Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong giờ đọc hiểu văn bản ngữ văn SKKN lớp10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.83 KB, 22 trang )

SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
LỜI NÓI ĐẦU
Hoà chung với xu thế đổi mới toàn diện của nền giáo dục hiện nay,
đổi mới phương pháp dạy học đang là một vấn đề cơ bản, trọng yếu được
đặt lên hàng đầu. Chúng ta không thể đưa vào chương trình học một lượng
tri thức mới và khó để yêu cầu học sinh nâng cao trình độ bắt nhịp cùng
thời đại nếu như không đồng thời đổi mới phương pháp dạy học. Với yêu
cầu đó, những phương pháp dạy học tích cực đã ra đời bên cạnh những
phương pháp truyền thống thúc đẩy hoạt động dạy học đạt được hiệu quả
cao hơn. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy không phải bao giờ các phương
pháp mới cũng được sử dụng một cách tích cực trong quá trình dạy học,
nhất là dạy học một môn có tính chất đặc thù như Ngữ văn.
Từ thực tế dạy học giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở trường
Trung học phổ thông Trần Phú với việc sử dụng phương pháp dạy học hợp
tác theo nhóm nhỏ đã khiến cho bản thân tôi có nhiều trăn trở. Do vậy tôi
lựa chọn đề tài “Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
(Thảo luận nhóm) trong giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở trường
Trung học phổ thông Trần Phú”, trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu
biết của bản thân, sau đó là nhằm đưa ra một cách hiểu đúng đắn về
phương pháp này giúp cho hoạt động dạy học Ngữ văn trong thực tế đạt
hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, do những hạn chế về kinh nghiệm giảng dạy và bề dày
tích luỹ kiến thức cho nên đề tài không thể tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Do vậy, bản thân tôi mong muốn có được sự quan tâm, góp ý của
những người tâm huyết với nghề dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói
riêng để bổ sung cho đề tài này đầy đủ hơn và ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
1
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong


giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
a. Cơ sở lí luận:
Trong thời đại ngày nay, không một dân tộc nào có thể đứng vững
ở vị trí tiên tiến mà thiếu sự học tập tích cực. Sự phồn vinh của một quốc
gia trong thế kỉ XXI sẽ phụ thuộc vào khả năng học tập của mọi người
trong đó thế hệ trẻ là lực lượng tiên phong. Chính vì vậy, hiện nay, không
chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đã đặt giáo dục vào vị trí
“quốc sách hàng đầu”, giáo dục được coi là nhân tố quan trọng nhất, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững xã hội.
Phương pháp giáo dục theo đó “phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dương cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”
Như thế, một trong những giải pháp trọng tâm nhằm phát triển giáo
dục đào tạo là đổi mới mục tiêu nội dung, chương trình giáo dục theo
hướng thiết kế nội dung GD-ĐT cho phù hợp yêu cầu của từng cấp học,
đảm bảo tính cơ bản, hiện đại nhưng tinh giản, vừa sức, tăng thực tiễn và
thực hành đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu của người học,
thực hiên nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp chặt
chẽ với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội là phương pháp hợp lí và có
thể mang lại hiệu quả thiết thực.
Hoà vào xu thế đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp
dạy học đặc biệt là DH hợp tác theo nhóm nhỏ trong giờ đọc- hiểu văn bản
Ngữ văn 10 nói riêng, lí luận ấy đã được kiểm nghiệm và chứng minh.
Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ (thảo luận nhóm) là phương
pháp dạy học tích cực giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ băn
khoăn, mâu thuẫn trong vấn đề nhận thức, từ đó bài học trở thành quá
trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo

viên. Trong hoạt động hợp tác tư duy tích cực của học sinh phải được
phát huy tối đa và năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức
lao động được rèn luyện.
Như vậy, với phương pháp dạy học hợp tác, giờ đọc hiểu văn bản
Ngữ văn đã tăng thêm khả năng linh động cho học sinh, tham gia tích
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
2
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
cực vào quá trình đổi mới phương pháp Dạy học Ngữ văn theo xu hướng
hiện đại.
b. Cơ sở thực tiễn:
Từ năm 2000 trở lại đây Bộ giáo dục đã thực hiên đổi mới nội dung
chương trình sách giáo khoa toàn diện từ bậc trung học cơ sở đến trung học
phổ thông. Theo đó, PPDH cũng có sự đổi mới theo xu hướng tích cực.
PPDH hợp tác theo nhóm được sử dụng rộng rãi hơn đã phần nào kích
thích được khả năng tư duy sáng tạo, linh hoạt của học sinh trong những
tình huống có vấn đề.
Thực tế cho thấy, trong một thời gian dài trước khi cải cách giáo
dục người ta đã từng quan niệm học văn là một quá trình thầy đọc, giảng,
cảm thụ còn trò chỉ là những cỗ máy ghi chép. Thế nhưng, trước yêu cầu
ngày càng cao của xã hội và sự bùng nổ về tri thức, thông tin đã đặt người
học trước một nhiệm vụ mới khó khăn hơn. Bản chất của sự học ngày nay
đã thay đổi. Học bao giờ cũng phải đi đôi với hành “học và hành phải kết
hợp chặt chẽ…phải gắn liền với thực tế những đòi hỏi của dân tộc, xã hội”.
PPDH hợp tác ra đời đáp ứng được yêu cầu đó.
Với giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn, giáo viên là người điều khiển,
hướng dẫn để học sinh tự khám phá ra vẻ đẹp của văn bản văn học. Chính
vì vậy, yêu cầu đặt ra cho HS là cần nhạy bén, linh hoạt và tư duy nhanh.
Mỗi PPDH tích cực đều giúp HS phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn

mà lâu nay bản thân các em chưa có điều kiện khám phá, bộc lộ. Từ đó, tạo
cho các em HS sự mạnh dạn, tự tin khi đứng trước tập thể.
Như vậy, phương pháp dạy học hợp tác trong giờ Đọc hiểu văn
bản Ngữ văn chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Với PP này,
trong giờ đọc hiểu văn bản HS không chỉ cảm thụ, rung cảm, cảm xúc
trước cái hay cái đẹp mà còn được vui vẻ trao đổi, thảo luận với bạn bè,
được tiếp thu tri thức mới và được tự do phát biểu những suy nghĩ, sáng
kiến của mình.
Thế nhưng, thực tế dạy học giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở
trường THPTTrần Phú khi sử dụng PP này còn gặp nhiều khó khăn và hạn
chế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc sử dụng PPDH hợp tác đạt được
hiệu quả như mong muốn?
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
3
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
Xuất phát từ tầm quan trọng của phương pháp này, từ thực tế dạy
học và những cơ sở nêu trên, bản thân tôi qua một thời gian giảng dạy
quyết định đi vào tìm hiểu nhằm đưa ra một vài giải pháp hợp lí thực hiện
tốt mục tiêu dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10.
2. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài.
+ Mục đích:
- Tìm hiểu thực tế dạy học, cung cấp hiểu biết cho bản thân mình.
- Cung cấp thêm cho đồng nghiệp, đặc biệt là các em học sinh cùng
những người quan tâm một vài kiến thức và hiểu biết về PPDH hợp tác
theo nhóm nhỏ.
+ Yêu cầu:
- Bám sát vào quá trình dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở
trường THPT Trần Phú
- Có những giải pháp thiết thực, hợp lí.

+ Nhiệm vụ:
- Khảo sát thực tế dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Trần Phú
- Đưa ra một số giải pháp bước đầu thiết thực cho việc sử dụng
PPDH hợp tác vào đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10.
3. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
+ Phương pháp khảo sát, điều tra.
+ Phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu vấn đề: “Sử dụng PPDH
hợp tác trong giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở trường THPT Trần Phú”
5. Giới hạn đề tài:
Thông qua khảo sát thực trạng sử dụng PPDH hợp tác bản thân tôi
mong muốn đưa ra cách hiểu đúng về bản chất của phương pháp này, đồng
thời tôi cũng đưa ra một vài giải pháp làm căn cứ giúp cho quá trình đọc
hiểu văn bản Ngữ văn 10 đạt hiệu quả hơn.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
4
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Đổi mới PPDH.
Trong những năm gần đây, hoà chung với xu thế toàn cầu hoá hội
nhập của nền kinh tế thế giới, giáo dục Việt Nam cũng ngày càng thay da
đổi thịt và có những bước tiến rõ rệt. Việc thực hiện đổi mới chương trình
GD phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương
pháp, phương tiện DH đến cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học
trong đó khâu đột phá là đổi mới PPDH.

PPDH là những hình thức và cách thức hoạt động của Giáo viên và
học sinh trong những điều kiện DH nhất định nhằm đạt được những mục
đích dạy học.
Theo đó, định hướng đổi mới phương pháp đã được ghi trong Luật
GD, điều 28.2: “PP giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học, bồi dưỡng PP tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Do vậy, đổi mới PPDH cần có
cuộc cách mạng về tư duy, từ tư duy đơn tuyến sang tư duy đa tuyến,
hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ
động có sẵn từ trước.
Xuất phát từ định hướng đó, mục đích của việc đổi mới PPDH ở
trường phổ thông là thay đổi lối truyền thụ một chiều sang dạy học theo PP
tích cực nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác , kĩ năng vận
dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong
thực tiễn : tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú học tập.
Yêu cầu đổi mới PPDH đặt ra trong nhà trường phổ thông là yêu
cầu mang tính toàn diện đặt Ban giám hiệu, giáo viên và học sinh trước
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
5
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
những nhiệm vụ mới khó khăn và thiết thực hơn nhằm đẩy mạnh hiệu quả
giáo dục:
- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động của HS.
- Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác, giữa hình
thức học cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa Giáo viên và học sinh,

giữa học sinh và học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng
cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện PP tư duy, năng lực tự học,
tự nghiên cứu của HS.
- Dạy học chú trọng việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị
dạy học….
- Dạy học chú trọng việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách
thức đánh giá và tăng cường hiệu quả đối với việc đánh giá.
Đổi mới PPDH cũng là quá trình đổi mới toàn diện và tích cực
trong đó mỗi PP đều có một ưu thế riêng khi kết hợp với nhau trong quá
trình dạy học chúng trở thành động lực cho dạy học đạt kết quả cao nhất.
1.2. Các phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC).
+ Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp truyền thống. PPDHTC được dùng với nghĩa là hoạt động,
chủ động, trái với hoạt động thụ động. PPDHTC hướng tới tích cực hoá
hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là phát huy tính tích cực, chủ động
của người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của
người dạy.
Muốn thực hiện dạy và học tích cực thì cần phất triển PP thực hành,
PP trực quan theo kiểu tìm tòi tong phần hoặc nghiên cứu, phát hiện, nhất
là khi dạy học các môn khoa học thực nghiệm.
Đổi mới PPDH cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của
PPDH truyền thống đồng thời cần học hỏi vận dụng một số phương pháp
mới phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy học để giáo dục tiến từng bước
vững chắc.
+ Theo hướng trên, nên phát triển một số PP sau đây:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
6
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong

giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
- Dạy học vấn đáp đàm thoại: Là PP giáo viên đặt ra những câu hỏi
để học sinh trả lời hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả GV, qua đó
HS lĩnh hội được nội dung bài học.
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Là GV tập dượt cho HS
vừa nắm tri thức mới vừa nắm PP chiếm lĩnh tri thức đó, khuyến khích HS
phát hiện và tự giải quyết vấn đề. Vấn đề cốt yếu của PP này là qua quá
trình gợi ý, dẫn dắt, nêu câu hỏi giả định, GV tạo điều kiện cho HS tranh
luận tìm tòi, phát hiện vấn đề thông qua các tình huống có vấn đề giúp các
em đưa ra nhận định, đánh giá cá nhân.
- Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ: Là PP giúp các thành viên chia
sẻ băn khoăn, suy nghĩ , kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dung
nhận thức mới.
Kết hợp với các PPDH truyền thống, mỗi PPDH tích cực có sự
đóng góp tích cực nhất định cho quá trình dạy học, điều quan trọng là
thành công của PP tuỳ thuộc vào khả năng ứng dụng của giáo viên và học
sinh, vào điều kiện ứng dụng của môi trường giáo dục.
1.3. PP dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ (Thảo luận nhóm)
+ Đây là một trong những PPDH tích cực , phù hợp với định hướng,
mục tiêu, yêu cầu đổi mới PPDH. Trong một xã hội đang phát triển theo cơ
chế thị trường, cạnh tranh gay gắt, thì việc hợp tác để trao đổi, bổ sung
cùng phát triển là một xu thế tất yếu. Do đó, dạy và học hợp tác có vai trò
quan trọng.
+ Đặc trưng của PPDH hợp tác: PPDH hợp tác giúp các thành viên
trong nhóm chia sẻ băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân cùng nhau xây
dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều mình đang nghĩ mỗi
người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình vầ chủ đề nêu ra , theo
mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.
+ Thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của

mỗi thành viên, vì vậy, PP này còn được gọi là PP cùng tham gia, nó như
một PP trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng học sinh với sự làm
việc chung của cả lớp. Trong hoạt động nhóm tư duy tích cực của HS phải
được phát huy và ý quan trọng của PP này là rèn luyện năng lực hợp tác
giữa các thành viên trong tổ chức lao động.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
7
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
+ Hình thức tổ chức: Trong nhà trường PPDH hợp tác được tổ
chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc nhà trường. Được sử dụng phổ biến trong
dạy học là hoạt động hợp tác theo nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Hoạt động
hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là lúc giải quyết những vấn đề gây
cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn
thành nhiệm vụ chung.
Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được chia
ngẫu nhiên hoặc có chủ định, ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi trong
từng phần của tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những
nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu ra nhóm trưởng nếu thấy cần, trong
nhóm có thể phân công mỗi thành viên làm một phần việc. Điều này giúp
cho mỗi người đều phải tích cực làm việc, không dựa dẫm, ỷ lại vào người
có hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau
tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm
việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả làm việc chung của cả lớp.
Đến khâu trình bày kết quả làm việc trong nhóm trước toàn lớp, nhóm có
thể cử một đại diện hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên nếu nhiệm vụ
học tập là khá phức tạp.
Như vậy, xuất phát từ yêu cầu đổi mới PPDH, các PPDH tích cực
trong đó có DH hợp tác theo nhóm nhỏ đã và đang dần dần khẳng định
được ưu thế của mình so với các PP truyền thống. Mặt khác, thông qua việc

sử dụng PP này, người GV cũng có thể đánh giá cụ thể và rõ ràng hơn về
khả năng học tập tích cực của HS giúp các em phát huy tốt khả năng của
mình, đồng thời có cơ hội để điều chỉnh uốn nắn những HS kém năng
động, nhiệt tình, dần dần đưa các em vào môi trường hoạt động tích cực
hoà nhập để chiếm lĩnh tri thức.
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT TRONG ĐỀ TÀI
2.1. Thực trạng vấn đề.
Song song với quá trình đổi mới nội dung chương trình, đổi mới
PPDH được đặt ra như một nhu cầu tất yếu và trọng yếu trong đổi mới dạy
học tại các trường PT. Thật vậy, tại tất cả các trường học từ THCS đến
THPT và các bậc học cao hơn đều giương cao khẩu hiệu đổi mới PPDH,
qua đó có thể hiểu đây là vấn đề mang tính chất cốt tử của toàn ngành
trong xu hướng hội nhập.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
8
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
Trường THPT Trần Phú mặc dù là một trường miền núi, điều kiện
kinh tế-xã hội còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất và đời sống của cả
GV và HS còn nhiều thiếu thốn tuy thế nhưng không hề lạc điệu với quá
trình đổi mới GD. Thực tế giảng dạy cho thấy, GV của trường ở mọi bộ
môn đều tích cực đổi mới PPDH, sử dụng phương tiện DH, thíêt bị DH
hiện đại vào quá trình giảng dạy và bước đầu đã có những thành công nhằm
nâng cao chất lượng dạy học. Đó quả là một dấu hiệu đáng mừng. Tuy
nhiên, quá trình sử dụng các PPDH mới, đặc biệt là DH hợp tác theo nhóm
nhỏ ở các bộ môn, đặc biệt là môn Ngữ văn còn có nhiều vấn đề đáng bàn.
2.1.1. Sử dụng PPDH hợp tác trong giờ Ngữ văn ở các trường THPT.
Dạy học hợp tác trong giờ Ngữ văn đã và đang được các trường
THPT áp dụng thường xuyên vào quá trình dạy học. Tất nhiên, việc sử
dụng PP này còn tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan , do vậy

vẫn chưa được áp dụng triệt để và chưa phát huy được tính tích cực của nó.
Qua số liệu nghiên cứu về mức độ sử dụng PPDH ở một số trường
THPT thí điểm phân ban (? tác giả) cho thấy, trong các PPDH thì PP thuyết
trình vẫn là PP được sử dụng nhiều hơn cả. Tuy nhiên, PP làm việc theo
nhóm cũng được sử dụng khá tích cực và triệt để trong các PPDH mới.
Môn Ngữ văn trong nhà trường cũng nằm trong thực trạng trên.
Sở dĩ có thực trạng trên đây là do qúa trình ứng dụng các PPDH
tích cực còn gặp một vài khó khăn, cản trở: Một là do tâm lí học đối phó
thi cử của HS, hai là do điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn thiếu
thốn, ba là thi cử đánh giá chưa khuyến khích PP tích cực, các kiến thức
cần truyền đạt nặng so với thời gian, bốn là kiến thức năng lực của GV về
đổi mới PP còn hạn chế…
2.1.2. Sử dụng PPDH hợp tác trong giờ Ngữ văn ở trường THPT Trần Phú.
a. Thực trạng

.
Tại trường THPT Trần Phú việc sử dụng PP này cũng khá tích cực,
nhất là trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn - một môn học có tính chất
đặc thù. Giờ Ngữ văn khác tất cả các giờ học khác, bởi nó đòi hỏi sự cảm thụ,
độ nhạy cảm, tinh tế cao hơn. Do đó, nếu không khéo léo khi sử dụng PP này
giờ Ngữ văn dễ dẫn đến nguy cơ vỡ vụn cảm xúc, thiếu sự rung cảm.
Với 3 phân môn chính: Tiếng Việt - Làm văn - Đọc hiểu văn bản,
khả năng sử dụng PPDH hợp tác của môn Ngữ văn nhiều hơn và thuận lợi
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
9
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
hơn là ở giờ tiếng Việt và làm văn do đặc thù của hai giờ học này là học
sinh tự khám phá kiến thức có sẵn lựa chọn và phân tích để có đáp án chính
xác. Mặt khác, hai giờ học này ít cần độ nhạy cảm cảm thụ so với giờ đọc

hiểu văn bản.
Ngược lại, trong một giờ đọc hiểu văn bản, để đánh giá một tiết dạy
là thành công có sử dụng các PP và phương tiện hiện đại cũng cần phải cân
nhắc nhiều.Đành rằng sử dụng được các PPTC nhất là PPDH hợp tác là
một thành công lớn, thế nhưng cần tránh khuynh hướng cho rằng tổ chức
hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu của đổi mới PPDH.
* Mặt tích cực

: Qua dạy học, điều tra, khảo sát giờ đọc hiểu văn
bản Ngữ văn 10 tại trường THPT Trần Phú bản thân tôi nhận thấy có
những dấu hiệu tích cực, đáng mừng vì GV Ngữ văn của trường hầu hết đã
sử dụng PP này vào dạy học và khẳng định một số thành công bước đầu so
với các PP truyền thống. Cụ thể:
+ So với các PP truyền thống, đặc biệt là PP thuyết trình, dạy học
hợp tác được sử dụng hiệu quả hơn.
VD

: Trong giờ Đọc hiểu văn bản Tấm Cám- Ngữ văn 10, tập 1 tại
lớp 10A2
Khi được giao thảo luận vấn đề : “Những hình ảnh biến hoá của
Tấm có điểm nào giống nhau? Theo anh (chị) đâu là vẻ đẹp của lần biến
hoá cuối cùng?”
Kết quả

: HS đã thảo luận và tranh luận rất sôi nổi, mỗi em lại có
những kiến giải riêng. Có em cho rằng : Lần biến hoá cuối cùng mang vẻ
đẹp tươi mới (vì Tấm bước ra từ quả thị); có em khác lại cho rằng: Đó là vẻ
đẹp nhân văn (vì nó gắn liền với tục ăn trầu của người Việt Nam ta)…….→
Như vậy, giờ học trở nên tự nhiên hơn và các em được trao đổi với nhau để
tự giải quyết khúc mắc.

+ HS hăng hái khi được học theo PP mới tự tìm tòi tri thức cho mình.
VD

: Cũng trong giờ Đọc hiểu văn bản Tấm Cám tại lớp 10A3
Khi đưa ra vấn đề thảo luận: “Hành động trả thù của Tấm ở cuối
tác phẩm có ý nghĩa gì? Theo anh (chị), cô Tấm có hiền như ban đầu ta
nhận định không?”
Kết quả

: HS cũng thảo luận rất sôi nổi và các em đã đưa ra những
nhận định như sau:
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
10
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
- Cô Tấm vẫn hiền như ban đầu chúng ta nhận định và kết cục là
xứng đáng.
- Cô Tấm độc ác và không nhất thiết phải trả thù mẹ con Cám dã
man như vậy vì nếu như đã có quy luật ác giả ác báo thì tất nhiên mẹ con
Cám sẽ bị trừng trị mà không cần đến Tấm.
- Cô Tấm vừa hiền, vừa ác…
→ Như vậy, việc học trở nên nhẹ nhàng mà học sinh lại thấy hứng thú.
+ GV làm việc bớt sự căng thẳng và giờ học có không khí sôi động
hơn, giảm tải sức ì của HS trong giờ học, đặc biệt là giờ đọc hiểu văn bản
Ngữ văn.
Nếu như với cách dạy cũ và PP cũ, giáo viên là những chiếc radio
và học sinh là những cỗ máy ghi chép thì ở PPDH hợp tác HS tự làm việc
dưới sự điều khiển, hướng dẫn chung của GV và kiến thức các em khám
phá được khi tổng hợp lại chính là những vấn đề cần ghi nhớ.
* Mặt hạn chế


: Trên đây là những hiệu quả bước đầu khi sử dụng
DH hợp tác theo nhóm trong giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10. Tuy nhiên,
vẫn còn một vài tồn tại và hạn chế như sau:
+ Việc sử dụng PPDH hợp tác chưa triệt để chưa phát huy được
hiệu quả và tác dụng của nó.
+ Hình thức tổ chức chưa đa dạng, phong phú, chưa đáp ứng đựoc
yêu cầu của PP với bài học.
b. Nguyên nhân

.
Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ hai phía cả GV và
HS. Cụ thể:
b.1. Về phía GV: Sở dĩ ít cho HS thảo luận hợp tác là vì:
- Thời lượng một tiết học với 45 phút không chỉ dành cho sử dụng
PP DH hợp tác mà con cần phải sử dụng các PP khác nữa. Tất nhiên, điều
này hoàn toàn có lí.
- Mặt khác, tuỳ từng vấn đề người GV mới đưa ra cho HS thảo luận
chứ không phải vấn đề nào cũng có thể đem ra thảo luận được. Có vấn đề
GV đưa ra HS không trả lời được cuối cùng GV lại tự trả lời.
- Một lí do khác là khi cho thảo luận, hầu hết các em đều túm tụm
bàn về một vấn đề nào đó mà GV không thể quán xuyến hết. Trong khi 1
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
11
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
tiết học chỉ có thể cho HS thảo luận 1 - 3 lần, mỗi lần 3 - 5 phút đó là tối
đa, mà HS chỉ toàn làm việc riêng dẫn đến vấn đề đã không được giải
quyết lại còn mất thời gian, dễ cháy giáo án, nhất là trong những giờ thao
giảng của GV.

b.2. Về phía HS:
- Nhiều em chưa hiểu được bản chất của dạy học hợp tác (thảo luận nhóm).
Cụ thể là khi tôi đưa ra câu hỏi: “Em hiểu thế nào là Thảo luận
nhóm”? thì có em HS trả lời rất hồn nhiên: “Thưa cô là hai hoặc ba người
quay lại với nhau ạ”.
Chính thực trạng rên đây đã dẫn đến một thực tế khác đó là nếu
được giao thảo luận hợp tác với nhau thì nhiều em cũng chỉ làm việc riêng
hoặc ngồi chơi chứ không chú tâm vào vấn đề đang thảo luận thậm chí
ngay cả những học sinh được gọi là học khá cũng vậy.Tất nhiên không thể
phủ nhận hợp tác được hay không còn tuỳ thuộc vào vấn đề thảo luận GV
đưa ra. Thế nhưng, do chưa hiểu bản chất của học hợp tác nên các em
không thể đạt được hiệu quả tối ưu của PP này và do vậy quá trình dạy học
của GV cũng bị ảnh hưởng không nhỏ.
- Mặt khác, khi được phân công thảo luận nhiều học sinh không biết
công việc cụ thể của mình là gì. Nghĩa là các em chưa biết chia việc ra để
làm mà cứ để vấn đề như thế thảo luận dẫn đến kết quả khi báo cáo không
còn là trí tuệ tập thể nữa mà nó đã biến thành trí tuệ của cá nhân của những
người học khá thay mặt cho nhóm.
VD1

: Trong giờ đọc hiểu văn bản Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm .
Khi tôi đưa ra vấn đề thảo luận: Phân tích biểu hiện của thú nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tác phẩm( dựa theo câu hỏi trong Sgk), mỗi
nhóm phân tích một biểu hiện, sau đó trình bày.
Kết quả

: HS phân tích một cách rời rạc không khái quát được ý
chính, ý phụ cho nên cũng chưa chỉ ra được ý nghĩa của thú nhàn theo điểm
nhìn của tác giả.
VD2: Khi đọc hiểu văn bản Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão.

Với vấn đề thảo luận: Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là do đâu? ý nghĩa?
Kết quả

: Hs đa phần chỉ dựa vào tài liệu để biết tác giả thẹn với Gia
Cát Lượng (Vũ Hầu), nhưng chưa chỉ ra được : thẹn vì chưa có tài mưu
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
12
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
lược + thẹn vì chưa lập được công trạng lớn cứu nước, giúp đời. Đó là nỗi
thẹn của người có nhân cách lớn lao, cao cả.
Như vậy, về cơ bản cũng chỉ có một nguyên nhân khiến cho DH
hợp tác không thể tiến hành thường xuyên và không đạt được hiệu quả như
mong muốn vì bản thân các em không hiểu nên tiến hành thảo luận thế nào
và cũng không nắm vững kiến thức của bài học nên lúng túng khi được
giao cho thảo luận.
Mặc dù đã và đang được ứng dụng tích cực trong nhà trường THPT
Trần Phú thế nhưng dạy học hợp tác vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả tốt
nhất . Thực trạng dạy học trong giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn với việc ứng
dụng DH Hợp tác trên đây khiến bản thân tôi có nhiều điều băn khoăn, trăn
trở. Sự tích cực của GV trong đổi mới PP DH không có nghĩa lí gì nếu HS
không biết cách để tiếp ứng và tiếp cận với nó.
2.2. Những giải pháp bước đầu.
Tuy là một giáo viên mới vào nghề, kinh nghiệm còn non nớt,
nhưng qua một thời gian công tác giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy đây là
vấn đề đáng quan tâm. Từ thực tế giảng dạy và bằng PP điều tra phỏng vấn,
bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp bước đầu làm căn cứ cơ sở
cho việc ứng dụng DH hợp tác trong giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn ở
trường THPT Trần Phú đạt hiệu quả hơn như sau:
2.1.1. Về phía GV.

+ Cần kiên trì sử dụng PPDH tích cực bên cạnh những PP truyền thống.
Sở dĩ cần như vậy vì, muốn đổi mới cách học trước hết phải đổi
mới cách dạy. Cách dạy quyết định cách học. Tất nhiên thói quen học tập
thụ động của HS cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy. Mặt khác, cũng có
trường hợp HS mong muốn được thảo luận, học hợp tác với các bạn nhưng
GV lại chưa đáp ứng được. Do đó, GV cần phải kiên trì cách dạy theo PP
tích cực, đặc biệt là với DH hợp tác, tổ chức các hoạt động nhận thức từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, hình thành thói quen cho HS.
Trong đổi mới PP phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt
động dạy và hoạt động học thì mới có hiệu quả.
+ Khi cho HS học hợp tác, GV cần lựa chọn đúng vấn đề thảo luận.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
13
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
Không thể lấy một vấn đề mang tính chất tái hiện cho HS thảo luận
vì vấn đè thảo luận phải là vấn đề chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong nhận
thức, kích thích hứng thú tìm tòi và khám phá của HS.
VD

: Khi dạy văn bản Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ,
GV có thể đặt ra vấn đề thảo luận như sau: “Trong 4 câu thơ đầu, cảnh thu
đã được tác giả cảm nhận và thể hiện như thế nào”? (HS làm việc theo
nhóm thảo luận từ 5-7 phút).
Kết quả

:
- Nhóm 1(2 câu đề): Cảnh thu lạnh lẽo, tiêu điều, xơ xác, hiu hắt.
- Nhóm 2(2 câu thực): Cảnh thu hoành tráng, dữ dội, âm u, dồn nén.
Các nhóm khác cùng làm việc tương tự, sau đó GV đối chiếu, so

sánh kết quả với nhau và đi đến tổng kết đưa ra nhận định cuối cùng.
Hoặc

có thể cho HS thảo luận vấn đề: “Ở 4 câu sau, cảnh thu đã có
sự thay đổi như thế nào? điều đó hé lộ tầm nhìn của tác giả ra sao? Vì sao
có sự thay đổi ấy”?
Kết quả

: HS sau khi thảo luận sẽ phát hiện được:
- Cảnh thu được quan sát gần hơn: khóm cúc, con thuyền.
- Tầm nhìn của tác giả: từ không gian xa (4 câu đầu) đến không
gian cận kề (4 câu sau).
- GV tổng kết và chỉ ra sự vận hành của tứ thơ cũng như tâm tư tình
cảm của tác giả.
+ Cách đặt vấn đề, câu hỏi thảo luận của GV cần tích cực, chủ
động, mang tính chất gợi để HS phát hiện vấn đề.
HS có hảo luận được hay không và phát hiện được vấn đề đến đâu
là tuỳ thuộc vào vấn đề mà giáo viên đưa ra. Không thể ôm đồm một vấn
đề quá khó cho các em thảo luận, cũng không thể đưa ra một vấn đề táI
hiện để đòi hỏi các em tư duy tập thể. Do vậy cách đặt câu hỏi và đưa ra
vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong dạy học hợp tác.
VD

: Khi đọc hiểu văn bản Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
GV đưa ra vấn đề: Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi để học sinh thảo
luận nhóm.
Vẫn biết đây là một trong những nội dung chủ yếu khi học văn bản
này, thế nhưng, vấn đề này quá lớn và biên độ rộng, do đó HS thảo luận sẽ
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
14

SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
thiếu sự tập trung, bám sát vào văn bản, cho nên cần gợi cho HS bằng
những câu hỏi nhỏ.Ví dụ như:
- Tác giả cảm nhận thiên nhiên bằng nhiều giác quan hết sức tinh
tế. Điều đó giúp anh chị hiểu gì về tình cảm của tác giả với TN?
- Cảnh vật giàu sức sống cho thấy con người đang ở trạng tháI tâm
lí thế nào?
- Câu 6 chữ kết thúc bài thơ thể hiện nội dung gì và có vị trí như
thế nào trong cả bài thơ?
Kết quả

: HS qua thảo luận có thể rút ra vẻ đẹp tâm hồn ức Trai thể
hiện ở 3 điểm: Yêu thiên nhiên; Yêu đời; Yêu cuộc sống; Tấm lòng ưu ái
với dân, với nước.
+ GV cần giúp đỡ nhau ứng dụng các PPDH tích cực trong đó có
DH hợp tác, sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại vào dạy học đáp
ứng nhu cầu đổi mới giáo dục toàn diện.
Như vậy, quá trình sử dụng PPDH hợp tác không chỉ phụ thuộc vào
HS mà yếu tố đầu tiên phải kể đến đó là từ phía GV. Dạy và học là hai quá
trình diễn ra song song đồng thời, trong đó người GV có vai trò tổ chức,
điều khiển, hướng dẫn, cho nên cần phải định hướng thay đổi trước khi áp
dụng cho HS.
2.1.2. Về phía HS.
+ Cần hiểu đúng bản chất của hoạt động DH hợp tác và hình thức
tổ chức của nó.
Để làm được điều này dĩ nhiên cần phải có GV vì HS không thể tự
khám phá ra bản chất và hình thức tổ chức hoạt động học hợp tác. Cho nên,
GV có thể qua hoạt động ngoài giờ, qua những tiết trả bài kiểm tra, thực
hành dành khoảng thời gian nhất định để giảng thêm cho HS hiểu.

Trường THPT Trần Phú điều kiện tài liệu còn nhiều khó khăn, đặc
biệt là sự không đồng đều về trình độ nhận thức dẫn đến đây là một yêu
cầu tất yếu.
HS cần hiểu:
- DH hợp tác giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn
khoăn kinh nghiệm của bản thân cùng nhau xây dựng nhận thức mới bằng
cách nói ra điều mình đang nghĩ.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
15
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
- Cấu tạo của một tiết học hoặc một buổi làm việc theo nhóm có thể
như sau:
1. Làm việc chung của cả lớp.
a. Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
b. Tổ chức các hoạt động nhóm, giao nhiệm vụ.
c. Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
2. Làm việc theo nhóm.
a. Trao đổi ý kiến, thảo luận theo nhóm.
b. Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi
ý kiến.
c. Cử đại diện trình bày kết quả của nhóm.
3. Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp.
a. Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
b. Thảo luận chung.
c. GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài hoặc vấn đề tiếp theo.
Thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của
các thành viên, vì vậy phương pháp này còn được gọi là PP cùng tham gia,
nó như một PP trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng HS với sự làm
việc chung của cả lớp.

+ Cần nhiệt tình, chủ động trong quá trình tìm hiểu tri thức mới.
Không thể có sự thành công trong giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn
nhất là khi sử dụng PPDH hợp tác khi HS không có sự chủ động nhiệt tình
tham gia. Thành công chỉ thực sự đến khi nào HS chủ động tích cực theo,
đó mới có thể huy động được tri thức tập thể vào quá trình tìm hiểu, khám
phá các đơn vị kiến thức của bài học.
+ Cần rèn luyện kĩ năng Đọc- hiểu văn bản.
Điều quan trọng nhất của một giờ Đọc hiểu văn bản là HS phải có
khả năng cảm thụ, có xúc cảm với tác phẩm văn chương.Từ kĩ năng “Đọc”
đến kĩ năng “Hiểu” đó là cả một quá trình cần rèn luyện và HS không thể
học xong một giờ đọc hiểu văn bản, không thể nói là ứng dụng PPDH hợp
tác một cách tích cực khi không có khả năng rung cảm. Nếu chỉ có sử dụng
PPDH tích cực mà không có sự rung cảm thẩm mĩ trong Đọc hiểu văn bản
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
16
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
Ngữ văn thì đó là PP rỗng tuếch. Cho nên, đọc hiểu là kĩ năng quan trọng
mà HS cần củng cố kịp thời.
VD

: Khi đọc hiểu văn bản “Trao duyên” ;“Nỗi thương mình”
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nếu thiếu sự cảm thụ tinh tế thì:
- Không hiểu được nỗi niềm tâm sự của Kiều khi trao duyên cho em
(Vì sao lại là cậy mà không là nhờ,chịu; là lạy, thưa mà không là nói, bảo;
Vì sao lại là người thác oan, hồn còn mang nặng lời thề……… ).
- Không hiểu được tâm trạng của Kiều với nỗi niềm âm ỉ đêm ngày
trước cảnh: Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh……
Bởi vậy, HS cần tích cực đọc hiểu, tham khảo, rèn luyện khả năng
cảm thụ của mình cho ngày càng tinh tế để phát hiện được nhiều vấn đề

trong quá trình thảo luận, hợp tác với bạn bè.
Tóm lại, để có thể sử dụng PPDH hợp tác trong giờ đọc hiểu văn
bản Ngữ văn THPT đạt thành công là điều tương đối khó. Khó bởi tính chất
đặc thù của môn học. Mặt khác, cần tránh khuynh hướng hình thức và đề
phòng lạm dụng cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu
nhất của đổi mới PPDH, hoạt động nhóm càng nhiều thì PP càng đổi mới.
Thế những khó không có nghĩa là không thực hiện được. Điều quan trọng
là cần nắm bắt được vị trí vai trò của nó trong nhóm PPTC và áp dụng với
các PP truyền thống để có hiệu quả cao nhất trong dạy học.
Từ thực trạng khảo sát, điều tra sơ bộ ở khối lớp 10 trường THPT
Trần Phú với những giải pháp bước đầu cá nhân tôi mong muốn giờ đọc
hiểu văn bản Ngữ văn ngày càng đạt hiệu quả cao hơn hoà chung vào xu
hướng đổi mới của toàn ngành giáo dục trên đường hội nhập.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Thực tế tìm hiểu và nghiên cứu đã giúp tôi nhận ra vai trò tích cực của
PPDH hợp tác( Thảo luận nhóm) trong giờ đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10. Tuy
nhiên, thực trạng sử dụng PP này trong dạy học ở trường THPT Trần Phú khiến
cho tôi có nhiều suy nghĩ.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
17
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
Mặc dù chưa có bề dày tích luỹ kinh nghiệm giảng dạy nhưng bản thân
tôi vẫn mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp, hi vọng có thể giúp ích được cho quá
trình đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10 ở trường THPT Trần Phú, giúp hạn chế dần
tính chất đặc thù của môn học đồng thời kết hợp tốt với các phương pháp truyền
thống để đưa quá trình dạy học đạt đến mục tiêu cao nhất theo xu hương đổi
mới, hiện đại.
3.2. Kiến nghị.

Để thực hiện đổi mới PPDH, đặc biệt trong dạy học Ngữ văn không phải
là điều đơn giản và dễ dàng. Do vậy, cần có sự phối hợp các cấp một cách chặt
chẽ và có hiệu quả. Cụ thể:
+ Ban giám hiệu cần phải trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi sáng
kiến, cải tiến dù nhỏ của GV và hướng dẫn, giúp đỡ GV vận dụng PPDH tích
cực trong đó có dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ( Thảo luận nhóm) một cách
thích hợp và có hiệu quả. Mặt khác, cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học cho GV và HS để quá trình DH đạt được hiệu quả cao hơn.
+ Các cán bộ, GV cần phải giúp đỡ nhau hoàn thiện và nâng cao trình
độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt cho việc dạy học.
+ Mỗi GV cần không ngừng rèn luyện để nâng cao tri thức và hiểu biết,
tâm huyết với nghề và luôn trăn trở về nghề, về bài học giúp cho bài học trở nên
phong phú hơn, sinh động hơn, tránh sự nhàm chán của HS.
Sử dụng PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ ( thảo luận nhóm) vào dạy học
luôn luôn là điều mà bản thân tôi cũng như tất cả các GV dạy Ngữ văn của
trường THPT Trần Phú luôn mong muốn và tích cực ứng dụng. Thế nhưng
những hạn chế trong quá trình dạy học là điều bất khả kháng và không thể tránh
khỏi. Do vậy, chúng tôi hi vọng có một sự đánh giá công bằng và chuẩn xác với
việc ứng dụng các PP DH, phương tiện dạy học mới của môn Ngữ văn nói riêng
và các môn học khác nói chung vào quá trình dạy học.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
18
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức; Lí luận văn học; Nxb GD- 1993.
2. Phan Trọng Luận (chủ biên) - Trương Dĩnh; Phương pháp dạy học
Văn, tập 1; Nxb GD- 2001.
3. Phan Trọng Luận (chủ biên); Thiết kế bài học Ngữ văn 10; Nxb GD-
2006.

4. Nguyễn Kim Phong (chủ biên); Kĩ năng đọc hiểu văn bản Ngữ văn
10; Nxb GD- 2006.
5. Nguyễn Khánh Toàn; Một số vấn đề giáo dục của Việt Nam; Nxb GD
6. Luật giáo dục (6/2005).
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 10 môn Ngữ
văn; ; Nxb GD- 2006.
8. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình Sgk 11 môn
Ngữ văn; ; Nxb GD - 2007.
9. Sgk Ngữ văn 10, tập 1; Nxb GD- 2006.
10. Sgk Ngữ văn 10, tập 2; Nxb GD- 2006.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
19
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
PHẦN 5: MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu….………………………………… ……………… 1.
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ….…………………………………………….…… 2.
1. Lí do chọn đề tài…….……………… 2.
2. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài……… ………………….… 4.
3. Phương pháp nghiên cứu……………….… ……………… 4.
4. Đối tượng nghiên cứu 4.
5. Giới hạn đề tài…………….……… ………………………………… 4.
PHẦN 2: NỘI DUNG……… ……………………………………… 5.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN.
1.1. Đổi mới PPDH…………….……… ……………………………… 5.
1.2. Các PPDH tích cực………… …………………….……… …… 6.
1.3. Phương pháp DH hợp tác theo nhóm nhỏ ……………… … … 7.
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT TRONG ĐỀ TÀI.
2.1. Thực trạng vấn đề…………………….…………………………… 8.

2.1.1. Sử dụng PPDH hợp tác trong giờ Ngữ văn ở các trường THPT 9.
2.1.2. Sử dụng PPDH hợp tác trong giờ Ngữ văn ở trường THPT Trần Phú 9.
Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
20
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
a. Thực trạng…………… …………………………………………… 9.
b. Nguyên nhân…………… …………………………………………… 11.
2.2. Những giải pháp bước đầu……………………… … 13.
2.2.1. Về phía GV…………………………………… … ….13.
2.2.2. Về phía HS………………………………… 15.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận…………………………………… …………….… 17.
3.2. Kiến nghị…………………………………………… 17.
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO 19.
PHẦN 5: MỤC LỤC……………………… 20.

















Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
21
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong
giờ Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10








Giáo viên: Nguyễn Thị Hoa
22

×