Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG ĐẠO TÚ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG CỦA
MỘT SỐ LOÀI TRE PHỔ BIẾN TẠI THÁI NGUYÊN
LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI PHÙ HỢP CHO TRỒNG RỪNG
NGUYÊN LIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
THÁI NGUYÊN – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG ĐẠO TÚ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG CỦA
MỘT SỐ LOÀI TRE PHỔ BIẾN TẠI THÁI NGUYÊN
LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI PHÙ HỢP CHO TRỒNG RỪNG
NGUYÊN LIỆU
CHUYÊN NGÀNH LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Vũ Thị Quế Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
THÁI NGUYÊN – 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích
dẫn trong quá trình nghiên cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận án
Hoàng Đạo Tú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Thị Quế Anh, người đã hướng
dẫn trực tiếp, chỉ đạo tận tình, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự quan tâm, giúp đỡ,
động viên của các thầy cô giáo Khoa Sau đại học, Phòng thí nghiệm trung tâm,
Khoa Lâm nghiệp - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng bàn bè đồng
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến tập thể Ban lãnh đạo Chi Cục Phát triển nông
thôn, Chi cục Kiểm Lâm, Chi cục Lâm Nghiệp tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi về cơ sở vật chất trong quá trình làm luận văn.
Cuối cùng cho tôi gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè gần xa
đã giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành cuốn
luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2011
Hoàng Đạo Tú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Tre phân bố ở các vùng tại Việt Nam
6
1.2
Biến động của rừng tre về diện tích và trữ lượng theo thời
gian
15
3.1
Cơ cấu sử dụng đất của Thái Nguyên
26
3.2
Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp của tỉnh Thái Nguyên
29
4.1
Diện tích rừng tre tỉnh Thái Nguyên phân theo 3 loại rừng
41
4.2
Các loài tre nứa phân bố trong khu vực
42
4.3
Lịch mùa vụ khai thác một số loài tre tại khu vực nghiên cứu
49
4.4
Hiện trạng sử dụng một số loài tre nứa tại địa phương
51
4.5
Diện tích trồng tre nứa tại địa phương
52
4.6
Kết quả phân tích phẫu diện đất tại xã Linh Thông, Định Hóa
54
4.7
Chỉ tiêu sinh trưởng một số loài tre tại Linh Thông
(D1,3>5cm)
55
4.8
Kết quả phân tích phẫu diện đất tại xã Tân Dương, Định Hóa
55
4.9
Chỉ tiêu sinh trưởng một số loài tre tại xã Tân Dương
(D1,3>5cm)
56
4.10
Kết quả phân tích phẫu diện đất tại xã Yên Trạch
57
4.11
Chỉ tiêu sinh trưởng một số loài tre tại xã Yên Trạch
(D1,3>5cm)
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí ô tiêu chuẩn
21
3.1
Bản đồ hiện trạng rừng tỉnh Thái Nguyên năm 2008
24
3.2
Bản đồ quy hoạch 3 loại rừng xã Linh Thông huyện
Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
30
3.3
Bản đồ quy hoạch 3 loại rừng xã Tân Dương huyện
Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
33
3.4
Bản đồ quy hoạch 3 loại rừng xã Yên Trạch huyện
Phú Lương tỉnh Thái Nguyên
35
4.1
Biểu đồ so sánh kích thước đường kính (cm) và
chiều cao(m) cây Tre gai trồng tại 3 vùng nghiên
cứu
59
4.2
Biểu đồ so sánh tỷ lệ (%) cây trung bình và tốt trồng
tại 3 vùng nghiên cứu
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
1.1. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu 4
1.2. Nghiên cứu về tre trên Thế giới và Việt nam 7
1.2.1. Trên thế giới .7
1.2.2. Ở Việt Nam. 12
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 19
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 19
2.1.1. Về lý luận .19
2.1.2. Về thực tiễn 19
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 19
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu 19
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu 19
2.3. Nội dung nghiên cứu 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu 20
Chƣơng 3: TỔNG QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU 24
3.1. Điều kiện tự nhiên 24
3.1.1. Vị trí địa lý .24
3.1.2. Địa hình 25
3.1.3. Địa chất thổ nhưỡng 26
3.1.3. Khí hậu, thủy văn 27
3.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng 28
3.2. Kinh tế xã hội .28
3.2.1. Đặc điểm dân cư, dân tộc 28
3.2.2. Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp 29
3.3. Đặc điểm khu vực nghiên cứu 30
3.3.1. Xã Linh Thông huyện Định Hóa .30
3.3.2. Xã Tân Dương huyện Định Hóa 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.3.3. Xã Yên Trạch huyện Phú Lương 35
3.4. Đánh giá chung về khu vực nghiên cứu 38
3.4.1. Thuận lợi .38
3.4.2. Khó khăn 38
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
4.1. Đặc điểm phân bố tre ở Thái Nguyên 40
4.2. Hiện trạng sử dụng các loài Tre tại khu vực Thái Nguyên 49
4.3. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của một số loài tre trên một số điều
kiện lập địa khác nhau ở tỉnh Thái Nguyên 54
4.3.1. Đặc điểm sinh trưởng của một số loài tre tại xã Linh Thông huyện Định
Hóa 54
4.3.2. Đặc điểm sinh trưởng của một số loài tre tại xã Tân Dương huyện Định
Hóa 55
4.3.3. Đặc điểm sinh trưởng của một số loài tre tại xã Yên Trạch huyện Phú
Lương .57
4.4.Kết luận chung về đặc điểm sinh trưởng tre giữa các khu vực nghiên cứu 58
4.5. Đề xuất một số loài tre phù hợp cho mục đích trồng rừng nguyên liệu 60
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 66
Kết luận 66
Kiến nghị 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Thế giới có hơn 1.200 giống tre. Ở khu vực châu Á, nghiên cứu về tre và
trồng rừng mạnh nhất là Trung Quốc. Việt Nam có địa hình kéo dài với hai hệ
thực vật khác biệt rõ rệt: ở miền Bắc là tre liên quan đến phả hệ Trung Quốc,
trong khi miền Nam gắn với phả hệ Indonesia và Malaysia. Giá trị kinh tế của
tre đã được biết đến nhiều trong chế biến thực phẩm, xây dựng, làm hàng nội
thất, thủ công mỹ nghệ Nhưng giá trị về mặt môi trường còn lớn hơn nhiều,
do khả năng hấp thụ Carbon của Tre là rất cao. Trồng tre thành rừng trên đất
đồi trọc sẽ giúp chống xói mòn, đồng thời có thể ghóp phần giảm khí thải nhà
kính và ghóp phần hạn chế hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức
sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Tre đã gắn liền
với đời sống của rất nhiều người dân. Đây là nhóm loài có tiềm năng lớn
trong việc cung cấp nguyên liệu cho nghành chế biến lâm sản. Không thể kể
hết tính đắc dụng của tre đối với người nông dân Việt Nam: Trong xây dựng:
cây tre dùng để làm nhà, lợp mái Trong công nghiệp: cây tre dùng để sản
xuất ra giấy, chất đốt diesel có thể lấy từ cây tre Trong nông nghiệp: cây tre
làm ổn định đất trồng và bón phân cho đất Trong y học: lá tre dùng để chữa
một số bệnh như bệnh ngứa, bệnh chảy máu, bệnh hen suyễn Trong thực
phẩm: búp non của cây tre có thể ăn được gọi là măng.Trong âm nhạc: cây tre
dùng để làm ra các nhạc cụ âm nhạc như: đàn tơ-rưng, sáo, đàn gió Trong
thủ công mỹ nghệ: cây tre dùng để làm ra các sản phẩm trang trí nhà cửa rất
đẹp và tiện dụng như: khung tranh ảnh, bát, đĩa, khay, bàn, ghế, giường,
tủ Và cuối cùng, cây tre là nguồn thu nhập của rất nhiều người trên toàn thế
giới. So với các loài cây gỗ, Tre có ưu điểm đặc biệt là tăng trưởng nhanh,
tuổi khai thác sớm, có thể khai thác 5-6 năm sau khi trồng với năng suất khá
cao (4-12 tấn/ha/năm) và luân kỳ khai thác ngắn. Hàng năm Việt Nam tiêu
thụ khoảng 400-500 triệu cây tre nứa cho các mụ đích khác nhau.
Theo công bố về hiện trạng rừng toàn quốc của Bộ Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn năm 2009, diện tích rừng gỗ là 8.235.838 ha, như vậy trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
năm 2009 đã có thêm 29.202 ha diện tích rừng này so với năm 2008. Tuy
nhiên, diện tích rừng tre nứa bị thay đổi trong năm 2009 là - 11.809 ha, chỉ
còn 621.454 ha. Với diện tích như vậy sẽ là thách thức lớn cho việc cung cấp
nguyên liệu cho khoảng 200 nhà máy như: Nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy
giấy Lửa Việt ở Phú Thọ, nhà máy giấy Sơn La, nhà máy giấy Sông Lam,
Nghệ An, nhà máy giấy Thái Nguyên… Ngày 21-2, Chính phủ đã ban hành
chính sách khuyến khích phát triển ngành mây tre, trong đó có biện pháp
miễn giảm thuế sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng
dân cư đầu tư trồng rừng nguyên liệu mây, tre và áp dụng thuế suất nhập khẩu
0% đối với máy móc, thiết bị chuyên dùng cho sản xuất hàng mây tre trong
nước chưa sản xuất được theo danh mục do Bộ Công thương ban hành. Quyết
định này cũng nêu rõ việc hỗ trợ 100% kinh phí từ ngân sách nhà nước để
thực hiện việc điều tra trữ lượng, diện tích các giống mây tre, ứng dụng công
nghệ sinh học vào các khâu bảo quản, chế biến (Quyết định số 11/2011/QĐ-
TTg về chính sách khuyến khích phát triển ngành mây tre)
Thái Nguyên là một trong những địa phương có diện tích rừng Tre và rừng
hỗn giao Tre nứa ít. Tổng diện tích rừng tre nứa và rừng hỗn giao tre nứa
2,545 ha chủ yếu có nguồn gốc là rừng tự nhiên tập trung ở các huyện Định
Hóa, Phú Lương và Võ Nhai (Báo cáo kết quả điều tra hiện trạng rừng tre 7
tỉnh miền núi phía bắc năm 2008)[22], trong đó diện tích rừng Tre còn trữ
lượng tập trung nhiều hơn ở 2 huyện Định Hóa và Phú Lương. Việc tìm ra
những loài Tre các phù hợp với điều kiện tiểu khí hậu và đất đai nhằm cung
cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trong khu vực và giúp người dân
địa phương có nguồn thu nhập ổn định từ rừng và kinh doanh rừng là mục
tiêu vô cùng quan trọng cho phát triển vùng. Để có thể đề xuất được loài tre
phù hợp có thể trồng và phát triển tại khu vực phục vụ cho kinh doanh rừng
nguyên liệu và tăng sinh kế của người dân miền núi Thái Nguyên, chúng tôi
tiến hành đề tài cấp bộ “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của một số loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Tre phổ biến tại Thái Nguyên làm cơ sở lựa chọn loài phù hợp cho trồng
rừng nguyên liệu”.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về đối tƣợng
nghiên cứu
* Đặc điểm nhận biết
Tre là tập hợp của các loài thực vật thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) hay có khi
còn gọi là (Gramineae). Tre thường có đặc tính sinh trưởng giống như cây
thân gỗ, tuy nhiên có đặc trưng là thân thường rỗng, có hệ thân ngầm, phân
cành khá phức tạp và hệ thống mo thân. Đặc điểm phân biệt với các loài song
mây hoặc cau dừa là hầu hết các loài song mây, cau dừa đều có thân đặc và
mềm dẻo, còn tre nói chung có thân rỗng (trừ một số loài ngoại lệ như giang
đặc). Do không có cấu tạo tượng tầng nên tre không hình thành vòng năm
như ở cây gỗ. Có một thân chính hình trụ, thẳng và thường cong ở phần ngọn
[17].
* Đặc điểm sinh học và sinh thái học
Do tre không có một thân chính như thân cây gỗ nên thân ngầm là một bộ phận
đặc biệt của cây, nơi giữ cho cây đứng vững, ổn định và là nơi tạo nên các thân
cây mới, Thân ngầm có cấu tạo cơ bản giống như thân khí trên mặt đất, chỉ khác
là có lóng ngắn, vách rất dày hoặc thân đặc hoàn toàn, hệ rễ phát triển và các bộ
phận thường có mầu trắng [17].
Thân được chia làm ba loại chính: Thân ngầm mọc cụm thân rất ngắn không thể
bò lan ra, chồi từ thân ngầm sẽ phát triển thành cây mới mọc gần nhau tạo thành
các bụi, các khóm. Thân khí sinh thường có hình trụ và nhiều lóng rỗng, độ dài
của các lóng trên thân không giống nhau và thường có màu xanh hoặc xanh lục,
nhạt hoặc thẫm Cành có cấu tạo giống như thân khí sinh, đốt thân là nơi phát
sinh cành. Sự hình thành cành trên các đốt kế tiếp thường theo hướng đối xứng
hoặc so le nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Lá có hai loại phục vụ cho hai mục tiêu khác nhau. Loại thứ nhất làm nhiệm vụ
bảo vệ măng, thân cây non là mo thân gồm bẹ mo, phiến mo, tai mo và lưỡi mo
hay thìa lìa. Loại thứ hai làm nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp vật chất nuôi cây
gọi là lá quang hợp gồm phiến lá, bẹ lá, cuống lá, lưỡi lá và tai lá [18].
Mỗi hoa nhỏ gồm có mày ngoài và mày trong, tương đương với phiến lá bắc
và phiến lá bắc nhỏ. Mày ngoài bao lấy mày trong, nhiều gân. Mày trong bao
lấy các bộ phận khác của hoa nhỏ, lưng có 2 gờ. Hoa lưỡng tính được tạo
thành do 3 bộ phận: Mày cực nhỏ, nhị và nhụy. Mày cực nhỏ thường 3 chiếc,
chất màng trong suốt hay chất thịt phình lên, mép thường bị xẻ. Nhị thường 3
hay 6 chiếc, chỉ nhị hình sợi, tách rời nhau hay gốc dính nhiều hay ít. Bầu
thượng, 1 ô, 1 noãn, vòi nhỏ. Đầu nhuỵ thường 2-3 chiếc, ít khi 1 hay nhiều
tới 4-5 chiếc, lông bề mặt đầu nhuỵ dạng ống nhỏ, phẳng nhẵn hay nổi lên
dạng núm hoặc dạng lông vũ [15].
Quả tre không mở, chỉ có 1 hạt, thường là quả thóc hay quả dĩnh, như Trúc
cần câu (Phyllostachys sulphurea), Mạy sang (Dendrocalamus
membranaceus),vỏ quả mỏng, dính liền với vỏ hạt, phôi nhũ chưa nhiều tinh
bột, vị trí phôi nằm ở phía dưới phôi nhũ, đối diện phía ngoài, bên kia là rốn
hạt dạng máng.
Hạt các loài tre, bất kể là loại quả thóc hay loại phi quả thóc Hạt loại quả kiên
(một phần), quả mọng không có phôi nhũ. Vỏ hạt các loài tre đều rất mỏng,
thường chỉ có 1 lớp tế bào. Hạt các loại tre thuộc 2 nhóm có phôi nhũ và
không có phôi nhũ. Hạt loại quả thóc thường có phôi nhũ rõ rệt [16].
* Phân bố địa lý
Tuy diện tích, trữ lượng và số loài có khác nhau nhưng nơi nào ở Việt Nam
cũng có tre. Diện tích Tre phân bố trong các vùng ở Việt Nam được thể hiện ở
bảng 1.1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Bảng 1.1.Tre phân bố ở các vùng tại Việt Nam
Diện tích
(ha)
Vùng
Tổng số
Rừng tự nhiên
Rừng
trồng
Chi tre
chủ yếu
Thuần
loại tre
Tre - Gỗ
hỗn giao
Đông bắc
Tây bắc
Đồng bằng S. Hồng
Bắc Trung Bộ
Tây nguyên
Duyên hải miền trung
Đông nam Bộ
322.889
108.386
91
323.149
334.113
30.036
370.404
176.449
57.218
80
172.999
210.343
27.519
144.613
132.745
42.503
0
99.110
123.770
2.517
225.686
13.695
8.665
11
51.040
0
0
105
1,2,3,4
1,2,3,4
1,2
1,2,3,4,5
1,5
1,5
1,2,5
Tổng cộng
1.489.068
789.221
626.331
73.516
(Nguồn số liệu kiểm kê rừng Việt Nam năm 1999)
Nhìn vào bảng 1.1. Tre phân bố ở các vùng tại Việt Nam, xếp theo thứ tự diện
tích và trữ lượng thì đáng quan tâm nhất là vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ,
Đông Bắc, Đông Nam Bộ rồi đến Tây Bắc. Một số loài tre phổ biến cho các
vùng được thể hiện ở bảng 1 (xem phụ lục).
* Giá trị
Quan niệm về loài tre chủ yếu: là những loài tre được sử dụng rộng rãi trong
đời sống hàng ngày (đồ dùng hàng ngày, vật liệu xây dựng, cây cảnh…) hoặc
dùng nhiều làm nguyên liệu trong công nghiệp chế biến, thủ công mỹ nghệ
hoặc có ý nghĩa đặc biệt (quí, hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo tồn
nguồn gen…). Nếu là loài mọc tự nhiên thì có số lượng khá lớn trong tự
nhiên, nếu là loài gây trồng thì được nhiều người ưa thích, nếu là loài có ý
nghĩa đặc biệt thì được người ta quan tâm.
Tre mọc ở khắp mọi nơi, dễ trồng, sinh trưởng nhanh, sớm khai thác, dễ chế
biến và có nhiều đặc tính phù hợp với yêu cầu sử dụng của con người, nên nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
thường được sử dụng cho các mục đích chính sau:
- Làm vật liệu xây dựng: Thân cây lớn làm cột nhà, xà nhà, đòn tay. Các loài
thân to hay vừa có vách mỏng thì dùng làm sàn nhà, vách nhà. Trong các
công trình xây dựng vừa và tre nhỏ được sử dụng làm cọc đóng cho nền
móng bền vững, cột chống, cốp pha, ngoài ra tre còn làm nguyên liệu cho sản
xuất giấy.
- Làm thực phẩm: Một số loài tre cho măng ăn rất ngon như: măng mai,
măng luồng, măng tre ngọt, măng mạy lay, măng nứa, măng đắng…Đây là
nguồn thực phẩm quan trọng, vừa là nguồn thu nhập thường xuyên của người
dân miền núi. Ngoài tiêu thụ măng tươi mỗi ngày, người dân còn sử dụng
một số loài như mậy hốc, lồ ô, nứa làm măng khô có thể bảo quản lâu dài và
vận chuyển dễ dàng.
- Phục vụ mục tiêu văn hóa: Một số loài được trồng làm cây cảnh, cây trang
trí các công viên, công sở, gia đình như: Tre bụng phật, tre vàng sọc, tre đùi
gà, trúc đen, trúc quân tử…
1.2. Nghiên cứu về Tre trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
Tre là một tài nguyên Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) rất có giá trị. Có tới hơn
một nửa dân số thế giới liên quan với nhóm tài nguyên này. Tre thuộc phân
họ Tre (Bambusoideae), họ Cỏ (Poaceae) với khoảng 1300 loài thuộc 70 chi
phân bố trên toàn thế giới. Theo thống kê có trên 14 triệu ha rừng tre phân bố
từ 51
0
vĩ Bắc đến 47
0
vĩ Nam đều có tre sinh trưởng. Nhiều loài tre có đặc
tính mọc thành rừng.
Nước nhiều tre nhất là Trung Quốc, với khoảng 50 chi và 500 loài và diện
tích 7 triệu ha rừng tre. Nước nhiều tre thứ hai là Nhật Bản với 13 chi, trên
230 loài và diện tích 0,1 triệu ha rừng tre.Tiếp đó là các nước Ấn Độ, các
nước Nam và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam (Trần Ngọc Mão và nhóm
tác giả, 2006).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Về mặt địa lý, phân bố của tre trên toàn thế giới có thể chia làm 3 vùng: Vùng
tre Châu Á - Thái Bình Dương, Châu Mỹ và Châu Phi. Trong mỗi vùng hay
mỗi nước có thể chia thành nhiều vùng phụ tuỳ theo khí hậu và các dạng tre.
Về mặt phân loại, cho đến nay việc phân loại tre vẫn chưa thực sự chính xác,
nguyên nhân là do tính đa dạng về loài, cũng như đặc tính ra hoa không
thường xuyên của nhiều loài tre. Năm 1868 Munro lần đầu tiên đã đưa ra hệ
thống phân loại tre với 120 loài thuộc 21 chi, chúng được chia làm 3 nhóm.
Cơ sở của hệ thống phân loại này là số lượng nhị hoa và cấu trúc quả. Late
Bentham (1883) đã đưa cơ sở vào hệ thống phân loại của Munro và bổ sung
thêm một số tiêu chuẩn khác như: Cấu trúc bông hoa, cụm hoa cũng như kiểu
phát sinh hoa, để xây dựng bảng phân loại tre của mình với 4 nhóm phụ là:
Arundinarieae, Bambuseae, Dendrocalameae và Melocanneae. Đây là hệ
thống phân loại tre phổ thông nhất và đặt nền móng cho các bước phát triển,
hoàn thiện việc phân loại tre sau này. Các nước phát triển ngày càng coi trọng
cây tre và ưa thích các loại sản phẩm chế biến từ tre. Ở các nước Đông Á, nơi
được coi là quê hương của cây tre, đang có xu hướng quay trở lại sử dụng loại
vật liệu có nhiều đặc tính quý báu này trong mọi mặt của đời sống. Ngành
công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và đang phát triển mạnh ở
một số nước Châu Á. Đi đầu trong những nước này là Trung Quốc. Tre và các
loại cây thuộc họ tre phát triển chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc,
những năm gần đây xuất khẩu hơn nửa triệu mét vuông mỗi năm. Mỗi hécta
trồng tre chất lượng cao đem lại thu nhập 15.000 USD mỗi năm cho người
nông dân Trung Quốc. Các tác phẩm mỹ thuật tinh xảo được dệt thủ công từ
sợi tre (được chẻ nhỏ và chế biến bằng công nghệ hiện đại) được xuất sang thị
trường Singapore gần đây với số lượng đáng kể. Trái với quan niệm trước đây
là cây tre làm đất bạc màu, kết quả nghiên cứu do Viện Nghiên cứu và Phát
triển sinh thái (trụ sở ở Lugana, Philippines) cho thấy cây tre đã cải tạo thành
công ở những vùng đất bị tro núi lửa Pinatubo huỷ hoại. Cây tre có sức sống
mãnh liệt ở cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô nhiễm. Viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
nghiên cứu này cũng khẳng định bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định nhất,
chống xói mòn đất, chống xói lở bờ sông, tre mọc ken dày có thể làm giảm
cường độ của gió, giảm sự tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Người Nhật
đã từng trồng thí nghiệm tre trên một vùng đất ở gần Hiroshima -thành phố bị
tàn phá bởi bom nguyên tử năm 1945. Cây tre đã đâm chồi trên đất nhiễm
phóng xạ ở đây sau khi được trồng vài tháng. Một phương pháp sử dụng chất
bảo quản có nguồn gốc thiên nhiên mới cũng được các nhà khoa học Nhật
phát minh gần đây, khi mà trong quá trình nghiên cứu xử lý tre dùng làm đồ
nội thất và làm thùng chứa, họ vô tình phát hiện một chất có khả năng chống
ôxy hoá mạnh có trong vỏ cây tre [35].
Ở Triều Tiên từ xa xưa cũng đã sử dụng tre, nứa trong đời sống. Loại muối tre
có tên là Chukyom được dùng ở nước này từ khoảng 1.000 năm, loại muối
này còn được hoà tan vào nước dùng như một thứ thuốc chữa bệnh đau dạ
dày. Người ta cho muối vào ống tre, dùng một loại đất sét đặc biệt bịt kín lại
rồi nung trong nồi đất kín trong một khoảng thời gian xác định thu được một
hỗn hợp. Hỗn hợp này hiện còn được chế biến, đưa cả vào kem đánh răng.
Indonesia, đất nước có nhiều tương đồng với VN về văn hoá. Một số nơi ở
nước này, như ở đảo Bali đang phát triển trồng và chế biến tre. Tre đã được sử
dụng để làm những căn nhà cao tới 8 m (dùng kèm với các loại vật liệu nhẹ
khác) - một dạng nhà kính khung tre, và một số đồ nội thất khác như bàn máy
tính bằng tre. Một tổ chức có tên là Tre bảo vệ môi trường đã ra đời ở đảo
Bali nhằm cổ vũ cho việc trồng tre và sử dụng sản phẩm từ tre trong đời sống.
Tổ chức này hiện có hơn 80 giống tre đã và đang cung cấp rất nhiều cây giống
tới nhiều vùng ở Indonesia, cùng với phương pháp chăm sóc tre với những ưu
điểm là giá thành thấp, có khả năng chống côn trùng, nấm mốc cho tre. Tổ
chức này tin rằng mình đang đi đúng hướng, khi mà hiện nay nhu cầu tiêu thụ
gỗ toàn thế giới đang lớn hơn mức cung, và cứ mỗi ngày lại có thêm nhiều
cánh rừng biến mất. Cũng dùng tre để làm nhà, nhưng ở Hồng Kông còn có
những ngôi nhà cao tới 40 tầng đã được dựng với vật liệu chủ yếu là tre.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Trong tương lai gần ở Hồng Kông sẽ mọc lên nhiều ngôi nhà có khung bằng
tre đã qua xử lý đặc biệt.
Nước nhiều tre nhất là Trung Quốc, với khoảng 50 chi và 500 loài và diện
tích 7 triệu ha rừng tre. Nước nhiều tre thứ hai là Nhật Bản với 13 chi, trên
230 loài và diện tích 0,1 triệu ha rừng tre.Tiếp đó là các nước Ấn Độ, các
nước Nam và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam (Trần Ngọc Mão và nhóm
tác giả, 2006).
Thái Lan có nhiều nhà máy chế biến sản phẩm tre. Sản phẩm phụ của một số
nhà máy như thế lại trở thành nguyên liệu cho dân trong vùng nơi có nhà máy
chế tạo đồ thủ công mỹ nghệ và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày. Tre cũng được
trồng từ lâu ở Nepan, ấn Độ, và ngày càng được coi trọng vì độ bền và tính
hiệu dụng trong cuộc sống người dân ở đây. Nước ta cũng như một số nước
quanh vùng đang sử dụng các cây thuộc họ tre làm nguyên liệu cho ngành
công nghiệp giấy.
Bước sang thế kỷ 20, Holttum (1946, 1956) đã mở rộng và xây dựng hệ thống
phân loại tre, dựa trên cơ sở chủ yếu là cấu trúc bầu nhuỵ, ông đã chia các chi
thành 4 nhóm: Schizostachyum, Oxytenanthera, Bambusa - Dendrocalamus
và Arundinaria. Năm 1986, Clayton và Renvoize đã đưa ra bảng phân loại với
49 chi của Bambusoideae và được chia ra 3 nhóm phụ là: Arundinarinae
Benth, Bambusinae Presl và Melocanninae Reichenb. Cơ sở của hệ thống
phân loại này là dựa trên các đề nghị của Holttum (1956), mà tiêu chuẩn căn
bản là cấu trúc của bầu nhuỵ và các phần phụ của nó [25].
Năm 1987, Soderstrom và Ellis đã đề nghị một hệ thống phân loại, dựa trên
cơ sở các đặc điểm về cấu tạo giải phẫu lá, cấu trúc bông hoa, kiểu hoa và
quả. Hai ông đã đưa ra 54 chi tre được sắp xếp trong 9 nhóm phụ và 5 chi
chưa xác định chính xác. Những năm tiếp theo đã có nhiều nghiên cứu về
phân loại và bổ sung một số loài, chi thuộc các nhóm phụ khác nhau vào hệ
thống phân loại trên, như Stapleton (1991, 1994), Dransfield (1992) Widjaja
(1987), Wong (1993).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Theo Huberman (1959) Tre là một quần hợp sống thành cụm ở rừng ẩm
thường xanh, rừng ẩm và rừng khô rụng lá. Mặc dù chỉ được coi như những
cây tầng dưới thứ yếu trong các loại rừng này trong kinh doanh rừng, nhưng
trên thực tế các loài tre có tầm quan trọng trong đời sống của nhiều triệu dân
địa phương. Ở nhiều vùng nhiệt đới của Châu Á, mức độ quan trọng củaTre
được xếp ngay sau gạo. Công dụng của Tre rất đa dạng từ việc thỏa mãn nhu
cầu thức ăn cho con người, đến việc sử dụng trong xây dựng, làm ống nước,
rổ rá, túi xách và sản xuất giấy. Các phương thức lâm sinh áp dụng cho rừng
Tre nứa chủ yếu được thực hiện ở khu vực Châu Á, thường tương đối đơn
giản và thường dựa vào các đặc điểm lâm học của Tre. Các cây trưởng thành
được khai thác và các cây tái sinh mới được hình thành từ hệ thân ngầm,
phương thức đơn giản này có thể áp dụng cho mọi đối tượng hoặc loại rừng.
Chỉ sau khi ra hoa (khuy), thường là sau chu kỳ dài tất cả các thân ngầm đều
bị chết héo, thì Tre tái sinh từ hạt [21].
Cuốn kỷ yếu hội thảo quốc tế về Tre tổ chức tại Cochin, Ấn Độ năm 1988 đã
tổng kết nhiều bài báo khoa học về các lĩnh vực: bảo tồn, quản lý tre, sinh
trưởng năng suất và các vấn đề về nhân giống cũng như sâu bệnh hại Tre của
các tác giả Ấn độ và các tác giả trong khu vực có tre nứa (I.V. Ramanuja Rao,
R. Gnanaharan, Cherla B. Sastry, 1988) [30]
Nghiên cứu về vai trò của các loài Tre trong diễn thế thứ sinh sau canh tác
nương rẫy ở vùng thấp Đông Bắc Ấn Độ, K.S. Rao and P.S. Ramakrishna
(2001) thấy rằng Tre là tập đoàn cây chiếm ưu thế trên dạng lập địa này trong
thời gian dài nhờ vào đời sống dài và khả năng sinh trưởng nhanh của chúng.
Các loài Tre phổ biến ở khu vực ĐB Ấn Độ Dendrocalamus hamiltonii,
Neohouzeua dulloa và Bambusa khasiana. Sự thay đổi về mật độ, kiểu sống
và khả năng thích ứng của chúng với điều kiện môi trường giúp chúng có sự
ổn định quần thể. Ái lực mạnh đối với Cation, đặc biệt là kali giúp cho việc
bảo tồn các nhân tố này. Các nghiên cứu nhận thấy rằng Tre đóng vai trò hết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
sức quan trọng trong diễn thế rừng đặc biệt giúp bảo tồn nguồn dinh dưỡng,
nhân tố quan trọng trong quản lý rừng phục hồi tại Đông Bắc Ấn [25].
Wang, K. và C. Hsueh. (1994) tóm lược các hiểu biết về sinh thái và môi
trường sống của Tre là yêu cầu cơ bản để phát triển phương thức lâm sinh và
khai thác bền vững nguồn tài nguyên này. Thêm vào đó thông tin về sinh thái
và quần thể cung cấp cơ sở cho những cai thiện về lâm sinh. Tre có 2 loại
thân rễ chính là thuộc loại theo cụm hoặc mọc đơn. Thân rễ là cấu trúc tự
nhiên bền vững và được sử dụng để phân loại Tre. Tre nhiệt đới hầu hết thuộc
hệ thống cụm và tre ôn đới thường mọc đơn. Dựa vào các tiêu chí này tác giả
phân rừng Tre ở Yunnan Trung Quốc thành 3 dạng, Rừng Tre ôn đới, Rừng
Tre á nhiệt đới và nhiệt đới [32].
1.2.2. Ở Việt Nam
Tre ở Việt Nam đã đựơc sử dụng rộng rãi từ lâu đời trong xây dựng, đặc biệt
là xây dựng nhà ở các vùng nông thôn. Tre dùng trong xây dựng từ việc sử
dụng làm cọc móng, giàn dáo, các kết cấu cần chịu lực đến sàn, trần, mái nhà,
vách ngăn, khung nhà để xuất khẩu. . . ước tính số lượng tre được sử dụng
trong xây dựng chiếm tới 50% sản lượng khai thác hàng năm. Trong giao
thông tre được sử dụng làm thuyền, phao và cầu; trong khai thác mỏ tre được
sử dụng để chèn hầm lò; trong nông nghiệp tre được sử dụng làm nông cụ . .
.Rất nhiều đồ dùng thông thường trong mỗi gia đình người Việt Nam như
giường, chiếu, bàn, ghế, mành, thúng, mủng, rổ, rá, đến đũa ăn, tăm xỉa răng
đều làm bằng tre. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nhạc cụ. . . từ tre ngày
càng nhiều và đã trở thành nhu cầu lớn ở trong nước và quốc tế. Lượng tre
dùng vào những việc này tuy không thống kê được cụ thể nhưng ước tính
cũng chiếm khoảng 25-30% sản lượng khai thác hàng năm. Trong công
nghiệp tre làm nguyên liệu và được sử dụng dưới dạng thanh, dăm hoặc sợi,
bột. Ván ép làm từ tấm cót đan, dăm hoặc thanh tre được nhúng tẩm keo rồi
dán ép với áp suất và nhiệt độ cần thiết để ván có kết cấu bền vững, đủ đáp
ứng yêu cầu sử dụng như làm trần nhà, vách ngăn, sàn nhà, ốp tường, mái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
che… Sợi tre do có những ưu điểm về độ dài và độ mềm dẻo hơn nhiều so với
sợi gỗ nên rất thích hợp để làm nguyên liệu sản xuất bột giấy, nhất là loại giấy
chất lượng cao.
Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về diện tích tre nứa, với 194 loài thuộc 26 chi,
trong đó có 80 loài đã tạm thời được định danh, còn lại là các loài chưa có tên
hoặc có các loài/phân loài mới. Dự đoán, nếu được thống kê đầy đủ số loài tre
của Việt Nam có thể lên 200- 250 loài. Năm 2001 theo công bố của Chương
trình Tổng kiểm kê rừng toàn quốc, Việt Nam có 789.221ha rừng tre thuần
loại, 702.871ha rừng hỗn giao tre nứa tự nhiên, cộng với trên 70.000 ha rừng
tre trồng và hàng trăm triệu cây tre trồng phân tán. Tre đựơc sử dụng rộng rãi
trong xây dựng, đặc biệt là ở các vùng nông thôn; từ việc sử dụng làm cọc
móng, giàn dáo, các kết cấu cần chịu lực đến sàn, trần, mái nhà, vách ngăn,
khung nhà để xuất khẩu. . . ước tính số lượng Tre được sử dụng trong xây
dựng chiếm tới 50% sản lượng khai thác hàng năm. Vì vậy trong chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng, nhóm Tre có vị trí được quan tâm. Kết quả hội thảo
"Xác định loài cây trồng rừng và chọn loài ưu tiên" tại các vùng lâm nghiệp
cũng đã chọn "Tre" là loài cây trồng ở tất cả các vùng (Nguyễn Tử Ưởng,
1995).
Quá trình khảo sát đã phát hiện ra một số chi được coi là mới đối với nước ta
là chi Giang (Maclurochloa) với 17 loài, chi Tre quả thịt (Melocalamus) với
10 loài, chi Tre Bidoup (Kinabaluchloa) có 1 loài. Một số loài mới được phát
hiện là Tre lông Bidoup (Kinabaluchloa) có đặc điểm ngoại hình giống loài
cùng chi ở Malaixia (Wong, 1995); trúc dây Bidoup (Ampelocalamus) có
ngoại hình giống như trúc dây Ba Bể; nhiều loài nứa (Schizostachyum), le
(Gigantochloa) và lồ ô (Bambusa). Một số chi có nhiều loài là chi Tre
(Bambusa) có 55 loài, chi Luồng (Dendrocalamus) có 21 loài, chi Le
(Gigantochloa) có 16 loài, chi Nứa (Schizostachyum) có 14 loài và chi Vầu
đắng (Indosasa) có 11 loài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Qua một số năm điều tra khảo sát (2003-2006), Trần Văn Tiến và Nguyễn
Hoàng Nghĩa (2007) đã xác định được phân tông tre (Bambussinae) ở Việt
Nam hiện nay có 8 chi: chi Tre (Bambusa), chi Le Bắc Bộ (Bonia), chi Luồng
(Dendrocalamus), chi Le (Gigantochloa), chi Tre lông (Kinabaluchloa), chi
Giang (Maclurochloa), chi Tre quả thịt (Melocalamus), chi Tầm vông
(Thyrsostachys) mà các chi này có các loài mới hoặc mới ghi nhận ở Việt
Nam. Dựa trên một số đặc điểm hình thái hoa của 37 loài thuộc 5 chi cũng
như các cơ quan dinh dưỡng nhằm giới thiệu một số đặc điểm dễ nhận biết và
xây dựng khoá phân loại các chi thuộc phân tông tre (Bambusinae) ở Việt
Nam.
Nhu cầu về tre nứa ở nước ta ngày càng tăng, trong khi đó diện tích tre nứa tự
nhiên đang suy giảm nhanh chóng, do vậy trong Chương trình trồng mới 5
triệu ha rừng tre nứa cũng được chọn để trồng rừng để tạo vùng nguyên liệu
cho chế biến phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Đỗ Văn Bản (2006) đã giới thiệu
một số loài Tre thông dụng cho trồng rừng như Dendrocalamus aff giganteurs
Munro, Dendrocalamus aff latifflorus Munro, Dendrocalamus aff
pachuystachys Hsueh et D.Z.Li, Dendrocalamus aff pachuystachys Hsueh et
D.Z.Li, Dendrocalamus longivaginus sp.nov., Bambusa sinospinosa
McClure, Dendrocalamus minor (McClure), Phyllostachys hetercycla (Carr.)
Mitford, Bambusa bicorniculata sp. nov., Dendrocalamus barbatus Hsuch et
D. Z. Li, Dendrocalamus yunnanicus Hsuch et D. Z. Li,…
Bảng 1.2 Biến động của rừng tre về diện tích và trữ lượng theo thời gian
Năm
kiểm
kê
Rừng tre tự nhiên
Rừng tre trồng
Diện tích (ha)
Trữ lượng
(triệu cây)
Diện
tích (ha)
Trữ lượng
(triệu cây)
Rừng hỗn
giao Gỗ -
Tre
Rừng
thuần loại
tre
1983
395.700
1.050.000
4.084,7
46.300
97,1
1990
498.600
1.048.600
6.022,3
43.700
47,1
1999
626.331
789.221
8.304,693
73.516
96,074
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
(Nguồn Báo cáo kiểm kê rừng năm 1983, 1990, 1999)
Theo công bố của Chương trình Tổng kiểm kê rừng toàn quốc năm 2011, Việt
Nam có 789.221 ha rừng tre thuần loại, 702.871 ha rừng hỗn giao tre nứa tự
nhiên, cộng với trên 70.000 ha rừng tre trồng và hàng trăm triệu cây tre trồng
phân tán.
Trong thực tế, nhiều rừng gỗ sau khai thác đã bị tre xâm lấn trở thành rừng gỗ
-tre, nhiều diện tích rừng gỗ - tre trước đây do tiếp tục chặt cây gỗ nên còn lại
thuần loại tre và nhiều diện tích rừng tre bị khai thác tuỳ tiện trở nên nghèo
kiệt thậm chí chỉ còn lại đất trống. Vì vậy, các loại rừng tre trong các lần kiểm
kê không những thay đổi về số lượng (diện tích, trữ lượng), chất lượng (sản
lượng, phẩm chất cây) mà còn chuyển đổi về không gian.
Trong những năm gần đây việc trồng tre để kinh doanh đã đựơc đẩy mạnh
hơn nhất là thành phần kinh tế hộ gia đình. Trong tổng số 73.516 ha rừng tre
trồng thì rừng sản xuất là 60.482ha chiếm 82%, có 69.278 ha rừng cấp tuổi
hai chiếm 94% và diện tích do gia đình và tập thể quản lý là 62.905 ha chiếm
85,6 %.
Trong kế hoạch 5 năm (1991 đến 1995), đề tài cấp nhà nước mang mã số
KN03-12 do PGS.TS. Nguyễn Đình Hưng làm chủ nhiệm có đề mục "Tài
nguyên tre và song mây", do hạn chế về kinh phí nên chỉ tiến hành điều tra
trên một số điểm ở một số tỉnh trọng điểm tập trung nhiều tre như Phú Thọ,
Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Thái, Thanh Hoá, Đồng Nai, Sông Bé và đã thu
thập được 130 bộ tiêu bản thực vật tre (mỗi bộ tiêu bản loài gồm tiêu bản lá,
mo, đoạn thân không cành, đoạn thân có cành, hoa quả (nếu có) và ghi chép
số liệu chiều cao cả cây, chiều cao không cành, đường kính tán lá, chiều dài
lóng, bề dầy thân, trọng lượng thân tươi…của cây cỡ trung bình) và một số
ảnh minh hoạ. Những tiêu bản tre được bảo quản tại phòng tiêu bản thực vật
Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, đã sơ bộ giám định và xếp vào 13 chi
cho 121 bộ tiêu bản, 9 bộ tiêu bản còn lại chưa được xếp chi. Sơ bộ giám định
tên khoa học đến loài được 37 loài (62 bộ tiêu bản) còn lại 68 bộ tiêu bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
chưa được giám định tên khoa học. Tồn tại của đề mục này là hiện trường
điều tra còn hẹp ở một số tỉnh thuộc vùng Trung Tâm Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ
và Đông Nam Bộ. Khó khăn lớn nhất khi nghiên cứu Tre là việc giám định
tên khoa học vì trong nước chưa có chuyên gia đi sâu về phân loại tre, nên
còn nhiều mẫu vật chưa được giám định đến tên loài và cũng chưa được kiểm
tra lại. Đây cũng chính là tồn tại của đề mục này.
Từ 2001 đến năm 2003 phòng nghiên cứu tài nguyên thực vật rừng thuộc
Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã tiến hành điều tra các loài Tre ở hầu
hết các tỉnh trong cả nước, thu được 223 mẫu vật các loài tre (các mẫu vật này
đang được lưu giữ tại Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam), giám định tên
khoa học được 22 chi 122 loài. Trong những loài đã thu thập được cũng có
khoảng 10 loài trong số" 19 loài tre ưu tiên cao để Quốc tế có hành động" và
có khoảng 6 loài trong" 18 loài tre khác được Quốc tế ghi nhận là quan
trọng".
Trong 2 năm 2004 – 2005, PGS.TS Nguyễn Hoàng Nghĩa cùng hai chuyên
gia phân loại tre Trung Quốc là GS. Li Dezhu, Phó Viện trưởng Viện thực vật
học Côn Minh, Vân Nam (chuyên gia chi Dendrocalamus) và GS. Xia Nianhe
(chuyên gia chi Bambusa) tiếp tục cộng tác nghiên cứu với các nhà nghiên
cứu tre trúc ở nước ta tiếp tục nghiên cứu định danh các loài tre nứa hiện có
của Việt Nam ban đầu đã đưa ra danh sách gồm 194 loài của 26 chi tre trúc
Việt Nam. Phần lớn trong số đó là chưa có tên. Một số chi có nhiều loài là chi
Tre gai (Bambusa) có 55 loài thì có tới 31 loài chưa có tên, chi Luồng
(Dendrocalamus) có 21 loài với 5 loài chưa định tên, chi Le (Gigantochloa)
có 16 loài với 14 loài chưa có tên, chi Vầu đắng (Indosasa) có 11 loài với 8
loài chưa có tên và chi Nứa (Schizostachyum) có 14 loài thì có tới 11 loài
chưa có tên.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học Việt Nam đã tìm ra được nhiều chi, loài mới
cho nước nhà. Năm 2005, Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự đã công bố 7 loài
nứa mới thuộc chi Nứa (Schizostachyum) như: Khốp Cà Ná (Cà Ná, Ninh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Thuận), Nứa Núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu), Nứa đèo Lò Xo (Đắc Glei, Kon
Tum), Nứa lá to Saloong (Ngọc Hồi, Kon Tum), Nứa không tai Côn Sơn (Chí
Linh, Hải Dương), Nứa có tai Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Nứa Bảo Lộc
(Bảo Lộc, Lâm Đồng – mô tả để so sánh). Các tác giả đã mô tả chi tiết về đặc
điểm hình thái, sinh thái của từng loài cụ thể.
Đồng thời nhóm nghiên cứu phát hiện ra 6 loài tre quả thịt dựa trên cơ sở cấu
tạo hình thái và giải phẫu hoa quả, sáu loài tre quả thịt đã được mô tả và định
danh để tạo nên một chi tre mới cho Việt Nam, đó là chi Tre quả thịt
(Melocalamus). Các loài đã được nhận biết là Dẹ Yên Bái (Melocalamus
yenbaiensis), Tre quả thịt Cúc Phương (M. cucphuongensis), Tre quả thịt Kon
Hà Nừng (M. kbangensis), Tre quả thịt Lộc Bắc (M.blaoensis), Tre quả thịt Pà
Cò (M. pacoensis) và Tre quả thịt Trường Sơn (M.truongsonensis).
Cũng trong đợt khảo sát này, Nguyễn Hoàng Nghĩa và nhóm nghiên cứu đã
phát hiện thêm một loài nứa mới cho Việt Nam có tên là Nứa Sapa
(Schizostachyum chinenseRendle) được tìm thấy trong rừng lá rộng thường
xanh của Vườn Quốc gia Hoàng Liên (tỉnh Lào Cai), tác giả đã mô tả về đặc
điểm hình thái, sinh học của loài.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tre nứa ở Việt Nam còn nhiều điều
bí ẩn ngay đằng sau các con số. Rất có thể những bí ẩn này sẽ được giải đáp
vào một tương lai không xa. Và chắc chắn rằng sẽ còn có nhiều loài tiếp tục
được định tên, nhiều loài được phát hiện đóng góp thêm vào sự phong phú về
tre nứa sẵn có của Việt Nam. Chúng ta có quyền hy vọng rằng, một hoặc
nhiều loài trong số đó sẽ là những loài mới được bổ sung cho khoa học Việt
Nam và thế giới
Các nghiên cứu về kỹ thuật lâm sinh tương đối phong phú. Các nghiên cứu
tập trung các vấn đề nhân giống, khảo nghiệm, kỹ thuật gây trồng, kỹ thuật
chăm sóc và khai thác các loại riêng biệt. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ chú
trọng vào một số loài có giá trị kinh tế cao và trồng tập trung (ví dụ luồng, tre
điền trúc ), trong khi còn rất nhiều loài rất có tiềm năng phân bố trong rừng