Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.25 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức
và thực tiễn, phương pháp biện chứng luơn là cơ sở, là phương hướng và
tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát
từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách
giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay
không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự
chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới,
mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho
hoạt động.
Nhận thức được vấn đề đó và nhờ sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Hồng,
nhóm 03 đã lựa chọn đề tài : “Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan
hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận” để nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, trên tinh thần đoàn kết và cố gắng rất nhiều
của nhóm nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong cơ và các bạn
góp ý để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn,
Các thành viên nhóm 3
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
2
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1.1 Thực tiễn
1.1.1 Khái niệm
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh
vực quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Là những hoạt động vật
chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải


tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương
tiện vật chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay
xã hội, làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu
của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực
sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất
của thực tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý
luận của con người.
1.1.3. Tính chất lịch sử xã hội
ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác
nhau, thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ
muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con
người trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản
của sự tồn tại xã hội của con người.
1.1.4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện
thực mới, một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
3
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện
này không được giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá
trình đó, con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải
tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện
khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con người không thích nghi một
cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để
biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn:

a/ Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật
chất là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con
người đối với thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các
loài vật.
b/ Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm
phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn
rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng
với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c/ Hoạt động thực nghiệm khoa học
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới
riêng cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
1.1.5 Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đớch, là
tiêu chuẩn của nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan,
bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc
tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
4
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình
thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát
triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển
hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các

phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
+ Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho
nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị
những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự
nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong
phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên
bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển
của sự vật.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng
vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các
tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật
chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt
nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
5
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh
của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức
đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a. Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con

người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ:
chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong
quá trình nhận thức của nhân loại.
b. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật
chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm
tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai,
có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người
cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể
chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó
được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
6
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy
mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của
nhận thức.
c. Ý nghĩa
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế
thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội
mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế
cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản

xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách
cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
1.2 Lý luận
1.2.1 Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
1.2.2. Đặc điểm
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã
hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
1.3 Sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý
luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn
từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
7
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
1.3.1. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực
tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại
và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng
là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực
tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
1.3.2. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp
vô sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó
được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý

luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời
lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri
thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan,
từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể
là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
1.3.3. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì
chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó
là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
1.3.4. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi
mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến
mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
8
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là
lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu
như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt
xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố
gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không
đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là
cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài

giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy
tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối
với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và
hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các
mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ
nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng
không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới.
Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá
trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình.
Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc.
Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ VI.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
9
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
1.3.5. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi
nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng
lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động
cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng
tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá

chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và
từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng
vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một
cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”.
+ Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được
hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác,
biểu tượng
+ Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động
mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng
chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận
thức phải trở về với thực tiễn vì:
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
10
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận
thức.

- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại
làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản
ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
11
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
CHƯƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
2.1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện
cụ thể của nước ta
Như vậy là thực tiễn đổi mới ở nước ta những năm qua đó khẳng định
vai trò của triết học Mác-Lênin, khẳng định ý nghĩa thế giới quan và phương
pháp luận của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin trong đó có triết học của nó cho đến
nay vẫn là học thuyết tiến bộ nhất, chưa một học thuyết nào có thể thay thế
được, vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho nhận thức và hành động
cách mạng của chúng ta, vẫn là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản như Mác
đã nói cách đây trên 150 năm
Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ, khó khăn và phức tạp của nó
đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở
thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động
thực tiễn. Phải khắc phục tình trạng trước đây thường vắng bóng lý luận khi
thông qua những quyết định quan trọng và do vậy buộc phải ra quyết định
trên cơ sở thuần túy kinh nghiệm. Phải tạo cơ sở thế giới quan khoa học, tạo
niềm tin cho cán bộ, Đảng viên trong quá trình đổi mới theo định hướng
XHCN trước những biến động sâu sắc, đầy kịch tính của thời đại. Muốn vậy
cần phải có lý luận triết học. Không thể đổi mới thành công nếu thiếu mặt tư
duy triết học sâu sắc. Triết học Mác–Lênin chính là cơ sở thế giới quan và

phương pháp luận cho công cuộc đổi mới của chúng ta.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
12
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
2.2 Nghiân cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và
quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lờn
CNXH
Từ cuộc khủng hoảng tài chính toán cầu năm 2008, chúng ta có thể thấy
được mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong cuộc ứng phó
với cuộc khủng hoảng này của Trung Quốc và Việt Nam
Như vậy, điều hết sức thú vị là, từ cuộc khủng hoảng lần này, chúng ta tự
hào và có cơ hội để nhìn lại sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác, bởi lẽ
nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn
cầu hiện nay, về cơ bản, vẫn không nằm ngoài nguyên nhân mà C.Mác đã
từng phát hiện: đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất trên quy mô toàn cầu với quan hệ sản xuất và các quyền lực tư
bản đã tỏ ra thiếu hiệu quả và mất khả năng kiểm soát đối với các hình thức tổ
chức kinh doanh do chính các quyền lực đó tạo ra; rằng sự mở rộng quá mức
của tự do hoá và các vấn đề toàn cầu đang mâu thuẫn sâu sắc với các thể chế
quản trị mang tính quốc gia; rằng sự buông lỏng vai trò và thiếu khả năng
kiểm soát của các nhà nước đang làm cho tính vô chính phủ của thị trường lấn
át, thậm chí có thể đe doạ đến sự tồn vong của cả hệ thống kinh tế - xã hội.
Một số nhà kinh tế nổi tiếng và có cả chính khách phương Tây cho rằng: Việc
áp dụng giáo điều, cứng nhắc mô hình kinh tế của chủ nghĩa tự do mới là sai
lầm tệ hại và đã đến lúc phải từ bỏ nó. Giáo sư Giơ-xộp Xti-glít đã viết: Mỹ
đã xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị tu sĩ cao
cấp nhất của trường phái đó là A-lan Grin-xpan giờ cũng phải thừa nhận là
Mỹ đã sai lầm nghiêm trọng trong việc chủ tâm xuất khẩu một thứ văn hoá
doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội; và cuối cùng Mỹ đã xuất khẩu cả
sự suy thoái đi bốn phương. Tổng thống Pháp N.Xác-cơ-di tuyên bố: Phải

Nhúm 3 – CH19L - KTQD
13
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
chỉnh đốn lại chủ nghĩa tư bản theo một mô hình khác, bởi hệ thống thị
trường tự điều tiết qua rồi. Dường như các thất bại của thị trường không thể
được sửa chữa bằng các năng lực quản trị nhiều bất cập của nhà nước và
ngược lại, các thất bại của nhà nước lại không dễ khắc phục khi thị trường đã
mang tính chỉnh thể toàn cầu, nhiều tương tác và khó dự đoán. Đây chính là
biện chứng của sự phát triển mới mà phương pháp luận của C.Mác vẫn giữ
nguyên giá trị, giúp chúng ta nhận diện một cách tổng thể mối tương tác giữa
chu kỳ phát triển với các vấn đề cơ cấu, thể chế diễn ra đồng thời. Chính vào
lúc cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra hiện
nay, những tư tưởng khoa học của C.Mác lại càng toả sáng với "cường độ" rất
mạnh; và ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa phát triển - trung tâm của cuộc
khủng hoảng này, nhiều học giả tư sản lại đang "đổ xô" tìm mua và nghiên
cứu lại bộ Tư bản của C.Mác. Việc trở lại và nắm cho thật vững, sâu sắc,
đúng đắn những tư tưởng khoa học và nhất là những giá trị về mặt phương
pháp luận của C.Mác lại càng cần thiết hơn bao giờ hết đối với các nhà lý
luận mác-xít chân chính.
Từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu lần này, chúng
ta phải xem xét lại một cách nghiêm túc, trên tinh thần phê phán khoa học, cả
các mô hình thực tiễn và các lý thuyết kinh tế thị trường đã từng được hay
đang được sử dụng. Trong quá trình loài người còn phải tiếp tục sử dụng lâu
dài kinh tế thị trường, thì không một ai có thể quả quyết rằng sẽ loại trừ được
hoàn toàn các cuộc khủng hoảng. Nhưng rõ ràng là các tổ chức quốc tế, các tổ
chức khu vực, chính phủ và giới kinh doanh ở tất cả các nước đều phải có
trách nhiệm quản lý, hoàn thiện kinh tế thị trường theo những phương pháp
mới ngày càng khoa học và dân chủ hơn, hướng kinh tế thị trường vào những
tiến bộ xã hội ngày càng lành mạnh và nhân văn hơn, làm cho những mong
muốn và nhu cầu cơ bản, đa dạng về cả vật chất và tinh thần của các cá nhân,

Nhúm 3 – CH19L - KTQD
14
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
các nhóm xã hội trong toàn bộ các hệ thống xã hội ngày càng phải được đáp
ứng tốt hơn.
2.3. Trong giáo dục, đào tạo phải kết hợp lý luận với thực tiễn, học
với hành
Chủ nghĩa Mác-Lênin vào được Việt Nam, tỏ rõ sức sống mãnh liệt,
được bổ sung và phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam là nhờ Chủ
tịch Hồ Chí Minh- Người luôn đứng vững trên nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác
– Lênin, những người cộng sản Việt Nam còn phải chống giáo điều trong vận
dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học
tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ
nghĩa giáo điều[2]. Tránh cả hai loại giáo điều này, thì biện pháp cơ bản là
phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam, trở
thành đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc.
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta
một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những
việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa
các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp
về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ,
đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh,
sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành
động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên
tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành
Nhúm 3 – CH19L - KTQD

15
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải
suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học
với hành phải kết hợp với nhau”.
2.4 Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm
khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận,
bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới
bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn
người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm,
cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn.
Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm
thâm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán
bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý
luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm
mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng" (Hồ Chí Minh, 1995,
tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy quân rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt,
nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi.
Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý
luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh , lý luận có vai trò hết sức to lớn
đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý
luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh
kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm
mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên
Nhúm 3 – CH19L - KTQD

16
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không
thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không
vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải
kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại
mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận
cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên
mà không bắn, hoặc bắn lung tung , cũng như không có tên" (Hồ Chí Minh,
1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở
thuần túy. "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không
áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dự xem được hàng ngàn,
hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một
cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234). Do đó, khi vận dụng
lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải
bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trị soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực
tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện
thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải
được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn luôn hòa quyện, thống nhất
với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề
cập tới nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt
khác nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu,
dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện
Nhúm 3 – CH19L - KTQD

17
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế,
gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965,
Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội,
công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu
niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh
viện, trường học Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ
tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó với
quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
18
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MAXÍT VỀ THỰC TIỄN VÀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA THỰC TIỄN & LÝ LUẬN
TẠI VIỆT NAM
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật
chất của nhân loại đó hỡnh thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một
mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó,
quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác, con người phải
quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện
chứng của một thể thống nhất không thể tách rời - phương thức sản xuất. Mỗi
phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định,
và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương
thức sản xuất, phương thức sản xuất cũ lạc hậu tất yếu được thay thế bằng
phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì
lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những
là thước đo thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm

bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà cũng làm thay đổi quan
hệ giữa người với người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của
toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã
hội, là cơ sở hiện thực hoạt động sản xuất tinh thần của con người của toàn bộ
những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đó đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều
giai đoạn của sự phát triển đó là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình
thành kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
19
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
- xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất.
Rằng sự vật và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động
của các quy luật khách quan.
P.Ang - ghen khẳng định "Lịch sử từ xưa đến nay đó tiến triển theo một
quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như
nhau". Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và "một xã hội
ngay cả khi đó phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó… cũng
không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dựng sắc lệnh để
xoá bỏ những giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút ngắn và
làm dịu bớt được những cơn đau đẻ". Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử
tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái kinh tế xã hội này
sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định mục tiêu:
3.1. Phát triển kinh tế và đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay

3.1.1. Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi
mới kinh tế hiện nay
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho
phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta
hiện nay. Phải dung hồ và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do
lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân,
đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
20
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu
thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự
nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý
luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều
kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý
luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý
luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức,
của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái
quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm,
vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi
quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong
thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều
điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đố chống lạm phát, vấn đề khoán trong
nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ

không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân
dân là rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi
thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự
nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi
mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không
hề coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng
cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
21
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận
động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
1) Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu
xã hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất
đối với sự phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát
triển sản xuất sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện
chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân
phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn
trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng
bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
2) Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế

hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới
thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3) Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu
với phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực
của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
4) Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở
một nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
22
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm
sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
5) Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội
những nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực
tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát
triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai
đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững
và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc
phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò
tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp,

đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận
cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị,
mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một
bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển
kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận
với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi
mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm
cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực,
là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
23
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai
sót và thiệt hại.
3.1.2. Ý nghĩa thực tiển
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây
dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Quán triệt nguyên tắc khách
quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ,
khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan

và tính năng động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách
mạng và tri thức khoa học bởi tri thức khoa học có được hay không là nhờ ở
lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát
huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng thêm tri
thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ
lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển nhận thức
mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan
để hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ
đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với
tri thức khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
24
Quan điểm mácxít về thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận
thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát
triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế
chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện
nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn
tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
3.2. Sự nghiệp hóa công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong
quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại.
3.2.1. Lý luận chung
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá vẫn đang được coi
là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với
nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế
- xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở
lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, chúng ta
phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để

nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. Ở đây
"công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn
với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao
và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệ hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến
tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình
thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công
nghệ thế giới.
Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái
kinh tế - xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, chúng ta hoàn
Nhúm 3 – CH19L - KTQD
25

×