân loại của UNESCO (1973),
đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4 lớp quần hệ là: Rừng
rậm, rừng thưa, trảng cây bụi và trảng cỏ.
Ngô Tiến Dũng (2004) [12] dựa trên bảng phân loại của UNESCO (1973),
đã phân chia thảm thực vật của vườn quốc gia Yok Don thành: Kiểu rừng kín
thường xanh, kiểu rừng thưa nửa rụng lá và kiểu rừng thưa cây lá rộng rụng lá
gồm 6 quần xã khác nhau.
Như vậy, việc phân chia loại hình rừng tự nhiên ở Việt Nam là rất cần thiết
đối với công tác nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất. Nhưng tuỳ thuộc vào
mục tiêu đề ra mà cần xây dựng các phương pháp phân chia khác nhau nhưng
đều nhằm mục đích là làm rõ hơn các đối tượng cần quan tâm. Công trình
nghiên cứu của Thái Văn Trừng đã đặt nền móng cho việc phân chia rừng tự
nhiên ở nước ta một cách tổng quát. Phương pháp của Vũ Đình Phương tỉ mỉ
hơn và cho ta những thông số cơ bản về tình trạng rừng hiện tại không chỉ về
góc độ trữ lượng. Nhờ đó người quản lí dề phác hoạ được các biện pháp xử lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lâm sinh tác động vào rừng. Phương pháp này đã tỏ ra hữu hiệu khi áp dụng ở
nơi có trình độ kinh doanh cao và ổn định.
1.3.1.2. Nghiên cứu định lượng về cấu trúc rừng
Những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
như những công trình nghiên cứu mô hình hóa cấu trúc đường kính D
1.3
và biểu
diễn chúng theo các dạng hàm phân bố xác xuất khác nhau. Nổi bật là công
trình nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) [14] dùng hàm Meyer và hệ đường
cong Poisson để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng
tự nhiên làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng cho rừng Việt Nam.
Nguyễn Hải Tuất (1981- 1986) 50, [51] đã sử dụng hàm phân bố giảm,
phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh, đồng thời cũng áp
dụng đường cong Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng.
Trần Văn Con (1992) [8] đã áp dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc
đường kính cho rừng khộp ở ĐăkLắk.
Nguyễn Duy Chuyên (1995) [7] cho rằng tái sinh tự nhiên nhiều loài cây
dưới tán rừng có thể biểu diễn bằng các hàm toán học. Kết quả nghiên cứu cho
thấy ở trạng thái rừng III
A2
có phân bố Poisson.
Nhìn chung các nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng đã giúp cho việc
nghiên cứu cấu trúc rừng ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở mức độ mô tả rừng
mà đã từng bước đi sâu vào phân tích quy luật kết cấu của rừng chính xác hơn
phù hợp với xu hướng nghiên cứu chung của thế giới.
1.3.1.3. Nghiên cứu về phân chia tầng thứ trong rừng mưa nhiệt đới
Ở Việt Nam, hiện nay những nghiên cứu về phân chia tầng thứ trong rừng
mưa nhiệt đới còn rất ít, nhất là theo xu hướng định lượng hoá.
Có thể điểm qua một số công trình của các tác giả sau đây:
Thái Văn Trừng (1978) [46] đã đưa ra mô hình cấu trúc tầng của rừng
mưa nhiệt đới như sau: Tầng vượt tán (A
1
), tầng ưu thế sinh thái (A
2
), tầng dưới
tán (A
3
), tầng cây bụi (B), tầng cỏ quyết (C). Tác giả đã vận dụng và cải tiến bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xung phương pháp biểu đồ mặt cắt đứng của Davit- Richards để nghiên cứu cấu
trúc rừng Việt Nam, trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được vẽ phóng đại với
tỉ lệ nhỏ hơn và ký hiệu thành phần loài cây của quần thể đối với những đặc
trưng sinh thái, cùng biểu đồ khí hậu, vị trí địa lý và địa hình.
Nguyễn Văn Trương (1973, 1983) 48, 49, khi nghiên cứu cấu trúc hỗn
loài cũng đã nghiên cứu sự phân tầng theo hướng định lượng. Nhưng ở đây tác
giả đã sử dụng phương pháp phân tầng theo chiều cao một cách cơ giới mà điều
này không thể chỉ rõ kiểu phân tầng ở rừng nhiệt đới Việt Nam.
Vũ Đình Phương, Đào Công Khanh (1988) [31] xuất phát từ kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước đã nhận định rằng: Việc xác định tầng thứ
sinh thái của rừng lá rộng thường xanh là hoàn toàn hợp lý và cần thiết, do đó
bằng phương pháp định lượng để xác định giới hạn của các tầng thứ là có thể
làm được. Nhưng chỉ có thể có sự phân tầng “rõ rệt” khi rừng ở một giai đoạn
phát triển nào đó của quá trình sinh trưởng và phát triển, mà theo tác giả đó là
giai đoạn thành thục khi sự sinh trưởng và phát triển của rừng diễn ra ở mức độ
chậm chạp. Còn trong giai đoạn rừng đang có sự thay đổi mạnh sau thành thục
với một số lượng cây lớn, già cỗi bị đào thải, rừng bắt đầu một giai đoạn mới
thì ranh giới các tầng khó phát hiện được. Cũng theo tác giả, cần phân biệt rõ
tầng tán với các lớp chiều cao cây rừng. Tầng tán là một khoảng không gian
chứa đựng một số cây nhất định, tán cây trọn vẹn từ đỉnh đến đáy tán, còn lớp
chiều cao mà một số tác giả đề cập đến là không chính xác, vì thực chất đây chỉ
là một khoảng không gian chứa đựng một số lượng nào đó của đỉnh tán cây
trong rừng cây hoặc lâm phần. Xuất phát từ luận điểm này, dựa vào số liệu
quan sát và hơn 10 phẫu diện đồ theo mặt cắt đứng, tác giả đã sử dụng phương
pháp toán học để phân tầng sinh thái ở miền Bắc Việt Nam. Đây là một nghiên
cứu hoàn toàn mới mẻ nhưng đã bước đầu giúp các nhà nghiên cứu có một định
hướng quan trọng đó là: Sự phân tầng tán trong rừng mưa nhiệt đới là một hiện
thực, nhưng có thể chỉ rõ ràng khi rừng đã phát triển ổn định và bằng toán học