Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.76 KB, 91 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là do
chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin, số
liệu được sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và chính xác.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
Amex American Express
ATM
Automated Teller Machine
(Máy rút tiền tự động)
Banknet Công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam
BCEL Ngân hàng thương mại ngoại thương Lào
BIN Bank Identification Number
Cup China Union Pay
ĐƯTM Điểm ứng tiền mặt
ĐVCNT Đơn vị chấp nhận thẻ
EDC
Electric Data Capturer
(Máy thanh toán thẻ tự động)
MSC MasterCard SecureCode
NHNNVN Ngân hàng nhà nước Việt Nam
NHPH Ngân hàng phát hành
NHTMVN Ngân hàng Thương mại Việt Nam
NHTT Ngân hàng thanh toán
PIN Personal Identification Number
POS Point of sales (máy tính tiền cao cấp)
TCTQT Tổ chức thẻ quốc tế
TMCP Thương mại cổ phần
VbV verified by Visa


Vietcombank Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
VNBC Công ty cổ phần thẻ thông minh
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU
Trang
1. DANH MỤC CÁC BẢNG
2. DANH MỤC HÌNH VẼ
3. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thời đại ngày nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ, thị trường thế giới trở thành một sân chơi chung cho tất cả
các nước trên thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đã gia nhập tổ chức
kinh tế thế giới WTO đem đến nhiều thời cơ và thách thức đan xen trên nhiều lĩnh
vực kinh tế, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nắm bắt được xu thế đó, cùng
với toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã và đang không ngừng đưa ra các
sản phẩm dịch vụ tiên tiến trên nền tảng của khoa học công nghệ cao, mở rộng tiện
ích cho khách hàng đặc biệt là trong lĩnh vực thẻ ngân hàng.
Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt Nam,
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam luôn chú trọng ứng dụng công nghệ mới, phát
triển sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng.
Doanh số phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ của Vietcombank luôn đạt tốc độ
tăng trưởng cao, chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành
tựu đạt được, Vietcombank cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh
doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi chúng chuyển
hướng sang thị trường Việt nam. Từ năm 2002 đến nay, tình hình giả mạo, gian lận
trong phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ ngân hàng Ngoại thương đang tăng với
tốc độ đáng ngại. Các rủi ro trong hoạt động thẻ ngày càng đa dạng và phức tạp
như lấy cắp thông tin làm thẻ giả, bẫy thẻ, bẫy tiền, đảo ngược giao dịch…gây tổn
thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng cần có

sự quan tâm thích đáng đến hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ.
Là một cán bộ Trung Tâm Thẻ ngân hàng Ngoại thương, qua thực tiễn công
tác và với mong muốn hoạt động kinh doanh thẻ của Vietcombank ngày càng an
toàn, hiệu quả, tôi đã chọn đề tài : "Quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của
mình.
1
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu gồm các nội dung chính sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản trị rủi ro.
- Phân tích thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại ngân hàng
Vietcombank để tìm ra những nguyên nhân của các rủi ro ở Vietcombank.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh thẻ ở
Vietcombank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Vietcombank
* Thời gian nghiên cứu:
- Số liệu thứ cấp thu thập từ năm 2006 đến nay.
- Số liệu sơ cấp thu thập trong năm 2011.
* Phạm vi nghiên cứu: tại các Ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và tại Hội sở
chính ngân hàng Vietcombank.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Quá trình nghiên cứu
2
4.2 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các Báo cáo thường niên, Bản công bố
thông tin, từ các cơ quan thống kê, tạp chí…và được xử lý trên máy tính. Mục đích
nhằm thu thập các số liệu thực tế về tình hình rủi ro trong phát hành và thanh toán
thẻ từ đó phân tích, đánh giá các rủi ro về thẻ tại Vietcombank.

4.3 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Các số liệu sơ cấp được thu thập từ các bài phỏng vấn trực tiếp, các phiếu
câu hỏi:
- Tiến hành phỏng vấn trực tiếp giám đốc Trung tâm thẻ, phụ trách phòng
Quản lý rủi ro tại trung tâm Thẻ ngân hàng Vietcombank.
3
Báo cáo
thường niên,
tạp chí
Điều tra bằng
phiếu câu hỏi
Phỏng vấn
lãnh đạo
Trung tâm
thẻ
Vietcombank
Thực trang quản trị
rủi ro trong kinh
doanh thẻ
Vietcombank
Các loại rủi ro
trong kinh
doanh thẻ tại
Vietcombank
Yêu cầu đối với
quản trị rủi ro trong
kinh doanh thẻ tại
Vietcombank
Giải pháp quản trị
rủi ro trong kinh

doanh thẻ tại
Vietcombank
+ Phỏng vấn Giám đốc trung tâm Thẻ: Dự kiến các giải pháp nhằm quản trị
rủi ro về thẻ trong thời gian tới của Vietcombank?
+ Phỏng vấn phụ trách phòng Quản lý rủi ro: Tình hình rủi ro hiện nay tại
Vietcombank? Các giải pháp hiện đang sử dụng để quản trị rủi ro? Đề xuất để hoạt
động quản trị rủi ro ngày càng hiệu quả?
- Lập các phiếu câu hỏi để điều tra công tác quản lý rủi ro tại các ngân hàng:
+ Lập phiếu điều tra khoảng 20 ngân hàng: Bao gồm các ngân hàng trên địa
bàn Hà Nội.
+ Cách phát phiếu: Lập phiếu câu hỏi và đến trực tiếp các ngân hàng đề gửi
phiếu điều tra.
4.4 Phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh để phân tích dữ liệu.
Các số liệu sau khi được thu thập sẽ được phân tích bằng phần mềm Excel và
SPSS.
- Sử dụng các bảng biểu, sơ đồ, mô hình để phân tích và minh họa.
Trên cơ sở nghiên cứu kỹ các dữ liệu và kết quả phân tích để xác định các
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp quản trị rủi ro về thẻ cho ngân hàng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kinh doanh thẻ và quản trị rủi ro
trong kinh doanh thẻ ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ
tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
4
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH THẺ
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH
THẺ NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về thẻ ngân hàng
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thẻ ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt rất thông
dụng và văn minh trên thế giới. Lĩnh vực thẻ ngân hàng đã trải qua nhiều giai đoạn
thử nghiệm và phát triển. Tuy nhiên xét về mặt thời gian thì dịch vụ thẻ ngân hàng là
một ngành còn khá mới mẻ, chỉ mới xuất hiện trong những năm đầu của thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ngân hàng không phải là ngành đầu tiên phát hành thẻ. Thẻ thanh
toán xuất hiện đầu tiên ở Mỹ. Nó ra đời năm 1914, khi đó Tổng công ty xăng dầu
California cấp thẻ cho nhân viên và một số khách hàng của mình. Thẻ chỉ nhằm
khuyến khích bán sản phẩm của công ty chứ không kèm theo việc gia hạn tín dụng.
Sau đó, các hệ thống cửa hàng bán lẻ tiếp tục phát triển hình thức tài trợ khách hàng
này thông qua việc phát hành thẻ, theo hình thức tiêu trước trả tiền sau, cho các
khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn thẩm định của họ để khuyến khích tiêu
dùng, tăng doanh thu. Tuy nhiên, việc phát hành thẻ (hay các phiếu bán hàng) có
nhiều hạn chế với các cửa hàng: khả năng tài trợ có hạn, chi phí quản lý cao ảnh
hưởng đến lợi nhuận, thẻ của mỗi hệ thống chỉ sử dụng được trong hệ thống đó nên
tính tiện lợi của thẻ không cao, nhiều đại lý nhỏ không đủ điều kiện và khả năng
cung cấp tín dụng cho các khách hàng của họ. Nhu cầu có một loại thẻ chung để có
thể sử dụng thanh toán tại các điểm bán hàng trở nên rất cấp thiết và chính nó đã tạo
điều kiện cho các tổ chức tài chính vào cuộc.
Năm 1946, dạng thẻ đầu tiên của thẻ ngân hàng là Charge-It của ngân hàng
John Biggins xuất hiện tại Mỹ, cho phép các khách hàng thực hiện các giao dịch nội
địa bằng các phiếu có giá trị do ngân hàng phát hành. Các đại lý nộp các phiếu giao
5
dịch cho ngân hàng Biggins, ngân hàng sẽ thanh toán các giao dịch đó cho các đại
lý và thu lại tiền từ các khách hàng.
Những năm sau đó, ngày càng có nhiều tổ chức tài chính tham gia vào thị

trường thẻ. Thẻ Charge-It đã mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm 1951 do
ngân hàng Franklin National, New York phát hành. Tại đây, khách hàng xin cấp
hạn mức tín dụng và được thẩm định khả năng thanh toán, tình hình tài chính thông
qua hoạt động tín dụng trước đó của họ với ngân hàng. Những khách hàng đủ tiêu
chuẩn sẽ được cấp thẻ để thực hiện giao dịch tại các đại lý chấp nhận thẻ. Các cơ sở
này khi nhận được giao dịch sẽ liên hệ với ngân hàng, nếu được phép chuẩn chi họ
sẽ thực hiện giao dịch và đòi tiền sau đối với ngân hàng. Các chủ thẻ phải trả toàn
bộ dư nợ vào cuối tháng. Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Charge, Golden
Key, Gourmet Club rồi đến Carte Blanche và American Express (1958), JCB (1961)
ra đời. Năm 1960, ngân hàng Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ ngân hàng
của riêng mình, the Bank Americard, và đã đạt được nhiều thành công. Với những
lợi ích của hệ thống thanh toán này, ngày càng có nhiều tổ chức tín dụng tham gia
thanh toán. Nhiều tổ chức phát hành thẻ khác bắt đầu liên kết để cạnh tranh với
Bank of America. Năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ liên kết thành tổ chức Interbank
(Interbank Card Association-ICA), một tổ chức mới có khả năng trao đổi thông tin
các giao dịch thẻ tín dụng. Năm 1967, bốn ngân hàng California đổi tên từ
California Bankcard Association thành Western States BankCard Association
(WSBA) và mở rộng mạng lưới thành viên với các tổ chức tài chính khác ở phía tây
nước Mỹ. Sản phẩm thẻ của tổ chức này là Master Charge. Tổ chức này cũng cấp
phép cho Interbank sử dụng tên và thương hiệu Master Charge. Vào cuối thập niên
1960, nhiều tổ chức tài chính đã trở thành thành viên của Master Charge và đủ sức
cạnh tranh với Bank Americard.
Tuy nhiên, để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần
phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa phương,
một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Đứng trước đòi hỏi đó, Inter Bank (Master
Charge) và Bank of American (Bank Americard) đã xây dựng một hệ thống các quy
6
tắc, tiêu chuẩn trong xử lý thanh toán thẻ toàn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở
thành Visa USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, Master
Charge cũng trở thành một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là Master Card. 4 tổ chức

thẻ quốc tế lớn nhất hiện nay là Visa, Master Card, Amex, JCB.
Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên
kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem như
một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các loại thẻ
Master Card, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và cùng phân
chia những thị trường rộng lớn.
1.1.2 Khái niệm và phân loại thẻ:
1.1.2.1 Khái niệm:
Đối với thẻ thanh toán có nhiều khái niệm để diễn đạt nó, mỗi một cách diễn
đạt nhằm làm nổi bật một nội dung nào đó. Sau đây là một số khái niệm về thẻ
thanh toán:
- Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua hàng
hoá, dịch vụ hoặc có thể được dùng để rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hoặc
các máy rút tiền tự động.
- Thẻ thanh toán là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi Ngân
hàng, các Tổ chức tài chính hay các công ty.
- Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh toán thông
qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối giữa Ngân hàng/Tổ
chức tài chính với các điểm thanh toán (Merchant). Nó cho phép thực hiện thanh
toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các thành phần tham gia thanh toán.
Tóm lại: các cách diễn đạt trên đều phản ánh lên đây là một phương thức
thanh toán mà người sở hữu thẻ có thể dùng để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch
vụ hay rút tiền mặt tự động thông qua máy đọc thẻ hay các máy rút tiền tự động.
Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại.
Theo quy chế phát hành, thanh toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ
ngân hàng – ban hành kèm theo quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 5
7
năm 2007 của Thống đốc NHNN), thẻ ngân hàng được định nghĩa: là phương tiện
do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và
điều khoản được các bên thỏa thuận.

1.1.2.2 Phân loại thẻ :
Các loại hình về thẻ thanh toán rất đa dạng, phong phú, chúng ta có thể phân
loại thẻ dựa trên các tiêu chí sau:
* Nếu căn cứ theo công nghệ sản xuất chia thành 3 loại: thẻ in nổi, thẻ từ và
thẻ thông minh:
- Thẻ in nổi (Embossed Card ): Là loại thẻ dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi,
trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay loại thẻ này ít được
sử dụng vì công nghệ in quá thô sơ, tính bảo mật kém, dễ bị làm giả.
- Thẻ từ (magnetic stripe): là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được
dập nổi ở mặt trước của thẻ vừa được mã hoá trong băng từ ở mặt sau của thẻ. Các
thông tin này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Đây là loại thẻ phổ thông
nhất thế giới. Nó được ra đời ngay từ ngày đầu của nền tảng của nền công nghiệp
thẻ và đến nay vẫn tỏ ra hữu hiệu. Cùng với kĩ thuật in hình chìm nhiều lớp biểu
tượng và hologram, cộng thêm in ảnh và chữ kí của khách hàng trên thẻ, các Tổ
chức thẻ và các Nhà phát hành thẻ đã làm cho loại thẻ này tăng thêm tính bảo mật
và an toàn trong sử dụng thẻ.
- Thẻ thông minh (Smart card ): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, có đặc tính
bảo mật và an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào thẻ một chip
điện tử có cấu tạo như một máy tính hoàn hảo. Thông thường một tấm thẻ thông
minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ. Cũng có trường hợp
thẻ thông minh có cả Chip điện tử và băng từ. Chip điện tử độc lập với thẻ và được
gắn trên bề mặt của thẻ, về bản chất gồm 2 loại chip: chip bộ nhớ và chip xử lý dữ
liệu. Trong đó, chip bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thông tin cần thiết có thể cung cấp
cho thẻ trong mỗi lần sử dụng; còn chip xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xóa bỏ
hoặc điều chỉnh các thông tin trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu
có khả năng vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng thích lũy đồng thời
8
lưu giữ số liệu về những lần giao dịch tại ĐVCNT. Tính năng vượt trội này của thẻ
thông minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh
toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng như việc

cập nhập thông tin liên quan tới thẻ giờ đây được thực hiện ngay tại ĐVCNT. Thẻ
Chip khắc phục nhiều nhược điểm của thẻ khắc chữ nổi và thẻ từ do hạn chế việc sử
dụng thẻ giả mạo, đảm bảo tính an toàn cao. Tuy nhiên, do sử dụng công nghệ mới
nên giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thanh toán thẻ này cũng đắt nên sử
dụng còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ này
mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ chức thẻ quốc tế vẫn khuyến khích
các ngân hàng thành viên phát hành và thanh toán loại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi
ro do giả mạo thẻ.
* Nếu căn cứ vào tính chất thanh toán có thể chia thành 4 loại: thẻ tín dụng,
thẻ ghi nợ, thẻ liên kết và thẻ trả trước.
- Thẻ tín dụng (Credit card) là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành
thẻ; đây là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cung cấp cho nguời sử
dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Tại thời điểm khách hàng thanh toán hàng
hóa dịch vụ ngân hàng sẽ đứng ra tạm ứng thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá
dịch vụ và sau đó sẽ tiến hành thu hồi khoản tiền này từ khách hàng sau một khoảng
thời gian nhất định theo thoả thuận giữa ngân hàng và chủ thẻ. Khoảng thời gian kể
từ khi thẻ đuợc dùng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho
ngân hàng có độ dài tuỳ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của từng tổ chức thẻ khác
nhau. Chủ thẻ phải thanh toán ít nhất mức trả nợ tối thiểu khi đến hạn quy đinh.
Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở
thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ.
Tuy vậy nếu hết thời gian này mà chủ thẻ vẫn chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán
hết dư nợ cuối kỳ cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí và lãi
chậm trả trên số dư nợ còn lại. Sau khi thanh toán hết dư nợ phát sinh trong kỳ, hạn
9
mức tín dụng của chủ thẻ sẽ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất
“tuần hoàn” (revolving) của thẻ tín dụng.
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng
dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả năng đảm

bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình hình chi tiêu, uy
tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế chấp … của khách
hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất trình thẻ của mình tại các
điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có chấp nhận thẻ để thanh toán. Hiện nay các sản
phẩm thẻ tín dụng rất đa dạng:, ví dụ: thẻ tín dụng Visa, Master Card có thẻ Vàng
(Gold) và thẻ Chuẩn (Classic/Standard)…
- Thẻ ghi nợ (debit card): Là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ
trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán và được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng không diễn ra quá trình
cho vay tín dụng, không có việc phân loại khách hàng nên mọi khách hàng chỉ cần
có tài khoản tại ngân hàng đều có thể tiếp cận với sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân
hàng. Chính vì vậy về mức độ có thể thay thể tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt
trội so với thẻ tín dụng.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép khách
hàng có thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động.
Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy ATM bao gồm: rút tiền,
chuyển khoản, xem số dư tài khoản, in sao kê, xem các thông tin quảng cáo, thanh
toán hóa đơn… Hệ thống ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài
khoản của mình ngay tại các máy ATM, đổi séc qua máy rút tiền tự động, thực hiện
nộp hồ sơ cho một khoản vay cũng như tự mình thực hiện nhiều dịch vụ ngân hàng
khác. Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Bằng cách nhập mã các
số PIN, chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng, mọi nơi,
mọi lúc 24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là cùng với số thẻ
ATM, hệ thống ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch
10
ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục vụ (any where,
any time).
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau
tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch

tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay hai hệ thống ATM lớn nhất trên thế giới là
Cirrus của MasterCard và Plus của Visa, sẵn sàng cho phép thẻ của ngân hàng và
những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
- Thẻ liên kết (Co-Branded Card): Là sản phẩm của một ngân hàng hay tổ
chức tài chính kết hợp với một bên thứ ba và thông thường tên, nhãn hiệu thương
mại hoặc logo của bên thứ ba này cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài
những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân hàng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn
hơn với khách hàng bởi chính những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ
thẻ Visa co-brand do ngân hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit
phát hành mang lại cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như được chăm sóc
sắc đẹp miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3 tháng
đầu tiên, chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán bằng thẻ….
- Thẻ trả trước (Prepaid card): Là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch
thẻ trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã
trả trước cho tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ trả trước không nhất thiết phải có quan hệ
tài khoản với ngân hàng. Thẻ trả trước bao gồm: Thẻ trả trước xác định danh tính (thẻ
trả trước định danh) và thẻ trả trước không xác định danh tính (thẻ trả trước vô danh).
* Nếu căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có thể chia thành thẻ nội địa và thẻ quốc tế.
- Thẻ nội địa: Là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để
giao dịch trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thông thường đó là thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng thương mại phát hành
sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các ĐVCNT của ngân hàng phát hành và
ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết với ngân hàng phát hành đó trong một nước.
- Thẻ quốc tế: Là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để
giao dịch trong và ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoặc
11
là thẻ được tổ chức nước ngoài phát hành và giao dịch trong lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thẻ quốc tế có thể được sử dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế, tại bất
kỳ các ĐVCNT hoặc máy ATM có mang biểu tượng chấp nhận thanh toán thẻ đó.

Để phát hành thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ phải đăng ký và được chấp nhận
làm thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong việc
phát hành và thanh toán thẻ do Tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành. Có 2 loại thẻ quốc
tế là thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế.
1.1.3 Các chủ thể tham gia hoạt động thẻ:
Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng trong nước có sự
tham gia của 4 thành phần cơ bản là: ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh
toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT). Đối với thẻ quốc tế còn
thêm một thành phần nữa là các Tổ chức thẻ quốc tế. Mỗi chủ thể đóng vai trò quan
trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa tính năng phương tiện thanh toán hiện
đại không dùng tiền mặt của thẻ ngân hàng.
1.1.3.1 Tổ chức thẻ quốc tế:
Tổ chức thẻ quốc tế là Hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có mạng
lưới hoạt động rộng khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và các loạt sản
phẩm đa dạng, ví dụ tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ
American Express, công ty thẻ JCB, công ty Diners Club, công ty Mondex … Tổ
chức thẻ quốc tế là đơn vị đầu não, quản lý và đưa ra những quy định cơ bản về
hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian giữa các tổ
chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các lượng tiền
thanh toán giữa các công ty thành viên.
1.1.3.2 Ngân hàng phát hành
Ngân hàng phát hành là thành viên chính thức của các Tổ chức thẻ quốc tế,
là ngân hàng tự mình phát hành thẻ mang thương hiệu riêng hoặc được tổ chức thẻ
quốc tế, công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức
và công ty này. Ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ,
12
xử lý và phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời thực hiện việc thanh
toán cuối cùng với chủ thẻ.
Ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba là một
ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán và phát

hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng phát hành tận dụng được ưu
thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và những ưu thế
về vị trí địa lý. Tuy nhiên cũng phải chịu chấp nhận rủi ro về tài chính bởi ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho bên thứ ba làm ngân hàng đại lý của mình trong việc
phát hành thẻ. Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại lý với ngân hàng phát hành được
gọi là ngân hàng đại lý phát hành. Nếu tên của ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm
thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân hàng đại lý đó phải là thành viên chính thức
của tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ quốc tế.
1.1.3.3 Ngân hàng thanh toán
Là Ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với cơ sở tiếp nhận và thanh toán các
chứng từ giao dịch do cơ sở chấp nhận thẻ xuất trình. Một ngân hàng có thể vừa
đóng vai trò thanh toán thẻ vừa đóng vai trò phát hành thẻ. Với tư cách là ngân hàng
phát hành, khách hàng của họ là chủ thẻ còn với tư cách là ngân hàng thanh toán,
khách hàng là các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.
Ngân hàng thanh toán sẽ cung cấp cho các ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc
thanh toán thẻ, hướng dẫn đơn vị cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ
cũng như quản lý và xử lý những giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông thường
ngân hàng thanh toán sẽ thu từ các ĐVCNT một mức phí chiết khấu cho việc chấp
nhận thanh toán thẻ của đơn vị, nó có thể tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch
hoặc tính theo tổng giá trị giao dịch thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ thuộc vào
từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược của ngân hàng với ĐVCNT.
1.1.3.4 Chủ thẻ
Là người có tên ghi trên thẻ được dùng thẻ để chi trả thanh toán tiền mua
hàng hoá, dịch vụ. Chỉ có chủ thẻ mới có thể sử dụng thẻ của mình mà thôi. Mỗi khi
thanh toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ về hàng hoá dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ
13
phải xuất trình thẻ để nơi đây kiểm tra theo qui trình và lập biên lai thanh toán. Chủ
thẻ có thể là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền (nếu là thẻ do công ty uỷ
quyền sử dụng). Thông thường, mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành thêm thẻ phụ,
cả thẻ chính và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có

trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ chính là người
có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân hàng. Chủ thẻ sử dụng thẻ của
mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ có
chấp nhận thẻ ( ĐVCNT), các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử
dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự động. Đối với thẻ tín dụng,
sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng ngân hàng phát
hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê (statement) thông báo chi tiết các giao dịch chi
tiêu sử dụng thẻ của chủ thẻ trong kỳ sao kê, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh
toán cũng như số tiền thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán trong kỳ
cho ngân hàng và các thông báo liên quan đến việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào các
thông tin trên sao kê, nếu không có gì thắc mắc chủ thẻ sẽ thực hiện việc thanh toán
sao kê cho ngân hàng phát hành thẻ, ngược lại chủ thẻ có quyền khiếu nại đối với
các thông tin, các giao dịch không chính xác hoặc không thực hiện gửi tới ngân
hàng yêu cầu được giải đáp.
1.1.3.5 Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT)
Là các thành phần kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có ký kết với Ngân hàng
thanh toán về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: nhà hàng, khách sạn, cửa hàng
Các đơn vị này phải trang bị máy móc kỹ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán tiền mua
hàng hoá, dịch vụ, trả nợ thay cho tiền mặt.
Để trở thành ĐVCNT của một ngân hàng nhất thiết đơn vị đó phải có tình
hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như các ngân hàng phát hành
thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán cũng tiến hành
đánh giá lựa chọn ĐVCNT. Chỉ có những đơn vị có hiệu quả kinh doanh cao, có
khả năng thu hút được nhiều giao dịch thanh toán thẻ thì ngân hàng mới có thể thu
hồi được vốn đầu tư cho các đơn vị đó và có lãi.
14
1.1.4 Các hoạt động kinh doanh thẻ tại NHTM
1.1.4.1 Hoạt động phát hành thẻ
Hoạt động phát hành thẻ của ngân hàng bao gồm các việc quản lý và triển
khai toàn bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ và thu nợ khách hàng. Cả ba quá

trình này đều quan trọng và không được coi nhẹ. Mỗi một phần đều liên quan rất
chặt chẽ đến việc phục vụ khách hàng và quản lý rủi ro cho ngân hàng. Các tổ chức
tài chính, ngân hàng phát hành thẻ phải xây dựng các quy định về việc sử dụng thẻ
và thu nợ: số tiền thanh toán tối thiểu, ngày sao kê, ngày đến hạn, các loại phí và lãi,
hạn mức tín dụng tối đa, tối thiểu, các chính sách ưu đãi …
Về cơ bản hoạt động phát hành thẻ được thực hiện bao gồm:
- Tổ chức các hoạt động tiếp thị để đưa sản phẩm vào thị trường.
- Thẩm định khách hàng phát hành thẻ.
- Cấp hạn mức tín dụng thẻ đối với thẻ tín dụng
- Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng
- In nổi và mã hóa thẻ
- Cung cấp mã số cá nhân (PIN) cho chủ thẻ
- Quản lý thông tin khách hàng
- Quản lý hoạt động sử dụng thẻ của khách hàng
- Quản lý tình hình thu nợ của khách hàng
- Cung cấp dịch vụ khách hàng
- Tổ chức thanh toán bù trừ với các Tổ chức thẻ quốc tế.
Triển khai hoạt động phát hành thẻ, ngoài việc hưởng phí phát hành thẻ thu
được từ chủ thẻ, các ngân hàng còn được hưởng khoản phí trao đổi do đây là phần
lợi nhuận cơ bản của các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành thẻ. Trên cơ sở
nguồn thu này, các tổ chức tài chính, ngân hàng phát hành thẻ đưa ra được những
chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng nhằm thu hút khách hàng sử dụng
thẻ cũng như tăng doanh số sử dụng thẻ.
15
1.1.4.2 Hoạt động thanh toán thẻ
Việc triển khai hoạt động thanh toán thẻ của một ngân hàng không chỉ là thu
lợi nhuận từ nguồn phí chiết khấu tính trên giá trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ
các ĐVCNT mà còn là mong muốn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn
chỉnh, một cơ sở lợi nhuận cho sử dụng thẻ. Đối với TCTQT và các thành viên, việc
khuyến khích hoạt động thanh toán thẻ thông qua mở rộng mạng lưới ĐVCTN có ý

nghĩa rất quan trọng.
Hiện nay, hoạt động thanh toán trên thị trường thẻ thế giới đã phát triển ở
mức độ rất cao với hàng trăm nghìn ĐVCNT tại hơn 200 quốc gia, chấp nhận thẻ
mang các thương hiệu nổi tiếng thế giới như Visa, MasterCard, Diners Club,
American Express, JCB và nhiều loại thẻ ngân hàng quốc tế và nội địa khác. Tại
Việt Nam, tuy thẻ ngân hàng còn là mới mẻ nhưng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
toán của một lượng lớn khách nước ngoài cũng như thị trường nội địa ngày càng
phát triển, số lượng các ngân hàng thanh toán thẻ tính tới năm 2010 đạt khoảng 49
ngân hàng với mạng lưới hơn 50.000 ĐVCNT trên toàn quốc. Hoạt động thanh toán
thẻ của các ngân hàng chủ yếu là:
- Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin khách hàng ĐVCNT
- Quản lý hoạt động của mạng lưới ĐVCNT
- Tổ chức thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ cho các ĐVCNT
- Cung cấp dịch vụ khách hàng
- Tổ chức tập huấn kiến thức thanh toán thẻ cho nhân viên các ĐVCNT
- Cung cấp trang thiết bị, vật tư phục vụ cho công tác thanh toán thẻ.
1.1.4.3 Hoạt động quản lý rủi ro và tra soát khiếu nại
Hoạt động kinh doanh thẻ phải đối mặt với khá nhiều loại rủi ro khác nhau
như: thực hiện giao dịch giả mạo, việc các tổ chức, cá nhân cố ý sử dụng thẻ một
cách không hợp pháp, các ĐVCNT không tuân thủ quy trình đã được hướng dẫn,
cung cấp các thông tin về thẻ cho bên thứ ba hoặc việc các ĐVCNT không thông
báo việc chấm dứt hoạt động kinh doanh trong khi vẫn còn nợ tiền ngân hàng …
Tất cả những hành vi trên đều gây ra những rủi ro và tổn thất đối với ngân hàng.
16
Chính vì vậy, một trong những lĩnh vực quan trọng của kinh doanh thẻ ngân hàng là
hoạt động quản lý rủi ro. Các ngân hàng sẽ xây dựng một bộ phận quản lý rủi ro
nhằm kiểm soát, hạn chế rủi ro và giải quyết các tra soát khiếu nại liên quan đến rủi
ro về thẻ.
Bộ phận quản lý rủi ro tại các ngân hàng có kinh doanh thẻ được coi là bộ
phận xương sống (backbone) trong hoạt động thẻ, thực hiện các chức năng:

- Ngăn ngừa và điều tra các hành vi sử dụng thẻ giả mạo;
- Quản lý danh mục các tài khoản liên quan tới những thẻ đã được thông báo
mất, thất lạc;
- Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in và thẻ
hỏng, thẻ thu hồi;
- Cập nhật thông tin trên các danh sách thẻ mất cắp, thất lạc;
- Hợp tác với cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều tra, xử lý các
hành vi vi phạm hợp đồng, giả mạo;
- Theo dõi và quản lý hoạt động của Trung tâm Thẻ, bao gồm cả hoạt động
của các cán bộ;
- Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện pháp
phòng ngừa giả mạo;
Kinh doanh thẻ ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro càng
được đầu tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này thường là những người
có kinh nghiệm và thực sự am hiểu về thẻ và công nghệ vì chỉ có vậy họ mới có thể
ngăn ngừa, dự doán và phát hiện các hành vi giả mạo trong lĩnh vực thẻ.
Tra soát khiếu nại là hoạt động quan trọng của ngân hàng nhằm bảo vệ
quyền lợi khách hàng và uy tín của ngân hàng. Bất kì 1 ngân hàng nào khi cung cấp
các dịch vụ về thẻ đều không thể tránh khỏi các rủi ro do lỗi thiết bị, lỗi hệ thống…
dẫn đến việc khách hàng đã thực hiện giao dịch, đã bị trừ tiền tài khoản nhưng giao
dịch không thành công. Khi đó khách hàng sẽ đến ngân hàng và thực hiện tra soát.
Bộ phận tra soát khiếu nại sẽ kiểm tra giao dịch tra soát và thực hiện hoàn tiền hoặc
thực hiện dịch vụ cho khách hàng.
17
1.1.4.4 Marketing và dịch vụ khách hàng
Bất kỳ ngành nghề kinh doanh nào cũng đòi hỏi chú trọng đáng kể vào công
tác marketing và dịch vụ khách hàng. Về lý thuyết, marketing và dịch vụ khách
hàng trong kinh doanh thẻ là khái niệm tương đối rộng, bao gồm toàn bộ các
phương thức để tìm kiếm khách hàng (ĐVCNT và chủ thẻ), giúp họ tiếp cận và đưa
ra quyết định lựa chọn phương thức thanh toán phi tiền mặt này và trở thành khách

hàng lâu dài của ngân hàng.
Trên thực tế, marketing và dịch vụ khách hàng trong kinh doanh thẻ bao gồm
các hoạt động như:
- Tiếp xúc với các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp có tiềm năng sử
dụng thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng sử dụng thẻ thông qua những tiện ích của
thẻ ngân hàng nói chung và các ưu thế, những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
- Duy trì mối liên hệ với chủ thẻ, khuyến khích tiêu dùng thẻ của chủ thẻ
thông qua việc xây dựng các chương trình khuyến mại, điểm thưởng …
- Tiếp xúc với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng cho hoạt
động thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ thông qua
những lợi ích về thẻ ngân hàng và các ưu thế của các ngân hàng riêng biệt.
- Cung cấp dịch vụ cho các ĐVCNT như: lắp đặt các thiết bị đọc thẻ, hướng
dẫn quy trình nghiệp vụ, thao tác cần thiết cho hoạt động chấp nhận thẻ, tiếp nhận
những yêu cầu về duy trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị từ ĐVCNT.
- Tiến hành việc quảng cáo cho các ĐVCNT nói chung hoặc các ĐVCNT
tiềm năng cùng với chương trình quảng cáo, khuếch trương thẻ.
- Nâng cao tính trung thành của các ĐVCNT bằng cách xếp hạng, tính điểm
phục vụ hoặc lượng giá trị giao dịch tại đơn vị để từ đó có thể giảm phí chiết khấu …
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng và đóng vai trò quyết định trong hoạt động
marketing chính là con người. Các cán bộ marketing đòi hỏi vừa vững kiến thức về
thẻ, vừa nắm rõ thị trường, nhanh nhạy, linh hoạt với các thông tin và có khả năng
nghiệp vụ marketing.
18
1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ:
1.2.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro gắn liền vớí khả năng xảy ra của 1 biến cố ko lường trước đó là biến cố mà
hoàn toàn ko chắc chắn
Quản trị rủi ro trong kinh doanh là một quán trình bao gồm các hoạt động
nhằm nhận diện, xác định mức độ ưu tiên xử lý các rủi ro, áp dụng các nguồn lực để
hạn chế, loại bỏ các rủi ro hoặc khắc phục các hậu quả mà rủi ro gây ra đối với hoạt

động kinh doanh.
1.2.2 Quy trình quản trị rủi ro
Nhận diện và kiểm soát tốt rủi ro chỉ bằng kỹ năng và kinh nghiệm cá nhân
không chưa đủ, việc kiểm soát rủi ro phải được thực hiện theo một quy trình chặt
chẽ và phụ hợp với đặc thù, mục tiêu của đơn vị.
N H A ÄN D I E ÄN
R U ÛI R O
P H A ÂN T Í C H
R U ÛI R O
G I A ÙM S A ÙT
K I E ÅM S O A ÙT
R U ÛI R O
T h o ân g t i n m ô ùi
P h a ûn h o ài
T h ö ïc h i e än L ö ïa c h o ïn
Ñ e à x u a át
Ñ i e àu c h æ n h
Nguồn: Putting Risk Management into Practice của
Software Engineering Íntitute
Hình 1.1 Quy trình cơ bản quản lý rủi ro
Ở mức chi tiết hơn, quy trình quản lý rủi ro gồm các bước với trình tự xử lý
19
Ñ o än g n a õo
B a ûn g c a âu h o ûi
P h i e áu ñ i e àu t r a
D ö õ l i e äu q u a ù k h ö ù
Y Ù k i e án c h u y e ân g i a
X a ùc
s u a át x a ûy r a r u ûi r o
A Ûn h

h ö ô ûn g c u ûa r u ûi r o
T h ô øi ñ i e åm x a ûy r a r u ûi r o
P h a ân l o a ïi r u ûi r o
S a ép x e áp r u ûi r o
t h e o ñ o ä ö u t i e ân
C a ùc y e áu t o á ñ a àu v a øo
K h a ûo s a ùt r u ûi r o K i e åm s o a ùt r u ûi r o
N h a än d i e än r u ûi r o
P h a ân t í c h r u ûi r o
X a ùc ñ ò n h r u ûi r o
C a ùc c h i e án l ö ô ïc ñ o ái
p h o ù r u ûi r o
K i e åm s o a ùt v a ø ñ o
l ö ô øn g
M u ïc
t i e âu
Nguồn: Putting Risk Management into Practice của
Software Engineering Íntitute
Hình 1.2: Trình tự các bước trong quy trình quản lý rủi ro
Quá trình quản trị rủi ro có thể được khái quát qua 5 bước sau:
Bước 1: Nhận diện rủi ro: là việc sử dụng các kỹ thuật như xem xét tài liệu,
hỏi ý kiến chuyên gia… nhằm xác định các khả năng có thể phát sinh rủi ro từ đó
nhận diện các rủi ro có thể xảy ra.
Bước 2: Phân tích rủi ro: là phân tích tất cả những rủi ro trong danh sách các
rủi ro, đánh giá khả năng xảy ra và tác động dự kiến của các rủi ro, để xác định
những rủi ro hàng đầu cần phải được quản lý.
Bước 3: Xác định rủi ro: là việc sắp xếp rủi ro theo các mức độ ưu tiên
Bước 4: Kiểm soát rủi ro: là việc lựa chọn chiến lược và phương pháp đối
phó rủi ro.
Bước 5: Giám sát và điều chỉnh: Bao gồm hoạt động giám sát để đảm bảo

chiến lược đối phó rủi ro được lên kế hoạch và thực thi chặt chẽ. Việc giám sát cũng
nhằm mục đích điều chỉnh các chiến lược hoặc kế hoạch đối phó nếu chúng tỏ ra
không hiệu quả, không khả thi hoặc để đáp ứng rủi ro mới xuất hiện.
20
1.2.3 Các loại rủi ro trong kinh doanh thẻ
1.2.3.1 Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ
Ngân hàng phát hành phải đối mặt với nhiều rủi ro khác nhau trong suốt quá
trình phát hành thẻ:
* Đơn phát hành thẻ giả mạo (Fraudulent Applications): Ngân hàng có thể
phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với các thông tin giả mạo do
không thẩm định kỹ các thông tin khách hàng cung cấp trên hồ sơ xin phát hành thẻ.
* Thẻ giả: Thẻ giả là thẻ do các tổ chức hoặc cá nhân làm giả dựa vào các
thông tin có được từ việc đánh cắp các dữ liệu trên băng từ của thẻ thật, từ các thẻ
mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng sẽ gây tổn thất cho NHPH bởi vì theo quy
định của tổ chức thẻ quốc tế, NHPH chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch
mang mã số BIN của NHPH. Đây là loại hình rủi ro đặc biệt nguy hiểm và khó
quản lý vì nằm ngoài sự tiên liệu của các NHPH.
- Thẻ bị dập nổi lại: là loại thẻ giả mà các thông tin trên thẻ được dập lại
bằng công nghệ đơn giản trên nền phôi thẻ bị mất cắp, thất lạc. Các thông tin an
ninh trên thẻ giống như thẻ thật nhưng có thể dễ dàng kiểm tra và phát hiện bằng
mắt thường. Có thể phát hiện thẻ giả khi đối chiếu thông tin in nổi ở mặt trước thẻ
với các thông tin in chìm trên băng chữ ký mặt sau của thẻ hoặc với dữ liêu trên
băng từ khi đọc thẻ qua máy EDC.
- Thẻ bị thay đổi thông tin trên thẻ: Tội phạm dùng thẻ thật không còn giá trị
lưu hành để thay đổi các thông tin trên thẻ. Thường sử dụng các công nghệ đơn
giản, có thể dễ dàng kiểm tra bằng mắt thường. Phát hiện giả mạo bằng cách kiểm
tra so sánh thông tin in nổi trên thẻ với các thông tin được in trên băng chữ ký mặt
sau của thẻ hoặc với dữ liệu trên băng từ khi đọc thẻ qua máy EDC.
- Thẻ giả mạo: Tội phạm làm thẻ giả dựa trên các thông tin lấy được từ việc
đánh cắp các dữ liệu của thẻ thật bằng các thủ đoạn khác nhau. Loại giả mạo này

thường liên quan đến tội phạm có tổ chức (vì yêu cầu công nghệ cao hơn). Các giao
dịch giả mạo được thực hiện từ thẻ giả khó phát hiện và có thể được NHPH hoặc Tổ
21

×