Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
Lời mở đầu
Kiểm toán Auditting là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm
quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các
thông tin có thể định lợng đợc của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và
báo cáo về chuẩn mực đã đợc xây dựng. Cùng với sự phát triển của kiểm
toán, công tác kiểm toán nội bộ cũng đợc các nhà quản lý quan tâm hơn, vì
vậy trọng trách và vai trò, trách nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ đợc
nâng cao hơn. Kiểm toán nội bộ hiện nay đang là công cụ không thể thiếu đ-
ợc trong công tác quản lý điều hành của doanh nghiệp và nó càng trở nên
cấp thiết hơn khi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trờng. Sự ra đời và
phát triển của các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động
và hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trờng tín dụng sôi động. Nhng điều
đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra với các tổ chức tín dụng,
mà khả năng ngăn ngừa và chống đỡ rủi ro kém.Để giảm bớt, ngăn ngừa
những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng, ngoài các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám
sát của các cơ quan quản lý Nhà nớc, trớc hết đòi hỏi các tổ chức tín dụng
phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là các tổ
chức tín dụng phải thiết lập đợc hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ một
cách đầy đủ và có hiệu quả.
Trong thực tiễn, câu hỏi đặt ra đối với các nhà quản trị cuủa các tổ chức
tín dụng, đối với các cơ quan quản lý Nhà nớc ở đây là: thiết kế một hệ
thống kiểm toán nội bộ nh thế nào để hoạt động có hiệu quả nhất? Những
tiêu chí cơ bản nào khi đánh giá hệ thống kiểm toán nội bộ của các tổ chức
tín dụng? Giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác của hệ thống kiểm toán
nội bộ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay? Để góp phần trả lời
câu các câu hỏi trên, em xin trình bày một số ý kiến về các vấn đề sau:
I-Khái quát chung:
1-Khái niệm kiểm toán nội bộ.
2-Kiểm toán nội bộ trong các tổ chức kinh tế.
3-Kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng.
4- Yêu cầu đối với kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
1
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
II-Hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng:
1-Khái niệm hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng.
2-Cơ sở.
3-Yêu cầu về việc xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ
chức tín dụng.
4-Về quy chế tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nội bộ trong các
tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Bài viết của em đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn của ThS Nguyễn Hồng
Thuý. Do kiến thức của em còn hạn chế, hạn hẹp về thời gian, thông tin cho
bài viết, bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận đợc ý kiến đóng góp của ngời đọc, đặc biệt của ThS Nguyễn
Hồng Thuý để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, tháng 3/2004.
Sinh viên thực hiện
Chu Thị Thu Nga
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
2
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
Nội dung
I- Khái quát chung.
1- Khái niệm Kiểm toán nội bộ.
Theo quan điểm của viện nghiên cứu kiểm toán nội bộ Quốc tế IIA:
Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập bên trong một tổ
chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó với t cách là một
sự trợ giúp với các tổ chức đó.
2. Kiểm toán nội bộ trong các tổ chức kinh tế.
2.1. Sự hình thành và phát triển Kiểm toán nội bộ.
Mọi hoạt động kiểm tra, kiểm toán xuất phát từ nhu cầu quản lý. Kiểm
toán phải đảm bảo tính khách quan, độc lập của nó. Do vậy không một định
chế nào bắt buộc phải thành lập kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, đơn vị
kinh tế. Tuy nhiên, xuất phát từ những thực tế khách quan, kiểm toán nội bộ
đuợc tồn tại nh một tất yếu. Bởi những đóng góp to lớn cuả kiểm toán nội bộ
đối với sự nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài của các đơn vị kinh tế trong nền
kinh tế đã chứng tỏ điều đó. Để nói rõ một cách đầy đủ hơn về những đóng
góp của kiểm toán nội bộ, chúng ta hãy nghiên cứu sự ra đời và phát triển của
kiểm toán nội bộ.
Theo lý thuyết và thực nghiệm chặt chẽ, chức năng kiểm toán nội bộ
nảy sinh khi một ngời bất kỳ ngồi lại và kiểm tra xem mình làm các công
việc đã đúng cha và liệu có cách nào tốt hơn không? Một ngời khác muốn
tham gia vào sự kiểm tra này, vì theo quan điểm chung sự đánh giá khách
quan bao giờ cũng cho những hiệu quả cao hơn,chính xác hơn.
Mở rộng quy mô, chúng ta xét quá trình quản lý của một doanh nghiệp
nhỏ ngời lãnh đạo không thể kiểm soát đợc hết các công việc của các bộ
phận trong doanh nghiệp mình chức năng kiểm toán nội bộ tiếp tục đọc thực
hiện, kiểm toán nội bộ ra đời một cách tự nhiên trực tiếp với t cách là một
phần của chức năng quản lý cơ bản.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, hoạt động của doanh nghiệp
ngày càng mở ra nhiều lĩnh vực, thực hiện một cách đầy đủ vị trí, chức năng
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
3
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
của mình: Nhà cung cấp. Trong bối cảnh này, kiểm toán nội bộ không chỉ
tồn tại với vị trí là một bộ phận của chức năng quản lý cơ bản, mà nó đợc tồn
tại một cách độc lập, đợc hoạt động nh con mắt thứ ba của nhà lãnh đạo để
giúp lãnh đạo nắm bắt tình hình, hoạt động sản xuất kinh doanh chung của
doanh nghiệp. Nh vậy, kiểm toán nội bộ đã đi vào thc tế một cách chính thức,
rõ ràng: từ chỗ là một chức năng, là một công việc đơn thuần, là khảo sát đến
chỗ trở thành độc lập, chuyên nghiệp.
Kiểm toán nội bộ ngày càng phát huy đợc hết chức năng và nhiệm vụ
của mình, khi xã hội đã phát triển đến một mức cao, nó hoạt động để giải
quyết vấn đề sức ép về nhu cầu quản lý cao hơn đối với cấp lãnh đạo. Nơi đâu
có các phần tử xấu luồn lách để làm trái pháp luật, ở đó cần đến kiểm toán
nội bộ. Lúc này, kiểm toán nội bộ có điều kiện để tìm tòi nghiên cứu cách
thức, nhiệm vụ mới phục vụ cho quản lý.
Với xu thế công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong tình hình hiện nay,
kiểm toán nội bộ cũng nh các chức năng quản lý khác đều hoạt động và phản
ánh một cách tổng thể các loại hoạt động nghiệp vụ và các thông tin. Trong
nhiều tổ chức, kiểm toán nội bộ đợc coi nh một hoạt động có quy củ, có trình
tự và có cơ chế hoạt động chính thức, tuy nhiên cũng có những tổ chức cha
coi trọng bộ phận này.
ở Việt Nam, theo nghị định 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/1994, kiểm
toán độc lập đợc thành lập để kiểm toán các thông tin công khai giữa các đơn
vị trong nền kinh tế. Với tầm nhìn mới về bản chất, vai trò và sự đóng góp
của kiểm toán trong các hoạt động kinh tế, trớc khi Chính phủ trình Quốc hội
phê duyệt về các hoạt động quản lý thu chi ngân sách, quản lý kinh tế cũng
thẩm định các dự án của Chính phủ và các đơn vị trực thuộc thì kiểm toán
Nhà nớc đã thực hiện chức năng kểm toán các hoạt động này. Song song với
kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nớc, lực lợng kiểm toán nội bộ ra đời để
hỗ trợ cấp quản lý đa ra quyết định kinh doanh đúng đắn và an toàn cho các
doanh nghiệp.
Ngày 28/10/1997, Bộ tài chính đã có quyết định số 832 - TC/QĐ
-CĐKT ban hành quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng trong các doanh nghiệp
Nhà nớc và quy chế đợc thực hiện từ 1/1/1998. Ngày 16/4/1998, Bộ tài chính
lại tiếp tục ban hành thông t số 52 - 1998/ TT-BTC hớng dẫn tổ chức bộ máy
kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nớc. Đây là những quy định có h-
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
4
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
ớng nguyên tắc cũng nh là hớng gợi mở cho sự nghiệp phát triển nghề kiểm
toán ở Việt Nam bớc vào giai đoạn mới.
2.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với sự phát triển của các tổ chức
kinh tế trong nền kinh tế.
Từ trên đây, ta có thể khẳng định rằng kiểm toán nội bộ tồn tại là một
tất yếu. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ nói riêng hay hoạt động kiểm toán nói
chung ở Việt Nam là còn rất mới mẻ và còn phải tăng cờng những nghiên
cứu để hoàn thiện dần. Mặt khác, việc học hỏi các nớc bạn có hệ thống hoạt
động kế toán - kiểm toán phát triển là một việc làm hết sức thiết thực bởi lẽ
việc thực hiện kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế là hết
sức quan trọng, nó có vai trò hết sức to lớn trong việc hỗ trợ Ban quản lý và
các bộ phận khác hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu của doanh nghiệp đã đề
ra một cách có hiệu quả, tiết kiệm. Kiểm toán nội bộ là một công cụ quản lý
có hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm của hoạt
động kiểm toán từ bên ngoài đối với đơn vị kinh doanh. Do kiểm toán nội bộ
với nội dung chủ yếu là kiểm toán hoạt động tại đơn vị cơ sở nên có tác dụng
rất lớn trong việc sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực,
gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính góp phần
nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực trong đơn vị.
Để làm rõ hơn nhận định này, ta xét vai trò của kiểm toán nội bộ trong
các mối quan hệ với các hoạt động khác trong một doanh nghiệp, với hội
đồng Giám đốc và mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán bên
ngoài.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác của một
doanh nghiệp:
Trên thực tế, sự ngừng hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ trong một thời
gian không làm ảnh hởng tiến trình hoạt động của các bộ phận nghiệp vụ khác, điều
này khẳng định rằng kiểm toán nội bộ có tính độc lập của nó. Kiểm toán viên nội bộ
sẽ không thể kiểm toán nếu không có mối liên hệ với các bộ phận khác nh: kế toán, tài
chính, các bộ phận hoạt động khác qua quan hệ cung cấp số liệu và bằng chứng kiểm
toán.
Tại sao kiểm toán nội bộ có tính độ lập cao mà trong khi vẫn phải có
mối liên hệ nhất định với các bộ phận khác, và tại sao các bộ phận khác lại
cần phải giữ mối loên hệ với bộ phận kiểm toán nội bộ ?
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
5
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
Sự có mặt của các kiểm toán viên nộ bộ là cần thiết đối với các hoạt
động khác trong doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ làm việc để tăng tính đúng
đắn, hợp lệ, hợp thức và hợp pháp của các số liệu, tài kế toán, các quy trình
nghiệp vụ kế toán, đầu t, bán hàng, sản xuất,...
Mục đích cuối cùng cho sự tham gia của kiểm toán nội bộ là tránh rủi ro
về các thông tin, đa ra các kiến nghị, tham vấn với các cấp lãnh đạo về những
sai sót cần giải quyết nếu có. Nhờ có sự thành thạo trong việc thiết kế và
thực hiện công việc kiểm tra mà nhóm kiểm toán nội bộ thể hiện đợc năng
lực nghề nghiệp của mình, khẳng định rằng trong một đơn vị kinh tế không
có nhóm công tác nào khác có thể kết hơp giữa vị trí tách riêng với các mục
tiêu phục vụ về mặt tổ chức cho đơn vị và với trình độ trình độ thành thạo có
chất lợng cao trong lĩnh vực kiểm tra tốt nh nhóm kiểm toán nội bộ trong mối
quan hệ với các hoạt động khác trong đơn vị mà mối quan hệ độc lập mà
ràng buộc nhất định đảm bảo đạt đợc mục tiêu toàn hệ thống.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với hội đồng Giám đốc:
Kết quả của sức ép môi trờng kinh doanh ngày càng nhiều thách thức là
sự hoạt động và điều hành của hội đồng Giám đốc từng bớc đợc nâng lên, từ
chỗ trong công ty, trong doanh nghiệp chỉ có mối liên hệ giữa giám đốc với
cổ đông, các nhân viên khác đến chỗ có mối liên hệ mở rộng với bên ngoài
với hình thức liên hiệp công ty, liên hiệp xí nghiệp. Với trách nhiệm nặng nề
này, Ban Giám đốc đã chọn cho mình một cách đi thích hợp bằng cách xác
lập và mở rộng quyền hạn của kiểm toán nội bộ trực thuộc mình. Việc thành
lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp chịu ảnh hởng rất lớn của
quan điểm và nhận thức của Ban lãnh đạo vể kiểm toán. Một nhà lãnh đạo
thực sự trân trọng công tác kiểm toán là ngời có bản lĩnh trong nghề
nghiệp,là ngời biết lắng nghe ý kiến của cấp dới, có cách nhìn khách quan và
t duy logic, đó hẳn không phải là ngời chuyên quyền, độc đoán. Nh vậy kiểm
toán nội bộ tồn tại không chỉ có ý nghĩa trong việc hoàn thiện hoá hệ thống
kiểm toán mà còn góp phần khẳng định t cách, vị trí, bản lĩnh và tính đại diện
cao của các cấp lãnh đạo. Nó là công cụ để xác lập quyền hạn đủ mạnh của
các cấp quản lý trong việc đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp và thắng
trong cạnh tranh trong điều kiện gay gắt hiện nay của nền Kinh tế.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
6
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
Có quan điểm cho rằng kiểm toán nội bộ là sự mở rộng công việc của
kiểm toán viên bên ngoài. Ngày nay quan điểm này vẫn đúng tơng đối. Nếu xét
sự khác nhau cơ bản giữa kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán viên bên ngoài về
trách nhiệm và mục tiêu hoạt động thì quan điểm này dần thay đổi, vì trách
nhiệm của kiểm toán viên bên ngoài chịu trách nhiệm về kết quả kiểm toán trớc
các bên (bên kiểm toán và bên đợc kiểm toán, bên thứ ba: là những ngời sử
dụng thông tin đã đợc kiểm toán). Còn kiểm toán viên nội bộ thì chịu trách
nhiệm chủ yếu với tổ chức của mình. Kiểm toán viên bên ngoài đặc biệt quan
tâm tới sự đúng đắn của sự khác nhau cơ bản này không phải là tất cả để khẳng
định hai loại hình kiểm toán này không có mối quan hệ với nhau. Bởi lẽ, trong
quá trình đợc kiểm toán bởi một tổ chức bên ngoài, trong bất kỳ trờng hợp nào
kiểm toán viên nội bộ cũng phải hỗ trợ giúp kiểm toán viên bên ngoài hoàn
thành nhiệm vụ của mình đảm bảo chất lợng cuộc kiểm toán cao nhất. Bên cạnh
đó, để đảm bảo chất lợng cuộc kiểm toán, kiểm toán viên bên ngoài cũng phải
có sự hiểu biết nhất định về bộ phận kiểm toán nội bộ. Điều quan trọng là mối
quan tâm chung của cả hai loại hình kiểm toán xuất phát từ mục tiêu là đảm bảo
sự đúng đắn của hệ thống kiểm soát và kế toán. ở Mỹ, theo đạo luật 1977 về
những hành vi hối lộ nớc ngoài, các tổ chức phải duy trì hệ thống kiểm soát kế
toán nội bộ đúng đắn, đồng thời mối quan tâm của Uỷ ban chứng khoán và giao
dịch buộc phải có báo cáo của ban quản lý thông tin về sự đầy đủ của hệ thống
kiểm soát nội bộ. Nh vậy không những kiểm toán nội bộ có mối liên hệ nhất
định, những đóng góp to lớn đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của các bộ phận
khác, giúp Ban lãnh đạo điều hành quản lý tốt mà còn hỗ trợ kiểm toán viên bên
ngoài hoàn thành cuộc kiểm toán có chất lợng để đa ra những thông tin chính
xác về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
3. Kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng.
Theo luật các tổ chức tín dụng thông qua trong Quốc hội khoá 10, kỳ
họp thứ 2 (12-12-1997) quy định:
Tổ chức tín dụng phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ thuộc bộ
máy điêù hành, giúp tổng Giám đốc hoặc Giám đốc điều hành thông suốt, an
toàn và đúng Pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
Vị trí và vai trò của kiểm toán nội bộ càng đợc khẳng định sau khi quyết
định số 03-98 QĐ/NHNN3 (3-1-1998) của Thống đốc ngân hàng Nhà nớc đ-
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
7
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
ợc ban hành vê quy chế: "Mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán
nội bộ trong tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam".
Trong điều 5 của quy định có nêu:
Tất cả các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy
Chế này phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách tại trụ sở
chính và các đơn vị thành viên. Bộ máy này trực thuộc tổng giám đốc hoặc
Giám đốc.
Các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế này là:
Ngân hàng quốc doanh (bao gồm cả ngân hàng phục vụ ngời nghèo
và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long).
Ngân hàng thơng mại cổ phần.
Các công ty tài chính (bao gồm cả các công ty tài chính 100% vốn n-
ớc ngoài, công ty tài chính liên doanh với nớc ngoài tại Việt Nam, công ty
cho thuê tài chính).
Các ngân hàng liên doanh.
Các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài tại Việt Nam.
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ơng ...
4. Các yêu cầu đối với Kiểm toán nội bộ của các Tổ chức tín dụng.
4.1. Điều kiện để Kiểm toán nội bộ hoạt động.
Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo và chỉ có nghĩa vụ báo cáo
với Ban lãnh đạo.
Văn bản xác định c cấu trật tự của toàn doanh nghiệp (tổ chức bộ
máy, tổ chức quy trình, c cấu quyền hạn); bản trình bầy phải rõ ràng và cập
nhật.
Hoạt động kiểm toán tất cảcác quy trình nghiệp vụ và hoạt động của
tổ chức tín dụng.
4.2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán khả năng hoạt động, tính hiệu quả, hữu hiệu và đầy đủ của
hệ thống kiểm soát nội bộ.
Kiểm toán việc ứng dụng, khả năng hoạt động, tính hữu hiệu và đầy
đủ của hệ thống quản lý và cỏntolling rủi ro, của hệ thống thông tin báo cáo
cũng nh của hệ thống tài chính kế toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
8
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
Kiểm toán việc tuân thủ pháp luật, các quy định hiện hành của thanh
tra cũng nh các quy định khác.
Kiểm toán việc tuân thủ những quy chế hoạt động của doanh nghiệp,
c cấu tổ chức và các quy định khác.
Kiểm toán việc tuân thủ mọi quy trình hoạt động và nghiệp vụ và các
quy định , các biện pháp bảo vệ tài sản.
4.3. Những nguyên tắc đối với Kiểm toán nội bộ.
Tính độc lập (độc lập khi thực hiện các nhiệm vụ, không bị chỉ đạo
khi viết báo cáo và đánh giá kế quả kiểm toán).
Phân tách chức năng những cán bộ của kiểm toán nội bộ về ngguyên
tắc không bị giao những nhiệm vụ không thuộc nhiệm vụ của kiểm toán nội
bộ. Trong những trờng hợp cụ thể có lý do chính đáng, một số cán bộ với
kiến thức chuyên sâu của mình có thể làm kiểm toán nội bộ.
Thông tin đầy đủ: Quyền đợc thong tin đầy đủ và không hạn chế liên
quan đến mọi mặt:nghĩa vụ thông tin bổ xung của tất cả các đơn vị đối với
Kiểm toán nội bộ một khi phát hiện ra những thiếu sót nghiêm trọng hoặc để
xẩy ra những thiệt hại đáng kể trong đơn vị của mình hoặc khi có sự nghi ngờ
về điều đó.
Trình độ của cán bộ: việc bố trí nhân sự về số lợng và chuyên môn
(luôn có kiến thức mới nhất) phải đảm bảo phù hợp với các nhiệm vụ của
kiểm toán nội bộ. Các cán bộ của kiểm toán nội bộ cần phải có những kiến
thức chuyên sâu về kiểm toán cũng nh những kiến thức tổng quát về lĩnh vực
dợc kiểm toán.
4.4. Việc thực hiện Kiểm toán nội bộ.
Lập kế hoạch kiểm toán năm toàn diện và định hớng vào rủi ro.
Kiểm toán đột xuất đợc phép tiến hành bất cứ lúc nào (khi những
thiếu sót đã rõ ràng, khi co nhu cầu thông tin nhất định).
4.5. Quy mô của trách nhiệm kiểm toán
Định hớng vào rủi ro đối với tất cả các quy trình.
Loại hình, quy mô, tần suất và phơng pháp kiểm toán phải đảm bảo
sao cho các kết quả kiểm toán phải đa ra đợc những thông tin rõ ràng về mức
độ tuân thủ và tính hợp lý trong nội bộ từng lĩnh vực kiểm toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
9
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng
4.6. Hồ sơ công tác.
Ghi lại thành hồ sơ các công việc đã thực hiện cũng nh những thiếu
sót dợc phát hiện và các kết luận.
Dễ hiểu đối với ngời thứ ba.
4.7. Nghĩa vụ báo cáo.
Nhanh bằng văn bản.
ý kiến của bộ phận đợc kiểm toán đối với những thiếu sót đợc phát
hiện và kiến nghị.
Báo cáo phải trình bày về nội dung kiểm toán.
Đánh giá kết quả, kiến nghị sửa đổi cho hợp lý.
Báo cáo chung hàng năm gửi tới các thàh viên của Ban lãnh đạo.
4.8. Xử lý các thiếu sót đợc phát hiện.
Giám sát việc khắc phục ngay các thiếu sót và việc thực hiện các kiến
nghị ở hình thức thích hợp (kiểm toán việc thực hiện-follow up)
Nếu các thiếu sót không đợc khắc phục trong thời hạn thích hợp phải
báo cáo bằng văn bản cho ban lãnh đạo.
II. Hệ thống Kiểm toán nội bộ của các Tổ chức tín
dụng.
1. Khái niệm hệ thống Kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng.
Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ
trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (QĐ số 03/1997/QĐ-
NHNN3 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc ngày 03/01/1998):
Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ trong các tổ
chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phơng pháp giám sát,
kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định
pháp luật, các quy chế quản lý của Ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín
dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản, bảo đảm tính
toàn diện, và tin cậy của số liệu hạch toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
10