Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

hoàn thiện thanh tra giá chuyển nhượng trong các doanh nghiệp do thanh tra ngành thuế thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.53 KB, 110 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung của Luận văn này hoàn toàn được
hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Thị Phương Hoa. Các số liệu và kết quả
trong Luận văn tốt nghiệp là hoàn toàn trung thực.
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ALP Nguyên tắc giá thị trường
APA Thỏa thuận trước về giá
CUP Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
JICA Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
NNT Người nộp thuế
OECD Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
SGATAR Hiệp hội quản lý thuế các nước châu Á
TNDN Thuế thu nhập doanh nghiệp
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1 Mô hình tổ chức hệ thống thanh tra thuế ở Việt Nam Error: Reference
source not found
BẢNG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài nghiên cứu
Gian lận về giá chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ giữa các bên có quan hệ liên
kết để tránh thuế đã trở thành hiện tượng phổ biến, diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, đặc biệt là những năm gần đây các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hành vi chuyển giá đã
chuyển một phần hoặc toàn bộ thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) về
tập đoàn, công ty mẹ ở nước ngoài gây thất thu cho Ngân sách nhà nước. Mặt khác,


lợi dụng chính sách ưu đãi thuế, một số doanh nghiệp có quan hệ liên kết đã lập kế
hoạch tránh thuế TNDN ngay trong nội địa Việt Nam. Các doanh nghiệp này đã
không được ưu đãi thuế sang doanh nghiệp được ưu đãi thuế để hưởng lợi bằng cách
định giá mua, bán sản phẩm (hàng hoá, dịch vụ) không theo giá giao dịch thông
thường trên thị trường làm thất thu cho Ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, chống
chuyển giá, xác định đúng giá thị trường trong chuyển giao hàng hóa dịch vụ giữa các
bên có quan hệ liên kết có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường số thu cho
Ngân sách nhà nước, đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, nâng cao tính tuân thủ, tính
tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với Ngân sách
nhà nước. Trong khi đó, kỹ năng về quản lý thuế quốc tế và xác định giá chuyển
nhượng của cán bộ thuế các cấp còn rất nhiều hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải có
những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về hiện trạng hoạt động thanh tra giá chuyển
nhượng ở Việt Nam từ để đề xuất, xây dựng các giải pháp phù hợp cho công tác này
đáp ứng yêu cầu quản lý theo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu Đề tài “Hoàn thiện thanh tra giá chuyển nhượng
trong các doanh nghiệp do thanh tra ngành thuế thực hiện” có ý nghĩa thiết thực,
mang tính thời sự, cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Giá chuyển nhượng đang là vấn đề mang tính thời sự tại Việt Nam, trong
i
những năm gần đây hiện tượng các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đã lợi dụng giá chuyển nhượng đế trốn thuế làm thất
thu cho ngân sách nhà nước. Với trách nhiệm của mình Ngành Thuế đã thực hiện
nhiều các biệp pháp quản lý khác nhau trong đó có hoạt động thanh tra giá chuyển
nhượng nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả, tình trạng lợi dụng giá chuyển nhượng
vẫn còn diễn biến phức tạp. Chính vì vậy, mục đích nghiên cứu của Đề tài là nghiên
cứu và làm rõ những lý luận về giá chuyển nhượng và thanh tra giá chuyển nhượng,
đồng thời đánh giá một cách trung thực khách quan về thực trạng trốn thuế thông
qua giá chuyển nhượng và thanh tra giá chuyển nhượng trong doanh nghiệp do

thanh tra ngành thuế thực hiện.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận nghiên cứu và thực trạng thanh tra giá
chuyển nhượng do thanh tra Ngành thuế Thực hiện. Căn cứ vào kết quả phân tích,
đánh giá các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để đưa ra các biện
pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng
công ty Quản lý bay Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là thanh tra giá chuyển nhượng tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực
hiện, mà thực chất thanh tra hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Pham vi nghiên cứu của Đề tài là thanh tra giá chuyển nhượng tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực hiện. Luận văn
không đi vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động thanh tra, kiểm tra của
các cơ quan chức năng khác thuộc Chính phủ cũng như hoạt động thanh tra, kiểm
tra nội bộ và thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo do thanh tra Ngành Thuế
thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử trên cơ sở lý luận và thực tế được tiếp cận qua công tác thanh tra thuế do Tác
ii
giả thực hiện. Đồng thời, Đề tài cũng kết hợp với các phương pháp chuyên ngành
như thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, tiếp cận hệ thống
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài
Về mặt khoa học: Hệ thống hóa, góp phần tổng kết lại mặt lý luận về giá
chuyển nhượng, thanh tra giá chuyên nhượng, làm tiền đề áp dụng lý luận vào thực
tiễn.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, khảo sát, phân tích thực trạng và đánh giá
hiệu quả thanh tra giá chuyển nhượng tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực hiện từ đó đưa ra các kiến nghị, biện

pháp góp phần hoàn thiện thanh giá chuyển nhượng trong các doanh nghiệp do
thanh tra Ngành Thuế thực hiện.
6. Bố cục của Đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo kết cấu của
luận văn gồm những nội dung chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra giá chuyển nhượng
trong doanh nghiệp do thanh tra Ngành Thuế thực hiện;
Chương 2: Thực trạng thanh tra giá chuyển nhượng trong doanh nghiệp do
thanh tra Ngành Thuế Việt Nam thực hiện;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện thanh tra giá chuyển
nhượng trong doanh nghiệp do thanh tra Ngành Thuế Việt Nam thực hiện.
Có thể khái quát, tóm tắt nội dung của luận văn như sau:
Chương 1, luận văn trình bày cơ sở lý luận về giá chuyển nhương, chuyển giá
và thanh tra giá chuyển nhượng bao gồm các nội dung; khái niệm và bản chất của
giá chuyển nhượng, chuyển giá và thanh tra giá chuyển nhượng. Một số quan điểm
của các nhà kinh tế, các tổ chức quốc tế cũng như các học giả về giá chuyển
nhượng, chuyển giá và thanh tra giá chuyển nhượng qua đó tác giả Đề tài thống
nhất và cho rằng: Giá chuyển nhượng là giá áp dụng trong các giá giao dịch mua
bán hàng hóa, dịch vụ giữa các công ty thành viên, được thống nhất quản lý và có
thể tác động vào các khoản phải trả cho thu nhập hoặc chuyển vốn giữa các công ty
iii
thành viên này; chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng
hóa, dịch vụ được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp của doanh nghiệp và Thanh tra giá
chuyển nhượng là một loại hình chuyên sâu của thanh tra thuế trong đó tập trung
vào việc xác định lại giá chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ giữa các bên có quan hệ
liên kết. Tác giả đưa ra các hình thức chuyển giá, tác động của chuyển giá và
nguyên nhân của hoạt động chuyển giá trong doanh nghiệp, đồng thời tác giả cũng
đã trình bày các nguyên tắc cần áp dụng khi thanh tra giá chuyển nhượng. Từ đó
đưa ra một số phương pháp thanh tra giá chuyển nhượng cơ bản tại các doanh nghiệp

như: Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập; Phương pháp giá bán lại; Phương
pháp giá vốn cộng lãi; Phương pháp so sánh lợi nhuận; Phương pháp tách lợi nhuận,
quy trình thanh tra giá chuyển nhượng tại doanh nghiệp.
Chương 2, trên cơ sở lý luận chung về thanh tra giá chuyển nhượng tác giả tập
trung nghiên cứu kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua, thực trạng chuyển giá và các hình thức chuyển giá của các công ty có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Tác giả cũng đã đi sâu vào nghiên
cứu cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của bộ máy thanh tra Ngành Thuế, quy
trình thanh tra thuế, kết quả thực hiện thanh tra giá chuyển nhượng trong các doanh
nghiệp và đã tóm lược việc thực hiện quy trình thanh tra qua trường hợp thanh tra
giá chuyển nhượng điển hình. Tác giả cũng đã nghiên cứu và khái quát đầy đủ thực
trạng thanh tra giá chuyển nhượng trong do thanh tra ngàh thuế thực hiện, chỉ rõ
những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại
hạn chế đó.
Cụ thể tác giả đã đi sâu vào phân tích thực trạng chuyển giá của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã chỉ
rõ: Đến hết năm 2010 cả nước có 8.750 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn
hoạt động, nhìn chung sau giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở sở vật chất các doanh
nghiệp đã dần đi vào ổn định và phát triển với quy mô sản xuất ngày càng mở rộng
doanh thu ngày càng tăng tuy nhiên có một thực tế hết sức bất thường đó là trong
iv
tổng số 8.750 doanh nghiệp thì có 5.670 doanh nghiệp (chiếm 64,8%) làm ăn có lãi
và chỉ có 2.825 doanh nghiệp (chiếm 32,2%) phải nộp thuế TNDN với tổng số thuế
đã nộp trong năm 2010 là 15.188 tỷ đồng. Hiện tượng các doanh nghiệp liên tục
khai lỗ nhưng vẫn tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh là một nghịch lý
nhưng đã tồn tại từ nhiều năm, tình hình này phổ biến đến mức một nhà đầu tư nước
ngoài đã gọi Việt Nam là “thiên đường thuế”.
Bảng 2.2 Tình hình kê khai thuế TNDN tại các doanh nghiệp FDI
giai đoạn 2006 - 2010
Năm

Số doanh
nghiệp
đang
Doanh nghiệp khai lỗ
Doanh nghiệp nộp
thuế TNDN
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
(1) (2) (3) (4 = 3/2) (5) (6 = 5/2) (7)
2006 5.147 3.017 58,6 1.239 24,1 7.212
2007 6.245 3.525 56,4 1.579 25,3 5.829
2008 7.244 3.683 50,8 1.884 26,0 9.050
2009 8.100 3.758 46,4 2.011 24,8 8.140
2010 8.750 3.580 40,9 2.825 32,3 15.188
Trung bình 50,6 26,5 4,76
Nguồn Báo cáo thống kê Tổng cục Thuế
Từ số liệu trên cho thấy, tình bình quân giai đoạn 2006-2010 trong tổng số
các doanh nghiệp FDI đang hoạt động có 50,6% doanh nghiệp khê khai lỗ, 26,5%
doanh nghiệp nộp thuế TNDN với số thuế bình quân là 4,7 tỷ đồng. Tỷ lệ các doanh
nghiệp khai lỗ có xu hướng giảm đần từ 58,6% năm 2006 xuống còn 40,9% năm
2010, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn khá cao nếu so sánh với tỷ lệ các doanh nghiệp
đang hoạt động kê khai lỗ trên phạm vi cả nước năm 2010 là 26,7%.
Tác giá cũng đã khái quát được kết quả thanh tra giá chuyển nhượng do
thanh tra Ngành Thuế thực hiện
Bảng 2.9 : Kết quả thanh tra, kiểm tra NNT năm 2007 - 2010
v
STT Chỉ tiêu Năm
2007
Năm
2008
Năm

2009
Năm
2010
I. Tổng số doanh nghiệp được
thanh tra, kiểm tra
70.245 29.947 21.585 31.759
1. Tổng số thuế phải nộp sau thanh
tra, kiểm tra
3.848 2.408 3.626 5.462
- Nợ đọng 470 46 98 148
- Truy thu 3.214 2.231 3.347 4.708
- Phạt 164 131 181 606
2.
Điều chỉnh giảm lỗ 950 1.610 11.274
II. Số doanh nghiệp có dấu hiệu
chuyển giá được thanh tra
3 16 124 432
1. Tổng số thuế phải nộp sau thanh tra 16 14 39 143
- Truy thu 15 12 34 134
- Phạt 1 2 5 9
2. Điều chỉnh giảm lỗ 24 362 3.620
III. Số doanh nghiệp có sai phạm về
giá chuyển nhượng
1 3 14 19
1. Tổng số thuế phải nộp sau thanh tra 2 6 8 11
- Truy thu 2 5 7 9
- Phạt 1 1 2
2. Điều chỉnh giảm lỗ 12 337 638
Nguồnbáo cáo thống kê Tổng cục Thuế
Từ kết quả của các nghiên cứu, phân tích tác giả đưa ra nhận xét đánh giá

chung về thực trạng thanh tra giá chuyển nhượng, những kết quả đạt được, những
tồn tại và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại.
Chưong 3, Trên cơ sở sự cần thiết phương phướng, mục tiêu hoàn thiện
thanh tra giá chuyển nhượng và những nhận xét đánh giá về kết quả đạt được cũng
như chưa đạt được của thanh tra giá chuyển nhượng. Tác giả Đề tài đưa ra một số
biện pháp nhằm hoàn thiện thanh tra giá chuyển nhượng trong các doanh nghiệp do
vi
thanh tra Ngành Thuế thực hiện, đó là: Hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng
minh bạch, đơn giản, hiệu quả và thống nhất; Hoàn thiện cơ chế thanh tra giá
chuyển nhượng theo mức độ rủi ro; Xây dựng bộ phận thanh tra giá chuyển nhượng
tại Tổng cục Thuế và một số cục thuế có quy mô lớn; Bổ sung chức năng điều tra cho
cơ quan thuế; Tăng cường công tác đào tạo nhằm nâng cao năng lực của cán bộ thanh
tra thuế; Xây dựng sổ tay nghiệp vụ thanh tra giá chuyển nhượng;Xây dựng và áp
dụng quy trình thỏa thuận trước về giá; Xây dựng kho cơ sở dữ liệu về người nộp
thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thanh tra giá chuyển nhượng;
Tăng cường hoạt động thuế quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh kế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập sâu và rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhất là từ khi Việt Nam trờ thành thành viên
chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ”độ mở” của nền kinh tế ngày
các cao, ngày càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài trong đó có nhiều tập đoàn lớn
quan tâm và đầu tư vào Việt Nam tạo nên một khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài phát triển sôi động đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Cùng với sự lớn mạnh đó, mức độ đóng góp vào Ngân sách nhà nước
của các doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng góp phần chuyển
dịch cơ cấu thu Ngân sách nhà nước theo hướng tích cực, đảm bảo tính ổn định bền
vững của Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó có một bộ phận không nhỏ doanh
nghiệp đã lợi dụng những kiếm khuyết trong hệ thống chính sách thuế để trốn thuế
thông qua các hành vi chuyển giá làm thất thu ngân sách bóp méo thị trường và làm
suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khác.

Trong những năm gần cung với việc thực hiện thành công Chiến lược Cải
cách Hệ thống Thuế đến năm 2010 hoạt động thanh tra thuế nói chung và thanh tra
giá chuyển nhượng nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện cả về phương pháp,
quy trình và lực lượng thanh tra. Nghiên cứu thực trạng hoạt động thanh tra giá
chuyển nhượng, xu hướng cải cách và hiện đại hoá công tác thanh tra giá chuyển
nhượng của các nước trong khu vực và trên thế giới là cơ sở quan trọng, cần thiết để
vii
ngành thuế có thể đưa ra các giải pháp kịp thời, có hiệu quả trong công tác thanh tra
giá chuyển nhượng. Các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ, trên cơ sở phối hợp
với các chức năng quản lý khác của ngành như tuyên truyền, hỗ trợ; quản lý kê khai
và cưỡng chế, thu nợ; đồng thời tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ thanh
tra thuế cả về kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả công tác
thanh tra thuế, công tác quản lý thuế.
Với những nội dung phân tích ở từng chương, Luận văn đã đạt được những
kết quả chủ yếu sau:
Thứ nhất, Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra giá
chuyển nhượng kinh nghiệm hoạt động thanh tra giá chuyển nhượng của của một số
nước trên thế giới tạo điều kiện để nghiên cứu thực trạng thanh tra giá chuyển
nhượng ở Việt Nam một cách đúng đắn và khoa học;
Thứ hai, qua phân tích, đánh giá thực trạng thanh tra giá chuyển nhượng,
luận văn đã chỉ rõ những kết quả chủ yếu, những tồn tại, hạn chế, từ đó rút ra những
nguyên nhân hạn chế của thanh tra giá chuyển nhượng ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, các lý luận và thực trạng nghiên cứu, Luận văn đã đưa ra sự cần thiết
phải đổi mới thanh tra giá chuyển nhượng tại Việt Nam, đề xuất một số giải pháp cơ
bản để hoàn thiện thanh tra giá chuyển nhượng trong tình hình mới.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu hạn hẹp, mặc dù đã có nhiều cố gắng
song Luận văn không tránh khỏi những sai sót nhất định. Tác giả mong muốn nhận
được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các đồng nghiệp để bản
Luận văn được hoàn thiện hơn…
viii

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài nghiên cứu
Gian lận về giá chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ giữa các bên có quan hệ liên
kết để tránh thuế đã trở thành hiện tượng phổ biến, diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, đặc biệt là những năm gần đây các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hành vi chuyển giá đã
chuyển một phần hoặc toàn bộ thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) về
tập đoàn, công ty mẹ ở nước ngoài gây thất thu cho Ngân sách nhà nước. Mặt khác,
lợi dụng chính sách ưu đãi thuế, một số doanh nghiệp có quan hệ liên kết đã lập kế
hoạch tránh thuế TNDN ngay trong nội địa Việt Nam. Các doanh nghiệp này đã
không được ưu đãi thuế sang doanh nghiệp được ưu đãi thuế để hưởng lợi bằng cách
định giá mua, bán sản phẩm (hàng hoá, dịch vụ) không theo giá giao dịch thông
thường trên thị trường làm thất thu cho Ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, chống
chuyển giá, xác định đúng giá thị trường trong chuyển giao hàng hóa dịch vụ giữa các
bên có quan hệ liên kết có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường số thu cho
Ngân sách nhà nước, đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, nâng cao tính tuân thủ, tính
tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với Ngân sách
nhà nước. Trong khi đó, kỹ năng về quản lý thuế quốc tế và xác định giá chuyển
nhượng của cán bộ thuế các cấp còn rất nhiều hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải có
những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về hiện trạng hoạt động thanh tra giá chuyển
nhượng ở Việt Nam từ để đề xuất, xây dựng các giải pháp phù hợp cho công tác này
đáp ứng yêu cầu quản lý theo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu Đề tài “Hoàn thiện thanh tra giá chuyển nhượng
trong các doanh nghiệp do thanh tra ngành thuế thực hiện” có ý nghĩa thiết thực,
mang tính thời sự, cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Giá chuyển nhượng đang là vấn đề mang tính thời sự tại Việt Nam, trong
1
những năm gần đây hiện tượng các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đã lợi dụng giá chuyển nhượng đế trốn thuế làm thất
thu cho ngân sách nhà nước. Với trách nhiệm của mình Ngành Thuế đã thực hiện
nhiều các biệp pháp quản lý khác nhau trong đó có hoạt động thanh tra giá chuyển
nhượng nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả, tình trạng lợi dụng giá chuyển nhượng
vẫn còn diễn biến phức tạp. Chính vì vậy, mục đích nghiên cứu của Đề tài là nghiên
cứu và làm rõ những lý luận về giá chuyển nhượng và thanh tra giá chuyển nhượng,
đồng thời đánh giá một cách trung thực khách quan về thực trạng trốn thuế thông
qua giá chuyển nhượng và thanh tra giá chuyển nhượng trong doanh nghiệp do
thanh tra ngành thuế thực hiện.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận nghiên cứu và thực trạng thanh tra giá
chuyển nhượng do thanh tra Ngành thuế Thực hiện. Căn cứ vào kết quả phân tích,
đánh giá các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để đưa ra các biện
pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng
công ty Quản lý bay Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là thanh tra giá chuyển nhượng tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực
hiện, mà thực chất thanh tra hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Pham vi nghiên cứu của Đề tài là thanh tra giá chuyển nhượng tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực hiện. Luận văn
không đi vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động thanh tra, kiểm tra của
các cơ quan chức năng khác thuộc Chính phủ cũng như hoạt động thanh tra, kiểm
tra nội bộ và thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo do thanh tra Ngành Thuế
thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử trên cơ sở lý luận và thực tế được tiếp cận qua công tác thanh tra thuế do Tác
2
giả thực hiện. Đồng thời, Đề tài cũng kết hợp với các phương pháp chuyên ngành

như thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, tiếp cận hệ thống
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Hệ thống hóa, góp phần tổng kết lại mặt lý luận về giá
chuyển nhượng, thanh tra giá chuyên nhượng, làm tiền đề áp dụng lý luận vào thực
tiễn.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, khảo sát, phân tích thực trạng và đánh giá
hiệu quả thanh tra giá chuyển nhượng tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài do thanh tra Ngành Thuế thực hiện từ đó đưa ra các kiến nghị, biện
pháp góp phần hoàn thiện thanh giá chuyển nhượng trong các doanh nghiệp do
thanh tra Ngành Thuế thực hiện.
6. Bố cục của Đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo kết cấu của
luận văn gồm những nội dung chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra giá chuyển nhượng
trong doanh nghiệp do thanh tra Ngành Thuế thực hiện;
Chương 2: Thực trạng thanh tra giá chuyển nhượng trong doanh nghiệp do
thanh tra Ngành Thuế Việt Nam thực hiện;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện thanh tra giá chuyển
nhượng trong doanh nghiệp do thanh tra ngành thuế Việt Nam thực hiện.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TRA GIÁ
CHUYỂN NHƯỢNG TRONG DOANH NGHIỆP DO
THANH TRA NGÀNH THUẾ THỰC HIỆN
1.1 Những vấn đề cơ bản về giá chuyển nhượng và chuyển giá
1.1.1 Khái niệm giá chuyển nhượng và chuyển giá
Theo từ điển Tài chính của Campbell R. Harvey biên soạn thì giá chuyển
nhượng là “Giá của công ty bán hàng hoá, dịch vụ cho một công ty khác trong cùng
một tập đoàn” [Mục. 482].
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) thì "Giá chuyển

nhượng là giá áp dụng trong các giá giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các
công ty thành viên, được thống nhất quản lý và có thể tác động vào các khoản phải
trả cho thu nhập hoặc chuyển vốn giữa các công ty thành viên này".
Từ các khái niệm trên có thể thấy giá chuyển nhượng đóng vai trò rất quan
trọng trong việc đưa ra quyết định về tài chính của doanh nghiệp, bởi nó có khả
năng điều chỉnh lợi nhuận, tạo luồng chảy của vốn đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh
và chiếm lĩnh thị trường… Vì vậy, giá chuyển nhượng là công cụ hữu ích của doanh
nghiệp để kiểm soát lưu chuyển tiền tệ, phân bổ nguồn lực tiết kiệm chi phí thuế.
Cùng với sự hình thành và phát triển của các quan hệ liên doanh, liên kết
trong quá trình sản xuất kinh doanh thì việc xác định lợi ích kinh tế đã vượt ra ngoài
phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong lợi ích chung của cả tập đoàn
hay nhóm liên kết. Khi các tập đoàn xây dựng và thực hiện chính sách về giá
chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ giữa các công ty thành viên không theo giá thị
trường để tối đa hóa lợi ích của mình thì có nghĩa là các tập đoàn đã thực hiện hành
vi chuyển giá.
Chuyển giá là vấn đề đụng chạm trực tiếp đến quyền thu thuế của mỗi quốc
gia. Thế giới đã từng xảy ra những vụ chuyển giá điển hình, ví dụ: Năm 1993, sau
4
khi tiến hành điều tra, Mỹ đã ra phán quyết Công ty Nissan của Nhật tránh thuế
bằng cách định giá rất cao các loại xe nhập vào nước này. Kết quả, Nissan phải trả
cho phía Mỹ khoản phạt 170 triệu USD. Để trả đũa cho "phán quyết" này của Mỹ,
một năm sau cơ quan thuế của Nhật Bản tố cáo Tập đoàn Coca - Cola khai lợi
nhuận thu được thấp hơn do khai giá quá cao các loại nguyên liệu nhập từ Mỹ và áp
đặt phí bản quyền rất cao cho các công ty tại Nhật. Rốt cuộc, Coca - Cola cũng phải
nộp 150 triệu USD tiền phạt.
Theo thông lệ quốc tế, chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá
đối với hàng hóa, dịch vụ được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua
biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp của các
công ty đa quốc gia trên toàn cầu. Để làm được điều này, họ nắm bắt và vận dụng
những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong quy định thuế

để xây dựng và áp dụng một chính sách về giá giao dịch nội bộ trong tập đoàn.
Theo đó, giá chuyển giao giữa các thành viên trong nội bộ tập đoàn có thể được
định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch này. Cần phân
biệt trường hợp chuyển giá với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan
quản lý để trốn thuế: Đối với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan
quản lý để trốn thuế các bên giao dịch vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa
thuận. Trong khi đó, nếu giao dịch bị chuyển giá, giá cả trong giao dịch chính là giá
thoả thuận nên các bên sẽ không phải thực hiện việc thanh toán khoản chênh lệch
giữa giá giao dịch nội bộ và giá thị trường.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện
nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết.
Sở dĩ giá cả có thể bị tác động trong những giao dịch liên kết là do:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể
hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có
quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết
nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có
5
cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong
nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng
nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị
điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Sự khác nhau về chính sách
thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội mỗi
nước khác nhau, đồng thời, sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu,
nên chênh lệch mức độ điều tiết thuế hoàn toàn có thể xảy ra.
Chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ
thể trong nhóm liên kết (các bên liên kết). Cơ sở để xác định mối quan hệ liên kết
giữa các chủ thể là yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn. Đây chính là những điều
kiện quyết định sự ảnh hưởng, sự giao hòa về mặt lợi ích của các chủ thể . Xét theo

cơ sở này thì các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc
gia hoặc có thể ở nhiều quốc gia khác nhau. Do đó, về nguyên tắc, chuyển giá
không chỉ diễn ra trong các giao dịch quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch
trong nước.
Trên thực tế, chuyển giá thường được tập trung vào các giao dịch quốc tế
hơn do sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn. Đối
với các quốc gia có chế độ ưu đãi thuế, các bên liên kết trong nước có thể hưởng lợi
từ chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế bằng cách chuyển thu nhập từ doanh nghiệp liên
kết không được hưởng ưu đãi hoặc ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên
kết được hưởng ưu đãi cao hơn.
Như vậy, chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng
hóa, dịch vụ được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp của doanh nghiệp.
1.1.2 Bên liên kết và giao dịch liên kết
Bên liên kết: Nền kinh tế ngày càng phát triển, đồng nghĩa với việc các công
ty không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ
khoa học, kỹ thuật tiên tiến, tăng năng suất lao động, tìm kiếm, mở rộng thị trường
6
tiêu thụ hàng hoá. Khi đó, thị trường sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá không chỉ giới hạn trong phạm vi một tỉnh, thành phố hay một quốc gia mà vượt
qua biên giới sang các quốc gia khác trên toàn cầu. Trong quá trình phát triển, các
công ty đã phát hiện ra thị trường tại các quốc gia khác đất nước nơi công ty đóng trụ
sở hoặc có nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc có nguồn nhân công dồi dào với chi phí
thấp hoặc lượng cầu lớn về chủng loại hàng hoá, sản phẩm do công ty sản xuất. Đây
là nguyên nhân chính, là cơ sở hình thành các công ty con, các chi nhánh tại, hình
thành các mối liên kết tại các quốc gia này để công ty đa quốc gia có thể khai thác
những lợi thế so sánh, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh nhằm tìm kiếm mức
lợi nhuận ngày càng cao. Theo thông lệ quốc tế, hai doanh nghiệp được coi là các
bên liên kết khi:
Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh

nghiệp kia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hoặc những thực thể (entities)
khác tham gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Một doanh nghiệp cung cấp trực tiếp hay gián tiếp phần lớn nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kia hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián
tiếp phần lớn sản phẩm của doanh nghiệp kia. Tỷ trọng nguyên vận liệu cung cấp hay
sản phẩm tiêu thụ thông thường phải chiếm trên 50% tính cho từng loại nguyên vật
liệu hoặc sản phẩm.
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư Số 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 thì
hai doanh nghiệp trong một kỳ tính thuế có quan hệ giao dịch kinh doanh thuộc một
trong các trường hợp sau thì xác định là các bên liên kết:
Một doanh nghiệp nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 20% vốn đầu tư
của chủ sở hữu của doanh nghiệp kia;
Cả hai doanh nghiệp đều có ít nhất 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu do một
bên thứ ba nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp;
Cả hai doanh nghiệp đều nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 20% vốn
đầu tư của chủ sở hữu của một bên thứ ba;
7
Một doanh nghiệp là cổ đông lớn nhất về vốn đầu tư của chủ sở hữu của
doanh nghiệp kia, nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 10% vốn đầu tư của chủ
sở hữu của doanh nghiệp kia;
Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới
bất kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 20% vốn đầu tư của
chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ
trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay;
Một doanh nghiệp chỉ định thành viên ban lãnh đạo điều hành hoặc kiểm
soát của một doanh nghiệp khác với điều kiện số lượng các thành viên được doanh
nghiệp thứ nhất chỉ định chiếm trên 50% tổng số thành viên ban lãnh đạo điều hành
hoặc kiểm soát của doanh nghiệp thứ hai; hoặc một thành viên được doanh nghiệp
thứ nhất chỉ định có quyền quyết định các chính sách tài chính hoặc hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp thứ hai;
Hai doanh nghiệp cùng có trên 50% thành viên ban lãnh đạo hoặc cùng có
một thành viên ban lãnh đạo có quyền quyết định các chính sách tài chính hoặc hoạt
động kinh doanh được chỉ định bởi một bên thứ ba;
Hai doanh nghiệp được điều hành hoặc chịu sự kiểm soát về nhân sự, tài
chính và hoạt động kinh doanh bởi các cá nhân thuộc một trong các mối quan hệ
sau: vợ và chồng; bố, mẹ và con (không phân biệt con đẻ, con nuôi hoặc con dâu,
con rể); anh, chị, em có cùng cha, mẹ (không phân biệt cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi); ông nội, bà nội và cháu nội; ông ngoại, bà ngoại và cháu ngoại; cô, chú, bác,
cậu, dì ruột và cháu ruột;
Hai doanh nghiệp có mối quan hệ trụ sở chính và cơ sở thường trú hoặc cùng
là cơ sở thường trú của tổ chức, cá nhân nước ngoài;
Một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm sử dụng tài sản vô hình
hoặc quyền sở hữu trí tuệ của một doanh nghiệp khác với điều kiện chi phí phải trả
cho việc sử dụng tài sản vô hình, quyền sở hữu trí tuệ đó chiếm trên 50% giá vốn
(hoặc giá thành) sản phẩm;
Một doanh nghiệp cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% tổng giá trị
8
nguyên vật liệu, vật tư hoặc sản phẩm đầu vào (không bao gồm chi phí khấu hao đối
với tài sản cố định) để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đầu ra
của một doanh nghiệp khác;
Một doanh nghiệp kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% sản lượng sản
phẩm tiêu thụ (tính theo từng chủng loại sản phẩm) của một doanh nghiệp khác;
Hai doanh nghiệp có thỏa thuận hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng.
Giao dịch liên kết: Theo thông lệ quốc tế và quy định tại Thông tư Số 66
66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 thì giao dịch liên kết là giao dịch kinh doanh giữa
các bên liên kết trong việc mua, bán, trao đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc
chuyển nhượng hàng hoá, dịch vụ, trừ các giao dịch kinh doanh giữa doanh nghiệp
tại Việt Nam với các bên có quan hệ liên kết liên quan đến các sản phẩm thuộc diện
điều chỉnh giá của Nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về giá.

1.1.3 Nguyên nhân của hoạt động chuyển giá
Do có sự chênh lệch về thuế suất thuế TNDN giữa hai quốc gia, với mục
tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình các bên liên kết thực hiện hành
vi chuyển giá nhằm mục đích giảm thiểu tối đa khoản thuế mà các bên liên kết
phải nộp. Khi có chênh lệch về thuế suất thì thủ thuật chuyển giá mà các bên liên
kết thường sử dụng đó là nâng giá mua đầu vào các nguyên, vật liệu, hàng hóa
và định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các
quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì các
tập đoàn, công ty đa quốc gia đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế
suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế suất thuế TNDN thấp và như vậy mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công.
Chi phí cơ hội cũng là một nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá. Các
tập đoàn, công ty đa quốc gia nhận ra rằng các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể
chuyển về nước sau khi kết thúc năm tài chính và sau khi được kiểm tra của cơ
quan thuế và chịu sự kiểm soát ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy
mà các cơ hội đầu tư có thể sẽ bị bỏ lỡ. Do đó, các tập đoàn, công ty đa quốc gia
sẽ tiến hành thủ thuật chuyển giá nhằm thu hồi nhanh vốn đầu tư và bắt lấy cơ
9
hội đầu tư khác.
Chuyển giá để nắm quyền điều khiển doanh nghiệp và chiếm lĩnh thị trường.
Trong các hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác trong nước thì các tập
đoàn, công ty đa quốc gia sẽ định giá thật cao các yếu tố đầu vào mua từ công ty
mẹ nhằm tăng cường tỷ lệ góp vốn và nắm quyền quản lý. Ngoài ra, các tập đoàn,
công ty đa quốc gia có thể cấu kết với các công ty nước ngoài khác làm lũng đoạn
thị trường trong nước.
Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư của
nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà các tập
đoàn, công ty đa quốc gia xem công ty con đặt trên quốc gia này như là trung tâm
lợi nhuận của cả tập đ oà n, công ty và thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu
quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư.

Ngoài ra chuyển giá còn được thực hiện do việc chuyển giao các sản phẩm
và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các
ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược… nhằm giảm
các rủi ro khi giao dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp được
các tập đoàn, công ty đa quốc gia lựa chọn.
1.1.4 Tác động của chuyển giá
Tác động của chuyển giá đến tình hình tài chính của tập đoàn, công ty đa
quốc gia
Chuyển giá là hành vi thực hiện chính sách chuyển giao sản phẩm (tài sản
hữu hình, tài sản vô hình, dịch vụ, vay, mượn vật tư, tiền vốn) giữa các thành viên
của các tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia không theo giá giao dịch thông thường
trên thị trường với mục đích tối thiểu hoá nghĩa vụ thuế tính chung trong tập đoàn
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình dựa vào chính sách ưu đãi thuế hoặc quy định
thuế suất của mỗi vùng, miền hay mỗi quốc gia khác nhau.
Như vậy, khi thực hiện hành vi chuyển giá thành công, các tập đoàn kinh tế,
công ty đa quốc gia đã nâng được mức lợi nhuận của mình lên tương ứng với mức
độ chuyển giá trong tập đoàn. Hành vi này đã tạo ra nguồn tài chính có thể giúp cho
10
tập đoàn, công ty đa quốc gia dễ dàng thực hiện kế hoạch và mục tiêu kinh doanh
của mình. Mặt khác, nó đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể
sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình phá sản tại các công ty nhỏ lẻ, đơn nhất diễn
ra nhanh hơn, dẫn tới việc độc quyền trong sản xuất, kinh doanh. Theo đó, tập đoàn,
công ty đa quốc gia nào có mức độ thực hiện hành vi chuyển giá thành công lớn
hơn (nghĩa vụ thuế thấp hơn) thì sẽ có lợi thế nhiều hơn.
Bên cạnh những lợi ích do hành vi chuyển giá mang lại, tập đoàn kinh tế,
công ty đa quốc gia có hành vi chuyển giá sẽ có nguy cơ phải gánh chịu những hình
phạt rất nghiêm khắc nếu cơ quan thuế của các quốc gia mà tập đoàn kinh tế có đơn
vị thành viên phát hiện hành vi chuyển giá làm giảm lợi nhuận trước thuế của các
đơn vị thành viên này. Khi đó, các đơn vị thành viên ngoài việc phải nộp tiền phạt
và tiền thuế tăng thêm, còn có thể bị thu hồi giấy phép kinh doanh, uy tín của tập

đoàn trên thương trường quốc tế cũng bị giảm sút nghiêm trọng và là tâm điểm chú
ý của cơ quan thuế tại các quốc gia có đơn vị thành viên khác.
Tác động của chuyển giá đến nền kinh tế của mỗi quốc gia
Hành vi chuyển giá nhằm mục đích thuế là hoạt động nhằm tối thiểu hoá
tổng số thuế phải nộp tính chung cho cả tập đoàn, công ty đa quốc gia dẫn đến
những tác động khác nhau đến số thu ngân sách của mỗi quốc gia. Các tập đoàn,
công ty đa quốc gia xây dựng kế hoạch tránh thuế bằng cách chuyển toàn bộ hay
một phần lợi nhuận trước thuế từ quốc gia có mức thuế suất cao sang quốc gia có
mức thuế suất thấp, làm giảm thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp tại quốc gia có
mức thuế suất cao, đồng thời làm tăng thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp tại
quốc gia có mức thuế suất thấp.
Đối với quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư
Hoạt động chuyển giá diễn ra dưới dạng định giá cao các yếu tố đầu vào
nhằm rút ngắn thời gian thu hồi vốn của công ty mẹ, dẫn đến các luồng vốn có xu
hướng chảy ngược ra khỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư. Hành vi chuyển giá này sẽ làm
thay đổi cơ cấu vốn của nền kinh tế quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư, dẫn tới sự
phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra một
11
bức tranh kinh tế không trung thực.
Trường hợp, quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư có mức thuế suất thuế
TNDN hoặc loại thuế tương đương với thuế TNDN thấp (thiên đường thuế) có lợi
thế về số thu thuế thông qua chuyển giá. Tuy nhiên, lợi thế này không bền vững khi
mà các quốc gia khác có liên quan tăng cường công cuộc chống chuyển giá. Đây là
nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế tại các thiên đường thuế này.
Do có lợi thế về nguồn vốn đầu tư dồi dào, các công ty đa quốc gia dễ dàng
thôn tính các công ty trong nước thông qua các chiêu thức quảng cáo và khuyến mại
lớn dẫn tới hậu quả là lũng đoạn thị trường. Các công ty trong nước không đủ tiềm
lực tài chính để cạnh tranh nên dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải thay đổi ngành
nghề, sản phẩm kinh doanh. Khi đó, các công ty đa quốc gia dần trở nên độc quyền,
thao túng thị trường trong nước, độc quyền kiểm soát giá cả và sẽ dẫn đến hậu quả

quốc gia này sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô
và không thể thúc đẩy các ngành sản xuất nội địa phát triển, thiệt hại cho người tiêu
dùng. Sự phụ thuộc kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư vào các công ty đa quốc
gia này sẽ kéo theo sự chi phối về chính trị.
Đối với quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư
Thông thường, các quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư có mức thuế suất thuế
TNDN hoặc loại thuế tương đương với thuế TNDN cao, hành vi chuyển giá sẽ
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài làm thất thu thuế, dẫn tới làm mất tính cân đối
trong kế hoạch thu chi của Chính phủ quốc gia này. Hành vi chuyển giá của các công
ty đa quốc gia sẽ làm cho dòng vốn đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn quản lý
của Chính phủ, dẫn tới mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ sẽ gặp khó
khăn.
1.1.5 Một số hoạt động chuyển giá
Hình thức phổ biến để các tập đoàn, công ty đa quốc gia mở rộng sản xuất
kinh doanh ra nước ngoài là thành lập các công ty con, và thực hiện góp
vốn vào các công ty này bằng máy móc thiết bị và công nghệ. Giá trị của các
tài sản đem góp vốn thường được các tập đoàn, công ty đa quốc gia định giá cao
12
hơn so với thực tế, thậm chí một số máy móc thiết bị, đây truyền công nghệ đã lạc
hậu vẫn được các định giá rất cao rồi chuyển giao sang các nước thuộc thế giới thứ
3. Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các tập đoàn,
công ty đa quốc gia chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ
lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu hao hàng năm sẽ làm cho nước tiếp nhận
đầu tư thất thu một khoản thuế lớn. Có thể thấy rõ hiện tượng này qua một
trường hợp điển hình như sau: Công ty đa quốc gia A có một dây truyền sản xuất tủ
lạnh tại nước B, dây truyền đã hoạt động 10 năm và đã được khấu hao hết, do quá
trình sản xuất tại nước B không còn lợi thế cạnh tranh nên công ty A bán dây truyền
sản xuất này sang một công ty con đặt tại nước C. Giá trị thị trường đây truyên sản
xuất tủ lạnh của Công ty A tại thời điểm chuyển giao là 100.000 USD, tuy nhiên khi
Công ty A bán cho công ty con ở ở nước C dây truyền này được nâng giá lên là

300.000 USD, thông qua giao dịch này 200.000 USD đã được chuyển về Công ty
A, giả sử rằng dây truyền được khấu hao theo phương pháp đường thẳng trong 10
năm và với mức thuế suất thuế TNDN tại nước C là 20% thì mỗi năm nước C lại
thất thu một khoản thuế tương ứng là 4.000 USD.
Chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản vô hình hình thành từ hoạt động
nghiên cứu phát triển và hoạt động marketing. Chuyển giá loại này thường phát sinh
trong quá trình sản xuất sản phẩm có sử dụng đến bí quyết sản xuất kinh doanh và
có sự chuyển giao bán thành phẩm giữa các bên liên kết để tiếp tục quá trình sản
xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Các công ty tính toán, so sánh lợi ích kinh tế từ việc đầu
tư vào các quốc gia khác (tận dụng thị trường nhân công, nguyên phụ liệu rẻ, tiết
kiệm thuế nhập khẩu… và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm), đã thành lập
công ty con tại các quốc gia này. Công ty mẹ chuyển giao bán thành phẩm do mình
sản xuất ra cho công ty con để tiếp tục quá trình sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh,
đồng thời chuyển giao bí quyết sản xuất kinh doanh và cho phép công ty con được
sử dụng quyền sáng chế sản phẩm. Tuy nhiên, để điều chuyển toàn bộ hay một phần
lợi nhuận sang công ty con với mục đích được hưởng mức thuế suất thấp hơn nhằm
tối thiểu số thuế phải nộp tính chung cho cả 2 công ty, hợp đồng ký kết giữa công ty
13

×