MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KTXH Kinh tế xã hội
KH Kế hoạch
KHPT Kế hoạch phát triển
KHĐT Kế hoạch và Đầu tư
UBND Ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
KHH Kế hoạch hóa
CPRGS Chiến lược tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo
WB Ngân hàng thế giới
JICA Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
TC Tài chính
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Năm X Năm hiện tại
Năm X+1 Năm kế hoạch
TCKH Tài chính kế hoạch
LKH Lập kế hoạch
TDĐG Theo dõi đánh giá
CTHĐ Chương trình hành động
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ các cấp kế hoạch Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.1: Quy trình lập kế hoạch phát triển KTXH hàng năm cấp xã Error:
Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Các bước lập kế hoạch hàng năm cấp Huyện Error: Reference
source not found
Sơ đồ 2.3: Quy trình mới xây dựng kế hoạch phát triển KTXH hàng năm
cấp Huyện Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.1: Quy trình lập kế hoạch hàng năm cấp tỉnh.Error: Reference source
not found
Sơ đồ 3.2: Lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.Error: Reference source not
found
Sơ đồ 3.3: Sự tham gia đóng vai trò trung tâm Error: Reference source not
found
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hiện nay được thực hiện
thường xuyên hàng năm, 5 năm và là nhiệm vụ quan trọng được thực hiện ở
tất cả các ngành, các cấp. Công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã
góp phần không nhỏ trong sự phát triển của đất nước thời gian qua. Tuy
nhiên, việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở các cấp, các ngành hiện
nay chưa được thực hiện dựa trên một văn bản quy phạm pháp luật nào
(không được thể chế trong bất cứ một Luật hoặc một Nghị định; chủ yếu được
thực hiện căn cứ vào các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế
hoạch hàng năm, các Nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp, chính sách
điều hành, ); đồng thời, chưa xây dựng được hệ thống giáo trình, phương
pháp luận hướng dẫn việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc lập kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội được thực hiện còn thiếu nhất quán và chưa bài bản
giữa các cấp, các ngành và các địa phương; ở nhiều nơi, nhiều cấp, việc lập kế
hoạch vẫn mang tính bao cấp của thời kỳ trước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng hiện nay, sự liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh
tế ngày càng lớn. Đi đôi với việc tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách kinh
tế vĩ mô, việc đổi mới công tác lập kế hoạch, mà trước hết là đổi mới nội
dung, quy trình, phương pháp lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nhất là ở
địa phương là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách. Để phục vụ cho việc đổi
mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội phù hợp với yêu cầu phát
triển đất nước, việc nghiên cứu Luận văn “ Đổi mới công tác lập kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh ở Việt Nam” là hết sức cần thiết và đáp
ứng được yêu cầu quản lý nền kinh tế hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1
- Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hiện trạng công tác lập kế hoạch,
theo dõi và đánh giá kế hoạch hàng năm ở cấp tỉnh, cùng các cơ sở lý luận và
kinh nghiệm cụ thể; đồng thời qua thực tiễn nghiên cứu quy trình lập kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội hiện nay và đi sâu vào nghiên cứu công tác lập
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh của Hòa Bình, Luận văn sẽ đề xuất
một số đổi mới về nội dung và quy trình lập kế hoạch hàng năm ở cấp tỉnh,
đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp thực hiện những đổi mới công tác
lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở cấp tỉnh trong thời gian tới.
- Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa lý luận chung về lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
hàng năm cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải đổi mới
công tác này.
+ Phân tích thực trạng công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
hàng năm hiện nay ở cấp tỉnh thông qua việc đánh giá mẫu trong công tác xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hòa Bình.
+ Đề xuất nội dung, quy trình đổi mới trong lập kế hoạch hàng năm cấp
tỉnh và các kiến nghị, giải pháp thực hiện đổi mới lập kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội ở cấp tỉnh trong thời gian tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn tập trung nghiên cứu tổng quan về vai trò, chức năng của kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường; đánh giá hiện trạng
công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và ở cấp
tỉnh nói riêng (bao gồm các kết quả đạt được; các tồn tại, hạn chế). Đề tài sẽ đi
sâu vào đề xuất một nội dung và quy trình mới trong việc lập kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội cụ thể của cấp tỉnh trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc
những kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn chỉ tập trung đi vào nghiên cứu việc lập
2
KH phát triển KTXH hàng năm của cấp tỉnh hiện nay; đồng thời, thông qua
nghiên cứu việc lập kế hoạch phát triển KTXH của tỉnh Hòa Bình để từ đó
đưa ra các giải pháp kiến nghị thực hiện việc đổi mới công tác xây dựng kế
hoạch hàng năm cấp tỉnh.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để phân
tích việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở cấp tỉnh của Việt Nam trong
thời gian qua như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trên cơ sở
quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phương pháp tổng
hợp và phân tích; phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên
cứu lý thuyết với phân tích số liệu thực tế để đề xuất phương hướng điều
chỉnh trong thời gian tới. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp hỏi ý
kiến chuyên gia. Các phương pháp này được thực hiện trên cơ sở các quan
điểm về phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới và ổn định ngân sách
của Nhà nước.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cầu thành ba chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận đổi mới lập kế hoạch hàng năm phát triển
kinh tế xã hội hàng năm ở cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm
của cấp tỉnh hiện nay (nghiên cứu tỉnh Hòa Bình)
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm đổi mới công tác lập kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở cấp tỉnh trong thời gian tới
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỔI MỚI LẬP KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI HÀNG NĂM Ở CẤP TỈNH
1.1. Kế hoạch cấp tỉnh trong hệ thống kế hoạch hóa phát
triển kinh tế xã hội
1.1.1. Những khái niệm cơ bản về lập kế hoạch phát triển KTXH
1.1.1.1. Kế hoạch
Trong thực tiễn quá trình phát triển kinh tế việc lập kế hoạch là một
trong những chức năng quan trọng nhất của quản lý nhà nước. Tuy nhiên,
hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau giữa khái niệm kế hoạch và kế
hoạch hóa, thậm chí còn đồng nhất hai khái niệm đó làm một, và coi sản
phẩm của quá trình kế hoạch hóa là xây dựng ra các văn bản kế hoạch.
Có nhiều ý kiến cho rằng Kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả
cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai. Hay
nói cách khác, Kế hoạch là kết quả cụ thể của bước đầu tiên trong quy trình
Kế hoạch hóa, đó là bước soạn lập Kế hoạch.
Cũng có ý kiến cho rằng Kế hoạch là sự thể hiện ý đồ của chủ thể về sự
phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và đề ra các giải pháp để
thực thi đạt được ý đồ đặt ra.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc lập Kế hoạch mà không triển khai
thực hiện theo Kế hoạch đã được lập thì bản Kế hoạch đó chỉ là hình thức và
không có vai trò gì trong điều hành quản lý. Như vậy, rõ ràng Kế hoạch hóa
và Kế hoạch là hai khái niệm khác nhau, trong đó Kế hoạch là sự biểu thị tư
duy về tương lai và các giải pháp dự định tiến hành để đạt đến tương lai đó
bằng cách hình thức khác nhau. Còn Kế hoạch hóa là một quy trình gồm
nhiều bước khác nhau, trong đó việc cho ra đời một bản Kế hoạch mới chỉ là
4
bước đầu.
Như vậy, Kế hoạch được hiểu một cách chung nhất là một công cụ
quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hóa các mục
tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kỳ bằng hệ thống
các mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển, hệ thống các chính
sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Kế hoạch đưa ra một quá trình:
(1) mong muốn đạt được gì trong tương lai hoặc mục tiêu trong tương lai là
gì; (2) phải làm gì để đạt được mong muốn hoặc mục tiêu đó trong nguồn lực
sẵn có hoặc có khả năng huy động; (3) làm thế nào để đạt được mục tiêu đó
một cách có hiệu quả nhất; (4) khi nào làm; (5) và ai sẽ làm?.
1.1.1.2. Kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa được hiểu là “Phương thức quản lý vĩ mô nền kinh tế
quốc dân của Nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con người trên cơ sở
nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là quy luật
kinh tế để tổ chức các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế Quốc dân theo những mục tiêu thống nhất; dự kiến trước phương
hướng, cơ cấu, tốc độ phát triển và có những biện pháp tương ứng bảo đảm
thực hiện nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao”
Như vậy, kế hoạch hóa là quá trình hoạch định về tương lai, dự kiến các
hành động kết nối với nhau và can thiệp một cách có ý thức của chủ thể quản lý vào
đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
hành động can thiệp đó. Khi nói đến kế hoạch hóa là nói đến vấn đề được đề cập
đến chủ yếu ở cấp quốc gia và đôi khi còn được sử dụng ở cấp vùng.
Hoạt động kế hoạch hóa cũng phù hợp ở cấp ngành, khi chúng có liên quan
đến những vấn đề và sự tương tác mang đặc tính quốc gia, mà những vấn đề này
thường phức tạp và có liên quan đến nhiều ngành, cơ quan và thể chế. Ví dụ, kế
hoạch hóa có thể áp dụng cho nhiều ngành trong đó có sự can thiệp mạnh của Chính
5
phủ như giao thông, cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, thủy lợi và nông nghiệp.
1.1.1.3. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội là phương thức quản lý vĩ mô
nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con người
trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là
quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh vực
và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu thống nhất: dự kiến
trước phương hướng, cơ cấu, tốc độ phát triển và có các biện pháp tương
ứng đảm bảo thực hiện, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao”
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là công cụ nhà nước để định hướng
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, địa phương trong một thời gian nhất
định. Kế hoạch đề ra những mục tiêu phát triển của quốc gia hay địa phương
trong một khoảng thời gian nhất định (hàng năm, 5 năm,…) với các mục tiêu
đặt ra cho mỗi quốc gia hoặc từng địa phương phải xây dựng và đề ra các giải
pháp, chính sách trong khuôn khổ nguồn lực sẵn có hoặc có thể huy động để
đạt được các mục tiêu đề ra.
1.1.1.4. Lập kế hoạch phát triển KTXH
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội một cách đồng
bộ, thống nhất và đạt hiệu quả cần phải lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Tất cả các nhà quản lý (cấp cao- trung- thấp) và tất cả các lĩnh vực quản lý
đều phải thực hiện việc lập kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu phát triển đã
đề ra. Lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là chức năng đặc biệt quan trọng
của quy trình quản lý KTXH. Nó có ý nghĩa tiên quyết đối với hiệu quả của
hoạt động quản lý KTXH. Lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là tổng thể
các hoạt động liên quan tới đánh giá, dự đoán- dự báo và huy động các
nguồn lực để xây dựng chương trình hành động nhằm đạt được các mục tiêu
phát triển KTXH trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia
6
hoặc một địa phương.
Lập kế hoạch phát triển KTXH là một quy trình gồm nhiều bước mà
trọng tâm của nó chính là hướng vào việc xác định những gì cần phải hoàn
thành và hoàn thành như thế nào. Kết quả của lập kế hoạch phát triển KTXH
chính là bản kế hoạch xác định phương hướng hành động mà Nhà nước hoặc
địa phương sẽ thực hiện. Có thể thấy quan hệ giữa Lập kế hoạch phát triển
KTXH và Kế hoạch là quan hệ nhân - quả: Kế hoạch là sản phẩm của quá
trình lập kế hoạch. Để có một kế hoạch đúng đắn và phù hợp với thực tiễn thì
quá trình lập kế hoạch phải được coi là một quá trình cần quản lý.
1.1.2. Vai trò của kế hoạch đối với sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế
thị trường
1.1.2.1. KH là công cụ của nhà nước (các cấp) để can thiệp vào nền kinh tế
thị trường:
- Nhà nước thông qua công cụ kế hoạch để can thiệp nhằm khắc phục
các khuyết tật thị trường, hướng hoạt động của thị trường vào hiệu quả xã hội:
Bản thân thị trường có thể đem đến những kết cục phi hiệu quả. Chính phủ
can thiệp sẽ hy vọng hướng thị trường hoạt động theo hướng có hiệu quả hơn.
Trong trường hợp thị trường độc quyền, Chính phủ can thiệp nhằm kiểm soát
chặt chẽ thị trường, để đảm bảo rằng các rào cản đối với sự gia nhập thị trường
không trở thành những phương tiện khuyến khích quyền lực độc quyền. Đối
với các ngoại ứng
1
, Chính phủ can thiệp để buộc các bên tham gia giao dịch thị
trường phải tính đến tác động của mình gây ra cho đối tượng thứ ba, nhờ đó có
thể điều chỉnh các hoạt động của thị trường đạt tới mức tối ưu xã hội.
Sự can thiệp của Chính phủ trong các thị trường sẽ bổ sung thông tin
1
Ngoại ứng là một thuật ngữ kinh tế để chỉ những trường hợp hoạt động của những đối tượng trên thị trường
gây ảnh hưởng đến một đối tượng khác mà những ảnh hưởng đó không được phản ánh trong giá cả hàng hoá,
dịch vụ. Ví dụ điển hình nhất của ngoại ứng (tiêu cực) là ô nhiễm môi trường, trong đó các doanh nghiệp sản
xuất và làm tổn hại đến môi trường, nhưng họ không quan tâm đến điều đó một khi họ không phải đền bù
cho những thiệt hại môi trường mà họ gây ra.
7
cho thị trường, hoặc kiểm soát hành vi của những bên có lợi thế về thông tin
để đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Vai trò này ngày càng được
nhận thức là vô cùng quan trọng, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin.
Việc chính phủ ra các qui định nghiêm ngặt về thông tin hướng dẫn sử dụng
thực phẩm dược phẩm là một thí dụ rõ ràng cho sự điều tiết của chính phủ
trong trường hợp này. Cuối cùng, khuyết tật về sự bất ổn định do nền kinh tế
do thị trường gây ra (giá cả bất ổn định, lạm phát, thất nghiệp ) có khả năng
được khắc phục khi Chính phủ can thiệp bằng việc chủ động đưa ra và thực
hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển
kinh tế khác nhau để đưa nền kinh tế trở về trạng thái ổn định lâu dài.
- Nhà nước thông qua công cụ kế hoạch để thực hiện những hoạt động
mà thị trường không điều tiết: Những thất bại thị trường đặt vấn đề cần phải
có sự can thiệp của Chính phủ nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả hơn. Tuy vậy, ngay cả khi nền kinh tế vận hành có hiệu quả, thì vẫn
còn hai lý do nữa để Chính phủ cần phải can thiệp, đó là phân phối lại thu
nhập nhằm thực hiện công bằng xã hội và hàng hóa khuyến dụng.
- Nhà nước dùng công cụ kế hoạch để can thiệp nhằm hướng hoạt động
KTXH của đất nước theo những mục tiêu mà Chính phủ cần đạt tới: Thị
trường tự do được hình thành từ sự tương tác giữa vô số người mua và người
bán trên thị trường. Những người này đều chỉ có động cơ tối đa hoá lợi ích
ngắn hạn của mình, còn họ không có động lực và phương tiện để chăm lo cho
những lợi ích dài hạn của cả cộng đồng. Do đó, Chính phủ, với tư cách là
người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng dân cư, phải hướng nền kinh
tế phát triển theo định hướng chiến lược dài hạn mà Chính phủ cho rằng có
lợi cho cả xã hội nói chung.
Với tư cách là một tổ chức ra đời nhằm thực thi những quyền hành nhất
8
định đối với xã hội, Chính phủ thường đặt ra những mục tiêu mà xã hội cần
đạt tới trong một thời gian nhất định hay một số lĩnh vực cụ thể. Để đạt được
những ý muốn của mình, Chính phủ phải can thiệp trực tiếp vào các lĩnh vực
đó bằng việc hoạch định những mục tiêu cụ thể thông qua các chiến lược, kế
hoạch, chương trình phát triển.
Như vậy, việc tăng cường sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế
không chỉ xuất phát từ những khuyết tật vốn có của thị trường mà nó còn
mang một ý nghĩa cao hơn nhằm hướng xã hội tới một đời sống tốt đẹp hơn
mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không làm được.
Để thực hiện được các chức năng nói trên, Chính phủ thường sử dụng
nhiều công cụ khác nhau như: Hệ thống pháp luật và những quy định dưới luật;
Hoạch định phát triển; Các chính sách kinh tế vĩ mô; Lực lượng kinh tế nhà
nước,…
1.1.2.2. KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực
hiện các mục tiêu ưu tiên:
Chúng ta luôn nằm trong tình trạng khan hiếm nguồn lực, nhất là: vốn,
lao động có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu cứ để thị trường điều
tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá nhiều lợi
nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của
những người giầu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực
không thể huy động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong
những lĩnh vực mà xã hội cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được
phân bổ theo KH, nó sẽ bảo đảm hướng được vào các vấn đề mang tính bức
xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo và những tầng lớp yếu thế trong
xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp với nhu cầu trong dài
hạn của đất nước và địa phương.
1.1.2.3. KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của
9
mình và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu:
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc
của một địa phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan
trọng về thái độ hay tâm lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc
tập hợp dân chúng đằng sau chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá
bỏ nghèo đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và đi sâu vào
các tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi công dân đều
cùng nhau là việc để xây dựng đất nước. Nhà nước (các cấp) khi có một KH
kinh tế được coi là được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần
thiết để vượt qua những lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái
và chủ nghĩa truyền thống trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và
cuộc sống ấm no cho mọi người.
1.1.2.4. KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài:
Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể
và những dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết
để nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong
một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỷ và cụ thể trong khuôn khổ
một KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các địa
phương về việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều bấy nhiêu. Thực
tế qua Hội nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt Nam
đã có một lộ trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy
hành chính nên Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước
đến nay từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế.
10
1.1.3. Kế hoạch cấp tỉnh trong hệ thống phân cấp kế hoạch ở Việt Nam
Cấp kế hoạch được quan niệm là các cấp có chức năng xây dựng và quản lý
kế hoạch. Phân cấp kế hoạch là phân chia hệ thống kế hoạch thành các cấp, các thứ
bậc khác nhau và phân công nhiệm vụ quản lý kế hoạch cụ thể cho các cấp.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ các cấp kế hoạch
Thực tế lập kế hoạch ở Việt Nam cho thấy, các tổ chức kế hoạch có thể
phân thành 3 nhóm: cơ quan kế hoạch trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư);
các bộ phận kế hoạch của các Bộ và các cơ quan chức năng; các đơn vị lập kế
hoạch của địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Trong điều kiện kinh tế
thị trường và cơ cấu kinh tế xã hội ngày càng trở nên phức tạp như hiện nay,
việc phân cấp quản lý, xác định rõ nhiệm vụ của các cấp trong quá trình kế
hoạch hóa là cơ sở đảm bảo thành công của công tác kế hoạch.
Trong xu thế hiện nay, vai trò kế hoạch của cấp tỉnh chiếm vị trí ngày
càng quan trọng trong cấu phần của kế hoạch quốc gia. Việc xây dựng kế
11
Kế hoạch
cấp quốc gia
Kế hoạch phát triển
KTXH cấp tỉnh
Kế hoạch của các cơ
quan trung ương
Kế hoạch triển phát
KTXH cấp huyện
Kế hoạch
phát triển ngành
Kế hoạch triển phát
KTXH cấp xã
hoạch cấp địa phương sẽ giúp phần xây dựng kế hoạch cấp quốc gia được
hoàn thiện hơn trong việc xác định được các mục tiêu; đề ra đường hướng,
chính sách thực hiện; tổ chức thực hiện; kiểm tra giám sát thực hiện và đánh
giá quá trình, kết quả thực hiện.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kéo theo đó là sự
phát triển ngày càng cao trong phân công, kết hợp sử dụng các nguồn lực (bao
gồm nhân lực, vật lực, tài lực) trong điều kiện bị chi phối và tác động của
nhiều yếu tố khác nhau thì việc xây dựng tốt các kế hoạch cấp tỉnh sẽ giúp
cho việc phân bổ các nguồn lực này được hợp lý và có hiệu quả cao.
Ngoài ra, kế hoạch cấp tỉnh còn đóng vai trò giúp kế hoạch cấp quốc
gia tổ chức tốt sự phân công, kết hợp và sử dụng tốt nguồn lực xã hội một
cách có hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ hoặc
trong từng giai đoạn nhất định.
Tuy nhiên, kế hoạch cấp tỉnh cũng những đặc thù riêng đối với kế
hoạch cấp quốc gia. Việc độc lập của kế hoạch cấp tỉnh giúp cho tính chủ
động của các đơn vị kinh tế và các chủ thể kinh tế, cũng như các tác nhân
kinh tế của địa phương được chủ động hơn, làm cho bản chất của kế hoạch
hóa phát triển ngày càng trở nên linh hoạt và mềm dẻo hơn.
Xu hướng hiện nay trong việc xây dựng kế hoạch cấp quốc gia là tăng
cường và phân cấp trong quản lý kinh tế theo hướng ngày càng trao quyền
nhiều hơn cho chính quyền địa. Do đó, kế hoạch cấp tỉnh đóng một vai trò hết
sức quan trọng trong hệ thống phân cấp kế hoạch ở Việt Nam. Nó góp phần
xây dựng và thực hiện một cách chuẩn xác mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
tại các địa phương nói riêng và việc thực hiện chiến lược phát triển đất nước
nói chung. Kế hoạch cấp tỉnh là một bộ phận không thể tách rời và cấu thành
hệ thống các cấp kế hoạch tại Việt Nam.
12
1.1.4. Các bộ phận cấu thành kế hoạch cấp tỉnh
1.1.4.1. Theo tính chất của kế hoạch:
Theo tính chất của kế hoạch thì kế hoạch cấp tỉnh có kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội và kế hoạch phát triển các ngành.
- Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh bao gồm:
+ Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
+ Các chỉ tiêu về phát triển kinh tế như: tốc độ tăng trưởng GDP,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội (bao gồm hạ tầng đô thị, giao thông, thủy lợi, các dự án có ảnh hưởng
nhanh và trực tiếp đến phát triển kinh tế); đổi mới phát triển doanh nghiệp,
đăng ký kinh doanh và phát triển các thành phần kinh tế; xuất nhập khẩu; quy
mô dân số,
+ Các chỉ tiêu về xã hội như: giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, phát triển nguồn
nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân,…
+ Các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường như: giảm ô nhiễm môi trường, xử
lý các chất thải tại các khu công nghiệp, làng nghề; cải tạo và xử lý môi
trường các sông, ao, hồ, kênh mương bị ô nhiễm,…
+ Các chỉ tiêu về cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm chống lãng
phí và phòng chống tham nhũng.
Ngoài ra còn các chỉ tiêu về quốc phòng và an ninh trên địa bàn tỉnh.
- Kế hoạch phát triển ngành cấp tỉnh bao gồm:
+ Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
+ Ngành công nghiệp và xây dựng.
+ Các ngành dịch vụ: tài chính, ngân hàng, các dịch vụ kinh doanh; dịch
vụ bưu chính viễn thông; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan
khác; dịch vụ phân phối; dịch vụ giáo dục; dịch vụ môi trường; các dịch vụ xã
hội và liên quan đến y tế; các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành;
các dịch vụ giải trí văn hoá, thể thao; dịch vụ vận tải và các dịch vụ khác,…
13
1.1.4.2. Theo thời gian kế hoạch:
Theo thời gian kế hoạch thì kế hoạch cấp tỉnh có kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm và kế hoạch hàng năm.
- Kế hoạch 5 năm cấp tỉnh bao gồm:
+ Mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu dự kiến thực hiện trong 5
năm của tỉnh.
+ Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực trong 5 năm, bao gồm:
kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường và quốc phòng an ninh.
+ Định hướng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của địa
phương trong 5 năm, bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp nông thôn, hạ
tầng giao thông vận tải, bưu điện, hạ tầng đô thị và dân cư, hạ tầng xã hội,
…
+ Giải pháp thực hiện phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong 5 năm.
- Kế hoạch hàng năm cấp tỉnh: là cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và
các chỉ tiêu chủ yếu thực hiện trong 5 năm được thực hiện từng bước thông
qua các kế hoạch hàng năm.
Kế hoạch hàng năm cấp tỉnh bao gồm các nội dung:
+ Mục tiêu thực hiện trong năm trên cơ sở mục tiêu kế hoạch 5 năm.
+ Nhiệm vụ thực hiện trong năm, bao gồm nhiệm vụ về phát triển kinh tế,
về phát triển xã hội, về bảo vệ môi trường, cải cách hành chính và quốc phòng
an ninh.
+ Các chỉ tiêu chủ yếu trong năm, bao gồm: tốc độ tăng trưởng, cơ cấu
kinh tế, xuất nhập khẩu, lao động, việc làm, cân đối thu chi ngân sách, cân đối
nguồn lực cho đầu tư phát triển,…
+ Phương hướng, giải pháp thực hiện trong năm cho phát triển các
ngành và lĩnh vực.
14
1.2. Luận cứ của việc đổi mới lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng
năm cấp tỉnh
1.2.1. Sự cần thiết phải đổi mới lập kế hoạch cấp tỉnh
Kế hoạch cấp tỉnh hiện nay chưa thực sự là công cụ được sử dụng một
cách có hệ thống và đầy đủ trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong
xã hội tại địa phương để định hướng cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư, đặc biệt là của giới doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trên địa bàn, vì
vậy kế hoạch của các địa phương chưa thu hút sự quan tâm của các tầng lớp
xã hội, chưa đi vào cuộc sống thực tế.
Nội dung kế hoạch còn nặng về những vấn đề mà người quản lý quan
tâm, chưa chú ý đến các vấn đề phát triển bền vững tại địa phương và giải
quyết các vấn đề xã hội,…
Nhiều nội dung kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm cấp tỉnh chưa
thật ăn khớp và đồng bộ với nhau. Việc xây dựng kế hoạch cấp tỉnh mới chỉ
tập trung ở các sở, ban, ngành trong tỉnh, thiếu sự tham gia của cấp huyện,
cấp xã và chưa có sự tham vấn của cộng đồng, do đó nhiều bản kế hoạch được
xây dựng mang tính chủ quan, không phù hợp với tình hình thực tiễn.
Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội cấp tỉnh chưa đặt trọng tâm vào hiệu
quả kinh tế: mục tiêu kế hoạch vừa nhiều về số lượng các chỉ tiêu, lại mang
nặng tính tham vọng, duy ý chí. Nguồn lực hạn chế nhưng lại bị dàn mỏng ra
quá nhiều mục tiêu do vậy việc sử dụng kém hiệu quả.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh còn nặng về việc xác định
một số chỉ tiêu kinh tế với những cân đối chủ yếu, còn thiếu các chỉ tiêu phản
ánh chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Các chỉ tiêu về kinh tế chưa gắn
kết chặt chẽ với những vấn đề xã hội, cải thiện môi trường, phát triển nguồn
nhân lực, đảm bảo chính sách xã hội.
15
Kế hoạch của tỉnh đến cấp huyện, xã còn nặng về phân bổ nguồn vốn
đầu tư của nhà nước, chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng các cơ chế,
chính sách để huy động tối đa các nguồn lực từ những thành phần kinh tế
khác và nguồn lực từ ngoài nước.
Bên cạnh đó, cùng với quá trình phát triển kinh tế, kế hoạch cấp tỉnh
ngày càng có vai trò và vị trí quan trọng trong kế hoạch hàng năm của quốc
gia. Đồng thời, với quá trình phân cấp ngày càng mạnh và yêu cầu đồng bộ
trong đổi mới công tác kế hoạch hóa cấp địa phương thì việc đổi mới lập kế
hoạch cấp tỉnh là yêu cầu bức thiết trong điều kiện hiện nay.
1.2.2. Xu hướng đổi mới lập kế hoạch cấp tỉnh
Công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh ngày càng
được chú trọng. Các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương đã nhận
thức được đầy đủ tính cấp thiết của việc xây dựng kế hoạch, chỉ có những
bản kế hoạch được xây dựng tốt thì việc sử dụng nguồn lực mới hiệu quả
và có tính thực tiễn cao.
Việc xây dựng kế hoạch phát triển KTXH cấp tỉnh trước đây chỉ mang
tính chất đối phó, kế hoạch thực hiện việc phân bổ nguồn lực; tuy nhiên, hiện
nay việc xây dựng kế hoạch phát triển KTXH đã được nhiều địa phương triển
khai thực hiện gắn với nguồn lực thực tế của địa phương, kế hoạch xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn, kế hoạch được đề ra đã có thể theo dõi và đánh giá được.
Bên cạnh đó, với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, hiện nay nhiều
chương trình và dự án đã được triển khai thực hiện ở cả cấp Trung ương và
cấp địa phương để nhằm đổi mới và nâng cao công tác xây dựng kế hoạch (Ở
cấp Trung ương với sự giúp đỡ của UNDP, đã thực hiện được việc đổi mới
trong công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm, đã xây dựng được
khung theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội 5 năm 2006-2010 (Quyết định số 555/2007/QĐ-BKH, ngày 30/5/2007; Ở
16
cấp địa phương với sự tài trợ của Thụy Điển đã xây dựng được bộ sổ tay
hướng dẫn lập kế hoạch phát triển kinh tế cấp xã và cấp huyện).
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, thì việc đổi mới xu hướng xây dựng
kế hoạch phát triển KTXH là một yêu cầu tất yếu. Để một bản kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội thực sự có tính thuyết phục cao và được các thành phần
kinh tế sử dụng thì nội dung của bản kế hoạch cần phải được xây dựng, đổi
mới theo xu hướng như sau:
1.2.2.1. KH cấp tỉnh được xây dựng mang tính chiến lược
Nội dung của bản KH cấp tỉnh theo cơ chế cũ bao gồm nhiều chỉ tiêu
chi tiết, toàn diện, tuy vậy nó chủ yếu là mang tính tác nghiệp, cụ thể hoá các
chỉ tiêu chung của nhà nước bằng các chỉ tiêu pháp lệnh giao cho các cấp địa
phương. Điều này không thể thực hiện được trong cơ chế thị trường và không
phù hợp cới cơ chế thị trường. Bởi vì:
- Hoạt động của cơ chế thị trường có một nhược điểm lớn là tính thiển
cận, chú trọng quá mức vào những lợi ích ngắn hạn, trước mắt mang tính cá
nhân, mà thiếu mất cái nhìn tổng thể, theo đuổi những lợi ích dài hạn mang
tính xã hội (hoặc cộng đồng). Tỉnh, huyện với tư cách là người đại diện chăm
lo lợi ích cho toàn thể nhân dân trên địa bàn, không chỉ thế hệ hôm nay mà
còn cả mai sau, thì không thể chấp nhận tầm nhìn ngắn hạn như vậy. Thay vì
thế, tỉnh cần điều hành nền kinh tế địa phương theo định hướng phát triển lâu
dài và sử dụng những công cụ có sẵn trong tay, trong đó có KH, để điều chỉnh
sự vận động của cả nền kinh tế đi theo định hướng đã chọn.
- Nền kinh tế thị trường thường xuyên biến động, nó chịu tác động rất lớn
bởi các nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, những yếu
tố cơ hội, thách thức thường xuyên xuất hiện rồi mất đi. Điều đó đòi hỏi làm KH
cấp tỉnh phải cập nhật được thường xuyên những yếu tố ấy, dự kiến trước được
những yếu tố sẽ xuất hiện để xác định những mục tiêu mang tính dài hạn cần đạt
tới và cách đi tối ưu cho quá trình phát triển các địa phương.
17
Như vậy, bản KH cấp tỉnh phải tiếp cận theo hướng mới, đó là: KH cấp
tỉnh phải giảm phần định lượng, tăng phần định tính, KH cấp tỉnh phải thể
hiện được tầm nhìn chiến lược dài hạn - trung hạn của địa phương, trên cơ sở
đánh giá đúng thực chất xuất phát điểm của tỉnh nhà, chứ không nên quá chú
trọng đến điều hành sự vụ hàng năm.
Nội dung cụ thể của tầm nhìn chiến lược đó là cần phải trả tới được
những câu hỏi: Hiện nay chúng ta đang đứng ở đâu? chúng ta muốn đi tới
đâu? (các mục tiêu chiến lược) trong tương lai; Làm thế nào để đi tới? (cách
đi tối ưu cho việc đạt được các mục tiêu ấy) và làm thế nào để biết đã đi tới
(các tiêu chuẩn, giám sát đánh giá).
1.2.2.2. KH cấp tỉnh được xây dựng phải gắn với nguồn lực
Để thực hiện được ý đồ chiến lược của mình, tỉnh hoặc huyện cần phải
có nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực tự nhiên, tài chính, con người và thể chế.
Lâu nay, trong lập KH cấp tỉnh, chúng ta chỉ quan tâm đến nguồn lực tự nhiên
và tài chính và trong nguồn lực tài chính cũng chủ yếu đề cập đến nguồn lực
từ ngân sách. Tuy vậy, giữa KH cấp tỉnh và ngân sách vẫn chưa có sự gắn kết
thực sự, dẫn đến mục tiêu KH cấp tỉnh đề ra nhưng không có hoặc không đủ
nguồn lực để thực hiện. Điều này làm KH cấp tỉnh bị xem nhẹ, tình trạng
”KH treo” diễn ra phổ biến, trong khi nguồn lực vốn đã hạn hẹp lại bị dàn
trải, hiệu quả đầu tư thấp. Muốn KH cấp tỉnh thực sự là công cụ hữu hiệu để
quản lý nhà nước thì KH cấp tỉnh phải gắn với nguồn lực, trong đó không chỉ
nguồn lực tự nhiên, vật chất và tài chính, mà tất cả các nguồn lực khác về con
người, xã hội - thể chế cũng phải được phát huy tối đa.
Thông thường, các nhà lập KH cấp tỉnh có thể chia nguồn lực (hay nói
rộng hơ là tiềm năng nguồn lực) làm 2 nhóm: Nhóm nguồn lực vật chất và
nhóm nguồn lực phi vật chất. Nguồn lực vật chất bao gồm: nguồn gắn với đất
và không gắn với đất. nguồn gắn với đất, đó là: tự nhiên, đất đai, cơ sở hạ
18
tầng, nguồn không gắn với đất bao gồm: vốn, lao động. Các nguồn lực phi
vật chất gồm có: các yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, vốn nhân lực, thể chế
chính sách,
Nguồn lực tự nhiên của một tỉnh chỉ có hạn, và việc khai thác bừa bãi
những nguồn lực này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Nếu
không có sự kết hợp khôn ngoan giữa nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác thì sẽ chỉ là sự lãng phí tài nguyên và hy sinh lợi ích của thế hệ tương lai
cho những lợi ích thiển cận của thế hệ hiện tại.
Nguồn lực tài chính từ ngân sách thì cũng chỉ có hạn. Với một tỉnh
trung bình hiện nay của Việt Nam, nguồn lực này chiếm khoảng 50-60% tổng
vốn đầu tư xã hội. Điều đó có nghĩa là nếu chỉ dựa vào nguồn lực ngân sách
thôi thì không thể tạo ra bước phát triển đột phá cho tỉnh, nhất là trong điều
kiện nguồn lực ngân sách đã tương đối ổn định theo Luật Ngân sách 2002.
Như vậy, làm thế nào để có thể khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực
khác ngoài ngân sách, đặc biệt là từ khu vực tư nhân là một câu hỏi lớn cần
đặt ra. Trong kinh tế thị trường, tỉnh không thể chỉ định khu vực tư nhân phải
đầu tư vào ngành này, ngành khác, vùng này, vùng kia Đó là lựa chọn của
bản thân nhà đầu tư, dựa trên sự cân nhắc về khả năng sinh lợi của các dự án
đầu tư khác nhau.
Nguồn nhân lực không phải là nguồn lực bằng tiền có thể trực tiếp huy
động ngay vào phát triển, nhưng đây lại là yếu tố quyết định đến mọi sự phát triển
trên địa bàn tỉnh, vì con người là tác nhân của sự phát triển, cũng là đối tượng thụ
hưởng thành quả của sự phát triển đó. Khi con người được làm việc trong một
điều kiện cởi mở, kích thích sáng tạo và được đãi ngộ thoả đáng thì sẽ phát huy
được trí tuệ, sáng tạo và sẽ đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của tỉnh.
Để thu hút nguồn lực này, tỉnh chỉ có thể dựa vào một môi trường
chính sách thuận lợi, thân thiện với các nhà đầu tư, nhằm hướng các nhà đầu
19
tư đầu tư vào những lĩnh vực mà tỉnh mong muốn. Muốn vậy, cần có sự đổi
mới về thể chế để tạo ra một môi trường như vậy.
1.2.2.3. Kế hoạch cấp tỉnh được xây dựng có sự tham gia của các bên trong
lập KH
Một bản KH cấp tỉnh mang tầm chiến lược, phải tính đến nhu cầu,
nguyện vọng của các nhà đầu tư nói riêng và tất cả các thành phần kinh tế nói
chung. Nói cách khác, bản KH cấp tỉnh đó phải có tính chất cùng tham gia.
Đối với KHPT KTXH ở địa phương, các bên liên quan bao gồm:
- Cấp tỉnh: Bộ KHĐT, Các bộ ban ngành, Chính phủ và quốc hội,
UBND, HĐND tỉnh/ thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong vùng, Các sở ban
ngành trong tỉnh, và trong vùng, UBND các huyện/quận trong tỉnh, Các tổ
chức đoàn thể, các thành phần kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhà
nước và tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong
tỉnh.
- Cấp huyện: UBND, HĐND tỉnh/thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong
vùng, Sở KHĐT, UBND và HĐND huyện/quận, các phòng ban ngành trong
huyện, và một số huyện trong tỉnh, các tổ chức đoàn thể, các thành phần kinh
tế, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong huyện.
Sự tham gia các bên liên quan vào quá trình lập KHPT KTXH của các
cấp tỉnh, huyện, thậm chí phường xã, thôn bản sẽ dẫn đến:
+ Đầu tư có hiệu quả hơn do có sự lựa chọn mục tiêu chính xác đối tượng
đầu tư hợp với nguyện vọng và nhu cầu các bên liên quan hay của dân, và qua
đó nhà nước sẽ được sự ủng hộ của các bên liên quan trong đó đặc biệt là dân
chúng và họ sẽ tạo điều kiện cho việc tiến hành các chủ trương, chính sách của
nhà nước được thuận lợi hơn. Chủ trương của Nhà nước là người dân phải được
hưởng lợi từ các chỉ tiêu công cộng, do đó các công trình cơ sở hạ tầng và dịch
vụ công cộng đều phải hợp lòng dân. Các KH dự án đều xây dựng thể chế cụ thể
hoá các chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho người dân
20
tham gia lựa chọn công trình, tham gia quản lý và thực hiện triển khai công trình.
+ Các bên liên quan được tham gia, tính trách nhiệm và nghĩa vụ của họ được
nâng cao, công trình được duy tu, bảo dưỡng tốt hơn; Sự gắn bó (đoàn kết) cộng
đồng tốt hơn; Các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội dần được đẩy lùi trong dân chúng.
Đặc biệt trong hướng tiếp cận này, cần nhấn mạnh sự tham gia từ phía
cộng đồng dân cư trong lập KHPT. Điều này có tác dụng:
+ Biến người dân trở thành chủ thể của quá trình lựa chọn và ra các
quyết định KHPT. Điều đó bảo đảm cho các KHPT hướng vào dân, phục vụ
nguyện vọng của nhân dân, của người nghèo và những tầng lớp yếu trong xã
hội, tạo điều kiện cho họ được hưởng lợi nhiều nhất từ các hoạt động phát triển.
+ Biến người dân trở thành chủ thể quản lý thực hiện các KHPT. Điều
này bảo đảm khả năng huy động tối đa nguồn lực trong dân cư phục vụ quá
trình phát triển, bảo đảm sử dụng nguồn lực tốt nhất, tiết kiệm nhất và hiệu
quả cao nhất, bảo đảm các tiến độ triển khai thực hiện hoạt động phát triển.
Dân tham gia phân bổ nguồn lực thì quyền lợi của dân sẽ nhiều hơn và hạn
chế được thất thoát. Dân được tham gia quản lý thì họ sẽ nhận thức được yêu
cầu trách nhiệm của họ được nâng cao. Là cơ sở để thực hiện đầu tư của nhà
nước, tư nhân hay tiếp nhận viện trợ nước ngoài đúng hướng, có hiệu quả
hơn. Hơn thế nữa, người dân sẽ phát huy cao nhất trí tuệ, sự thông minh của
mình, hiến nhiều kế hay trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển,
quan điểm "dân làm" được thực thi triệt để nhất. Cộng đồng dân cư thông qua
các tổ chức của mình sẽ đảm nhận được những công việc mà trước đây không
thể làm được, qua đó, trình độ và tính chủ động, tính trách nhiệm, nghĩa vụ
của người dân, của cán bộ cấp cơ sở được nâng cao.
+ Biến người dân trở thành chủ thể sử dụng các thành quả của các
KHPT. Điều này bảo đảm tính bền vững , hiệu quả trong sử dụng kết quả của
hoạt động phát triển.
Chỉ khi nào cộng đồng dân cư và doanh nghiệp thấy tiếng nói của mình
21
được phản ánh trong bản KH, chỉ khi nào mục tiêu phát triển mà tỉnh đề ra
đồng thuận với mong muốn của người dân và doanh nghiệp thì khi đó các
thành phần này mới thấy bản KH đó là “của họ” và họ mới tích cực cùng
chính quyền phấn đấu thực hiện nó. Và cũng chỉ lúc đó, tỉnh mới có thể hy
vọng huy động được một cách tối đa nguồn lực tài chính ngoài ngân sách vào
đầu tư phát triển.
1.2.2.4. KH cấp tỉnh được xây dựng phải mang tính lồng ghép
Quan điểm "lồng ghép" trong soạn lập KH cấp tỉnh đã trở thành khá
phổ biến và gắn liền với quá trình đổi mới KHH ở nước ta. Trong thời gian
qua, trên thực tế, chúng ta đã có những hoạt động cụ thể triển khai theo quan
điểm này, đó là: dự án "Lồng ghép biến dân số vào KHH phát triển ở Việt
Nam" (Dự án VIE/97/P15); "Sổ tay xây dựng KHPT bền vững ngành và địa
phương" (Dự án VIE/01/021); Dự án lồng ghép Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và giảm nghèo (CPRGS) vào lập kế hoạch địa phương (TF 051164)
nhằm đưa quan điểm và yêu cầu phát triển bền vững vào lập KH của các
ngành và các địa phương khi xây dựng KHPT KTXH 5 năm của Bộ, ngành,
địa phương mình; Bộ KHĐT đã đưa ra hướng dẫn cụ thể những yêu cầu lồng
ghép CPRGS trong quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, đồng thời
phối hợp với Tổ công tác liên ngành CPRGS hỗ trợ các địa phương về nâng
cao năng lực xây dựng KHPT KTXH ở địa phương có tính đến yếu tố tăng
trưởng và giảm nghèo,
Lồng ghép một yếu tổ nào đó trong KH cấp tỉnh có nghĩa là đưa yếu tố
đó vào với tư cách là hạt nhân, là mục tiêu cuối cùng của KH, hướng toàn bộ
nội dung của KH cấp tỉnh theo quỹ đạo của yếu tố này trong quá trình xác
định mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian, chỉ tiêu kết quả, các yếu tố đầu
vào, chương trình hành động và giải pháp tổ chức triển khai thực hiện. Lồng
ghép biến dân số trong KHPT tức là phải xem yếu tố dân số (quy mô, cơ cấu,
22