LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu đã nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ rang.
Hà Nội, Ngày 08 tháng 12 năm 2011
Tác giả luận văn
Lê Thị Thuý Nga
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường việc phân hoá giàu nghèo là một tất yếu
do sự khác nhau về khả năng lao động, trình độ văn hoá, kiến thức nghề
nghiệp dẫn đến có nhiều tầng lớp xã hội có mức thu nhập khác nhau. Một xã
hội văn minh là xã hội mà mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc, do đó
cần phải thực hiện xoá đói giảm nghèo.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới nền
kinh tế đất nước, chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; với
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Nhằm đạt mục tiêu chiến lược này, một trong những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước Việt nam là thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
Ngay từ Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII của Đảng cộng sản Việt nam đã
xác định “Phải trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn
cách làm ăn, hình thành quỹ XĐGN ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp
dân. Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu
tăng hộ giàu đi đôi với XĐGN”. [16,tr 63].
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, tốc độ tăng trường GDP hàng năm đạt từ 7-8%; đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định.
Lĩnh vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp
quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức
xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn
giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng
thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài
nguyên đất nước.v.v Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là
hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự
phát triển.
Từ thực tiễn của Việt nam và kinh nghiệm quốc tế của những nước có
điều kiện gần với Việt nam về đầu tư tín dụng cho đối tượng chính sách xã hội;
ngày 4/10/2002 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg
“Thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội” nhằm thống nhất các nguồn lực tài
chính, thiết lập một cơ chế tài trợ phù hợp, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu
hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội.
Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ
ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo
nhiều vấn đề vẫn bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN
còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững v.v Những
vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được
nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói
chung và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một
cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của
Nhà nước cũng như toàn xã hội.
Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối
với hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả tín dung đối với hộ nghèo
tại NHCSXH tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một hệ thống giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả tín dụng hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
- Phạm vi nghiên cứu: Tại NHCSXH tỉnh Thanh Hóa với số liệu từ
năm 2006-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp
quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng
hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình
bày luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, có kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ
nghèo.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân
hàng chính sách xã hội tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại
Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Thanh Hóa .
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ
và số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn
nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và
nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi
hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá
đói nghèo tại từng thời điểm.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời
sống của số đông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống
nghèo khổ, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng
nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa Chình vì vậỵ, trong xã
hội sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách
giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có
những chính sách và giải pháp phù hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội
phải thực hiện thành công chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn
XĐGN bền vững, thì điều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi vì sao họ
nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác, phải hiểu rõ được bản
chất và nội dung của đói nghèo.
Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế
đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả
năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định
nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á -
Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993:
"Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa
nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục, tập quán của
địa phương" [6, trang 122].
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói nghèo
thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Còn nghèo,
mức độ thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn
nghèo tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói
nghèo, ta thường dùng cụm từ "Xoá đói giảm nghèo".
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiêu. Trong hoàn
cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh
hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn
tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo
là hiện tượng trẻ em bỏ học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau.
1.1.2. Quan niệm về đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo
lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người
được coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới
mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiểu
này được gọi là "ngưỡng đói nghèo". Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản
thay đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo
thời gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với
mức độ phát triển chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so
sánh toàn cầu, Ngân hàng Thế giới sử dụng ngưỡng của tham chiếu $1 và
$2/ngày trong thuật ngữ "sức mua tương đương" (PPP) 1993 (PPP đo lường
sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia).
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình
XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày gọi là chuẩn
nghèo về lương thực, thực phẩm.
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay sử dụng một loạt các chỉ tiểu đánh giá về
nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của
Chính phủ trong tổ chức, triển khải thực hiện XĐGN) dùng phương pháp
dựa trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp
vào diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ dưới mức chuẩn được xác
định. Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo
được xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với
tổng dân số trong cùng một thời điểm.
Trước những thành tích của công cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên
1,5 lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn
hộ nghèo đã được điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn
mực phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ - TB&XH quy định tại văn bản số 1143
ngày 01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ
2001 - 2005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người tháng như
sau:
- 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng đảo và vùng miền núi nông
thôn.
- 100.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3
trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp
sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).
- Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cử) nằm
ở vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng
còn thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống,
là vùng có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao.
Theo tiêu chí đánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có
khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010:
- Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng.
- Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức
thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 20.000 đồng.
Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thì đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của
Việt Nam còn 7%, còn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%.
Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ TB&XH nêu trên có
những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính toán, dễ điều tra.
Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ TB&XH là phù hợp với
điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng
quát về đói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra
các giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
việc bình xét hộ nghèo tại một số địa phương (xóm, bản, xã, phường) đã
không thực hiện đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ TB&XH về tiêu chí đánh
giá hộ nghèo, cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số
hộ nghèo được cấp sổ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm.
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các
nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên
(vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập
quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm
nguyên nhân do bản thân người nghèo, dựa vào phân tích các nguyên nhân
như sau:
1.1.3.1 Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến sản xuất nông
nghiệp của các hộ gia đình nghèo. Ở những vùng khí hậu khắc nghiệt : thiên
tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình
phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu hoặc không có là
những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất.
1.1.3.2 Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
- Thiếu vốn sản xuất: Các tài liệu điều tra cho thấy đây là nguyên
nhân chủ yếu nhất. Nông dân thiếu vốn thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản
xuất kém, làm không đủ ăn, phải đi thuê, phải đi vay để đảm bảo cuộc sống
tối thiểu hàng ngày. Có thể nói: Thiếu vốn sản xuất là một lực cản lớn nhất
hạn chế sự phát triển của sản xuất và nâng cao đời sống của các hộ gia đình
nghèo. Kết quả điều tra xã hội học về nguyên nhân nghèo đói của các hộ
nông dân ở nước ta năm 2001 cho thấy: Thiếu vốn chiếm khoảng 70% - 90%
tổng số hộ được điều tra.
- Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Phương pháp canh tác cổ
truyền đã ăn sâu vào tiềm thức, sản xuất tự cung tự cấp là chính, thường sống
ở những nơi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện, con cái
thất học… Những khó khăn đó làm cho hộ nghèo không thể nâng cao trình độ
dân trí, không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác,
thiếu kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh đẫn đến năng xuất thấp,
không hiệu quả. Thiếu vốn chiếm khoảng 70% - 90% tổng số hộ được điều
tra.
- Bệnh tật và sức khoẻ yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình
trạng nghèo đói trầm trọng.
- Đất đai canh tác ít, tình trạng không có đất canh tác đang có xu
hướng tăng lên.
- Thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng ; Mặt khác
do hậu quả của chiến tranh dẫn đến nhiều người dân bị mất sức lao động,
nhiều phụ nữ bị góa phụ dẫn tới thiếu lao động hoặc thiếu lao động trẻ, khỏe
có khả năng đảm nhiệm những công việc nặng nhọc.
- Gặp những rủi ro trong cuộc sống, người nghèo thường sống ở những nơi
hẻo lánh, xa trung tâm, thời tiết khắc nghiệt, nơi mà thường xuyên xảy ra hạn hán,
lũ lụt dịch bệnh…. Cũng chính do thường sống ở những nơi hẻo lánh, giao thông
đi lại khó khăn mà hàng hóa của họ sản xuất thường bị bán rẻ (do chi phí giao
thông) hoặc không bán được, chất lượng hàng hóa giảm sút do lưu thông không
kịp thời.
1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo
Đói nghèo là hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại
khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển ; đặc biệt đối với
nước ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường xuất phát điểm nghèo
nàn lạc hậu tình trạng đói nghèo càng không tránh khỏi, thậm chí trầm trọng
và gay gắt. Như vậy, hỗ trợ người nghèo trước hết là mục tiêu của xã hội.
Xoá đói giảm nghèo sẽ hạn chế được các tệ nạn xã hội, tạo sự ổn định công
bằng xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Người nghèo được hỗ trợ
để tự vươn lên, tạo thu nhập, từ đó làm tăng sức mua, khuyến khích sản xuất
phát triển. Chính vì vậy, quan điểm cơ bản của chiến lược phát triển xã hội
mà Đảng ta đã đề ra là phát triển kinh tế, ổn định và công bằng xã hội nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tóm lại, hỗ trợ người nghèo là một tất yếu khách quan. Xuất phát từ lý
do của sự đói nghèo có thể khẳng định một điều: mặc dù kinh tế đất nước có
thể tăng trưởng nhưng nếu không có chính sách và chương trình riêng về
XĐGN thì các hộ gia đình nghèo không thể thoát ra khỏi đói nghèo được.
Chính vì vậy, Chính phủ đã đề ra những chính sách đặc biệt trợ giúp người
nghèo, nhằm thu hẹp dần khoảng cách giữa giàu và nghèo. Tất nhiên Chính
phủ không phải tạo ra cơ chế bao cấp mà tạo ra cơ hội cho hộ nghèo vươn
lên bằng những chính sách và giải pháp. Cụ thể là:
- Điều tra, nắm bắt được tình trạng hộ nghèo và thực hiện nhiều chính
sách đồng bộ: tạo việc làm, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng
với quy mô nhỏ ở những vùng nghèo, cho hộ nghèo vay vốn với lãi suất ưu
đãi, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết để họ có thể tiếp cận với thị
trường và hòa nhập với cộng đồng.
- Tiếp tục triển khai mở rộng Chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN
của Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm, Chính phủ dành ra một tỷ lệ trong
tổng chi ngân sách để bổ sung quỹ cho vay XĐGN.
- Kết hợp chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN với các chương trình
kinh tế xã hội khác như: Chương trình khuyến nông, chương trình phát triển
các ngành công nghiệp và dịch vụ, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn, chương trình nước sạch
nông thôn, dân số kế hoạch hóa gia đình, xoá mù chữ…
- Thực hiện một số chính sách khuyến khích và giúp đỡ hộ nghèo như:
miễn giảm thuế, viện phí, học phí… đối với hộ nghèo không còn khả năng lao
động tạo ra nguồn thu nhập, Nhà nước trợ cấp hàng tháng và vận động các tổ
chức đoàn thể, quần chúng, các nhà hảo tâm giúp đỡ dưới nhiều hình thức khác
nhau.
- Mở rộng sự hợp tác quốc tế với các tổ chức Chính phủ, tổ chức phi
Chính phủ để giúp đỡ lẫn nhau về nguồn lực và trao đổi kinh nghiệm.
Thực tế cho thấy có rất nhiều hình thức hỗ trợ để thực hiện chương trình
XĐGN nhưng hình thức tín dụng có hoàn trả là có hiệu quả hơn cả. Để thấy
được tính ưu việt của nó chúng ta hãy đi tìm hiểu vai trò của kênh tín dụng
ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo.
1.2. TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo
1.2.1.1 Quan niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Trong mối quan hệ
này ngân hàng vừa là người cho vay, vừa là người đi vay. Tuy trong kinh tế
thị trường có nhiều hình thức tín dụng, nhưng tín dụng ngân hàng là hình
thức chủ yếu và phổ biến nhất. Các ngân hàng thực tế là một trung gian tài
chính quan trọng hàng đầu trong bất kỳ một quốc gia nào.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là cá nhân doanh nghiệp và các
chủ thể khác, trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.1.2 Đặc điểm
- Hoạt động tín dụng ngân hàng đều được thực hiện dưới hình thức tiền
tệ.
Khi nói các hình thức tín dụng khác, chẳng hạn tín dụng thương mại,
việc vay mượn dưới hình thức hiện vật (hàng hoá); ngược lại, các nghiệp vụ
tín dụng ngân hàng đều được thực hiện bằng tiền tệ. Trên cơ sở huy động
mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hoặc lâu dài trong nền kinh tế, để
hình thành quỹ cho vay, đồng thời các Ngân hàng thương mại cũng tiến
hành cho các tác nhân tư nhân vay để bổ sung cho nhu cầu SXKD hoặc tiêu
dùng. Do huy động và cho vay bằng tiền, nên đối tượng cho vay của ngân
hàng rất linh hoạt và đáp ứng mọi nhu cầu trong nền kinh tế.
- Ngân hàng thương mại đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là cho
vay; ở đây ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập
tương đương đối với sự vận động và phát triển của quá trình sản xuất xã hội.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với hộ nghèo. Nó được
coi là công cụ quan trọng để phá vỡ vòng luẩn quẩn của thu nhập thấp, tiết
kiệm thấp và năng suất thấp, là chìa khoá vàng để giảm nghèo. Vai trò tín
dụng ngân hàng được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Cung cấp vốn tín dụng, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng
đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống:
Vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần cải thiện tình hình thị
trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Trong ba yếu
tố cơ bản để hộ nghèo có điều kiện SXKD, đó là vốn bằng tiền hoặc đất đai,
lao động và kỹ thuật; trong đó, vốn bằng tiền đóng vai trò quan trọng nhất vì
nếu có vốn bằng tiền, thì người sản xuất có thể mua sắm các tư liệu sản xuất
khác, kể cả đất đai. Hiện nay, tích lũy của người nghèo ở nước ta rất thấp, do
đó hầu như các hộ nghèo đều thiếu vốn để SXKD. Nhờ nguồn vốn của ngân
hàng mà các hộ nghèo có điều kiện tiếp cận được khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới như các giống cây, con mới, kỹ thuật canh tác mới và cũng nhờ
vay vốn, mà hộ nghèo tiếp cận được với công tác khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư.
- Tín dụng ngân hàng làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi:
Tệ nạn cho vay nặng lãi đã có từ lâu đời nay, hiện nay vẫn đang tồn
tại khá nặng nề ở nông thôn, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Cho vay
nặng lãi thể hiện ở lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của ngân
hàng hoặc dưới dạng mua bán sản phẩm non như lúa non, lạc non, mía
non ở thời kỳ giáp hạt.
Do nhu cầu cấp bách (thường là do đói kém, ốm đau bệnh tật, chi phí
gây nhiều tác hại cho người dân, đặc biệt là hộ nghèo, làm cho hộ nghèo
càng nghèo thêm. Chính hoạt động tín dụng ngân hàng, nhất là NHCSXH đã
trực tiếp làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi.
- Giúp cho người nghèo có việc làm, nâng cao kiến thức tiếp cận thị
trường có điều kiện hoạt động SXKD trong nền kinh tế thị trường.
Cung ứng vốn cho người nghèo theo chương trình, với mục tiêu đầu
tư cho SXKD để XĐGN, sau một thời gian thu hồi cả gốc và làm như thế
nào để có hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho gia đình, đồng thời trả nợ
cho ngân hàng. Để làm được điều đó, họ phải học hỏi kỹ thuật sản xuất, suy
nghĩ biện pháp quản lý. Từ đó, tạo cho họ tính năng động, sáng tạo trong lao
động sản xuất, tích luỹ được kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế.
Mặt khác, việc trao đổi trên thị trường, làm cho họ tiếp cận được kinh tế thị
trường một cách trực tiếp. Đồng thời giải quyết tình trạng không có việc làm
cho hàng vạn lao động nghèo, phát huy tiềm năng sẵn có của các hộ gia
đình. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ trợ phát triển ngành
nghề ở nông thôn, như: Chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
phục vụ sản xuất và đời sống cũng như thủ công mỹ nghệ, ngành nghề
truyền thống. Nhờ vậy, đã giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Giải
quyết phần lớn thời gian nông nhàn. Tận dụng lao động để khai thác ngành
nghề truyền thống, khai thác tiềm năng nội lực, cơ hội cho người nghèo tự
vận động, vượt qua khó khăn, vươn lên thoát khỏi đói nghèo hoà nhập cộng
đồng.
- Cung ứng vốn cho người nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới:
Tín dụng cho người nghèo của NHCSXH thực hiện theo các quy định
nghiệp vụ như bình xét công khai đối tượng được vay, thành lập tổ vay vốn,
phải qua sự kiểm tra của chính quyền xã, phường, các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp từ Trung ương đến xã, vốn vay được phát trực tiếp tận người vay. Do
đó, thông qua vay vốn, các hộ nghèo trong tổ cùng giúp đỡ nhau trong sản xuất
và đời sống; trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý kinh tế, chia
sẻ rủi ro, hoạn nạn. Thông qua đó mà tình làng nghĩa xóm được gắn bó hơn.
Đồng thời số lượng các hội viên sinh hoạt tại các tổ chức hội (HND, HNP,
HCCB, ĐNT) ngày càng đông, hoạt động của các tổ chức hội phong phú hơn
về nội dung, các hội làm dịch vụ ủy thác cho vay hộ nghèo cũng có thêm khoản
thu nhập từ phí ủy thác ngân hàng trả theo tỷ lệ và định kỳ nhất định (hàng
quý). Kết quả phát triển kinh tế đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Trật
tự an ninh, an toàn xã hội được giữ vững, hạn chế được những mặt tiêu cực, tạo
ra bộ mặt mới trong đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn.
1.3. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
Đối với các ngân hàng thương mại, thì các dịch vụ tín dụng là một
trong những sản phẩm quan trọng nhất của ngân hàng, chúng gồm các khoản
cho vay và các dịch vụ mang tính chất tín dụng. Đối với NHCSXH hiện nay,
các khoản cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động tín dụng Ngân
hàng và chúng là sản phẩm dễ rủi ro nhất. Quan niệm hiệu quả tín dụng hộ
nghèo ở đây được hiểu là hiệu quả cho vay.
1.3.1. Quan niệm
Hiệu quả tín dụng hộ nghèo xét trên các khía cạnh:
- Thực hiện bình xét dân chủ, công khai, vốn đến đầy đủ, đúng địa chỉ
hộ nghèo cần vay vốn (hộ nghèo có sức lao động, có khả năng SXKD nhưng
thiếu vốn) và được sử dụng đúng mục đích.
- Quy mô tín dụng: Quy mô tín dụng với hộ nghèo được thể hiện ở số
tuyệt đối dư nợ tín dụng đối với hộ nghèo trong tổng dư nợ, doanh số cho
vay, thu nợ hộ nghèo, số tiền vay đối với một hộ. Số tuyệt đối dư nợ lớn và
tỷ trọng dư nợ cao, doanh số cho vay, thu nợ lớn thể hiện hoạt động tín dụng
ngân hàng đã đáp ứng tốt nhu cầu của các hộ nghèo.
- Chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo thể hiện
ở mức độ an toàn tín dụng, khả năng hoàn trả và hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng của người vay). Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ hộ nghèo thấp,
cho thấy các khoản tín dụng đối với hộ nghèo an toàn, lành mạnh. Tỷ lệ nợ
quá hạn cao, phản ảnh sự rủi ro các khoản tín dụng.
- Khả năng bảo toàn vốn: Khi ngân hàng cho hộ nghèo vay vốn để
phát triển SXKD. Ngân hàng tính toán được khả năng thu hồi vốn (cả gốc và
lãi), sau khi trừ các chi phí thì vẫn có lãi. từ đó ngân hàng có thể duy trì và
mở rộng hoạt động phục vụ của mình.
- Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý cho hộ nghèo, hỗ trợ hộ nghèo
phát triển kinh tế, tăng thu nhập vươn lên khỏi đói nghèo, hoà nhập cộng đồng.
- Sô hộ nghèo thoát khỏi đói nghèo nhờ vay vốn, số việc làm được
giải quyết thông qua vay vốn NHCSXH.
1.3.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
Tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng nhất của một ngân hàng
nói chung, dư nợ tín dụng là khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng
tài sản có của ngân hàng. Tín dụng cũng là hoạt động mang lại nguồn thu
nhập chủ yếu cho các ngân hàng, thông qua việc đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý
cho khách hàng. Hiệu quả tín dụng đối với ngân hàng là một chỉ tiêu tổng
hợp được đánh giá liên quan đến lợi ích của 03 đối tượng: Lợi ích khách
hàng vay vốn, ngân hàng và nền kinh tế - xã hội.
(1). Hiệu quả kinh tế
a. Về phía hộ nghèo
- Hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo được thể hiện ở
doanh số vay, trả (gốc, lãi) đúng hạn, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, rủi ro trong sử
dụng vốn thấp. Nếu doanh số này của hộ lớn, họ vay sử dụng vốn đúng mục
đích, trả nợ (gốc, lãi) đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng, trong quá trình sử
dụng vốn không gặp rủi ro gây thất thoát vốn, sau khi trừ đi các khoản chi
phí vẫn còn có lãi, thể hiện vốn sử dụng có hiệu quả.
- Biểu hiện qua việc sử dụng vốn của hộ nghèo vào SXKD như thể
nào? Nếu hộ nghèo vay vốn về SXKD thuận lợi, sản xuất nhiều hàng hoá,
bán thu được lợi nhuận, sau khi trừ đi phần trả nợ cho ngân hàng (gốc, lãi),
trả tiền công lao động, mà vẫn có lãi, thì đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cao.
Ngược lại, nếu vay vốn về SXKD thua lỗ thì hiệu quả thấp, thậm chí mất
vốn. Có nhiều trường hợp vay vốn ngân hàng về chăn nuôi, trồng trọt, tuy đã
trả hết nợ cho ngân hàng đúng thời hạn, nhưng vẫn bị đánh giá là hiệu quả
thấp vì nguồn để trả nợ cho ngân hàng phải đi vay chỗ khác, chứ không phải
từ nguồn thu nhập của người vay. Trường hợp này, nếu không đi vay chỗ
khác thì hộ nghèo phải bán tài sản hình thành từ vốn vay để trả nợ. Cho nên,
nếu chỉ nhìn một mặt trả nợ của hộ vay cho ngân hàng để đánh giá hộ vay sử
dụng vốn có hiệu quả là chưa đủ.
- Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo cũng được đánh giá thông qua
tiêu chí: Tỷ suất lợi nhuận và mức sống của hộ nghèo, nếu tỷ suất lợi nhuận
được tăng lên, mức sống hộ nghèo được cải thiện tốt, thì hiệu quả tín dụng
tốt.
- Thông qua việc sử dụng vốn vào SXKD, trình độ quản lý kinh tế của
người vay được nâng lên. Người nghèo có điều kiện tiếp cận được kỹ thuật
về trồng trọt, chăn nuôi tiên tiến, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật
mới. Đây cũng là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng mang
lại cho hộ nghèo.
- Số hộ thoát nghèo bền vững, vươn lên thành hộ giàu là một trong
những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của tín dụng đối với hộ nghèo. Hộ
đã thoát khỏi ngưỡng đói nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người
cao hơn chuẩn mực đói nghèo hiện hành, không còn nằm trong danh sách hộ
nghèo do phòng LĐ - TB&XH huyện, thị, thành phố lập theo từng năm.
Tổng số
hộ nghèo đã thoát
Số hộ
nghèo
Số hộ
nghèo
Số hộ
nghèo
Số hộ
nghèo
khỏi đói nghèo
(ra khỏi danh sách
hộ nghèo)
= trong
danh sách
đầu kỳ
- trong
danh sách
cuối kỳ
- Chuyển
đi địa bàn
khác
trong kỳ
+ chuyển
đến
trong kỳ
Mục tiêu của tín dụng ưu đãi với hộ nghèo là giúp họ có vốn sản xuất,
thoát nghèo để hoà nhập cộng đồng và hơn thế nữa là ổn định tình hình
chính trị - xã hội. Do vậy, số hộ thoát khỏi nghèo đói hàng năm cao, trong
đó có hộ vay vốn NHCSXH, có nghĩa là vốn của NHCSXH đã được hộ
nghèo sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tại một số địa phương việc
đánh giá hộ thoát nghèo không chính xác, vì nhiều lý do khác nhau.
- Tỷ lệ hộ nghèo được vay vốn: Đây là chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng
đối với công tác tín dụng. Tỷ lệ này càng cao, một mặt thể hiện nguồn vốn
tín dụng lớn để phục vụ hộ nghèo; mặt khác, đánh giá khả năng SXKD của
hộ nghèo ngày càng lớn, nguồn vốn có hiệu quả (nếu sử dụng vốn không
hiệu quả, thì hộ nghèo sẽ không có nhu cầu vay).
Tỷ lệ hộ nghèo
được vay vốn
=
Tổng số hộ nghèo được vay vốn
x 100%
Tổng số hộ nghèo trong danh sách
- Luỹ kế số hộ thoát nghèo lớn, cũng là một tiêu chí để đánh giá hiệu
quả tín dụng đối với hộ nghèo qua cả một thời gian.
b. Về phía ngân hàng
NHCSXH là tổ chức tín dụng của nhà nước, hoạt động vì mục tiêu
XĐGN, phát triển kinh tế và ổn định xã hội, không vì mục đích lợi nhuận.
Hiệu quả tín dụng NHCSXH được thể hiện.:
Thứ nhất, quy mô tín dụng: Quy mô tín dụng đối với hộ nghèo được
thể hiện ở số tuyệt đối dư nợ tín dụng với hộ nghèo và tỷ trọng dư nợ tín
dụng hộ nghèo trong tổng số dự nợ tín dụng của NHCSXH. Số tuyệt đối lớn
và tỷ trọng dư nợ cao, thể hiện hoạt động tín dụng ngân hàng đã đáp ứng tốt
nhu cầu vốn của hộ nghèo.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng
đối với hộ nghèo
=
Dư nợ tín dụng hộ nghèo
x 100%
Tổng dư nợ tín dụng
Tăng trưởng
dư nợ TDHN
=
Dư nợ TDHN năm sau -Dư nợ TDHN năm trước
x 100%
Dư nợ tín dụng hộ nghèo năm trước
Thứ hai, chất lượng tín dụng:
- Có 03 tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ
sử dụng vốn sai mục đích và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người
vay.
- Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản mà ngân hàng đang dùng để đánh
giá chất lượng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ % giữa nợ quá hạn và tổng
dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối
quý, cuối năm. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã
cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín
dụng và bị chuyển sang nợ quá hạn, với lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất
bình thường (lãi suất nợ quá hạn hiện nay bằng 130% lãi suất cho vay).
Trong kinh tế thị trường, nợ quá hạn đối với ngân hàng là khó tránh khỏi,
vấn đề là làm sao để giảm thiểu nợ quá hạn. Những ngân hàng có tỷ lệ nợ
quá hạn thấp được đánh giá chất lượng tín dụng tốt, hiệu quả tín dụng cao và
ngược lại.
Tỷ lệ nợ quá hạn
cho vay hộ nghèo
=
Dư nợ quá hạn cho vay hộ nghèo
x 100%
Tổng số dư nợ hộ nghèo
- Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích: Người vay sử dụng vốn đúng mục
đích đã trở thành nguyên tắc quan trọng của ngân hàng nói chung; tuy vậy
trong thực tế đã không ít khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết
với ngân hàng, với động cơ thiếu lành mạnh và do đó dễ bị rủi ro; trong
trường hợp này người ta gọi là rủi do đạo đức. Những khoản vay bị sử dụng
sai mục đích phần lớn đều không đem lại hiệu quả kinh tế xã hội như mong
muốn của ngân hàng. Chỉ tiêu này có thể xác định theo công thức:
Tỷ lệ sử dụng vốn
sai mục đích
=
Số tiền sử dụng sai mục đích
x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng bị đánh giá là thấp và ngược
lại.
- Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: Nguồn trả nợ cho
ngân hàng về nguyên tắc là được trích ra từ phần thu nhập của người vay. Tuy
nhiên, có trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả bị mất vốn nên người vay
phải bán tài sản để trả nợ, trong trường hợp này đánh giá chất lượng tín dụng
thấp.
Tỷ lệ thanh toán nợ
do bán tài sản
=
Số tiền nợ thu được do khách hàng bán
x 100%
Tổng doanh số thu nợ
Thứ ba, khả năng bảo toàn vốn: NHCSXH là một tổ chức tín dụng
Nhà nước hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện chính sách tín
dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nhưng
phải bảo toàn vốn. Muốn duy trì hoạt động bền vững thì NHCSXH phải có
chênh lệch tương đương về thu, chi nghiệp vụ. Các khoản thu chủ yếu là thu
lãi tiền vay, chi chủ yếu trả phí ủy thác, hoa hồng, trả lãi tiền vay. NHCSXH
cho hộ nghèo vay vốn phải thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, hạn chế
thấp nhất về rủi ro xảy ra (kể cả rủi do bất khả kháng).
`Thứ tư, mức độ đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của hộ nghèo, hỗ trợ hộ
nghèo phát triển kinh tế, vượt lên thoát đói nghèo. Nếu nguồn vốn của ngân
hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu ngày càng tăng của hộ nghèo, thì
đánh giá hiệu quả của NHCSXH đối với tín dụng hộ nghèo cao và ngược lại.
Thứ năm, về thủ tục đơn giản, thuận tiện, cung cấp nhanh chóng,
giảm bớt chi phí trong hoạt động cho vay, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín
dụng.
(2) Hiệu quả xã hội
a. Đối với hộ nghèo
- Tạo việc làm cho người lao động: Thông qua công tác cho vay hộ
nghèo, đã thu hút được một bộ phận con, em của hộ nghèo có việc làm ổn
định, tạo thêm nhiều của cải cho gia đình và xã hội, góp phần hạn chế tệ nạn
xã hội, ổn định trật tự chính trị và an toàn xã hội.
- Các vùng nghèo, xã nghèo, nhờ nguồn vốn tín dụng, đặc biệt lá vốn
tín dụng của ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây, nay là NHCSXH đã
xoá bỏ được tình trạng vay nặng lãi và bán nông sản non, góp phần thay đổi
bộ mặt đời sống nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với hộ nghèo.
b. Đối với ngân hàng
- Nếu hiệu quả tín dụng của NHCSXH được nâng lên, thì không chỉ
các hộ nghèo được vay vốn, mà ngân hàng còn có điều kiện để phục vụ
chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ, của địa phương. Đây chính là sự
tồn tại và phát triển bền vững của NHCSXH.
- Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương:
Nếu hiệu quả tín dụng cao, ngân hàng sẽ có thêm điều kiện để phục vụ tốt
hơn nhu cầu vay vốn của các đối tượng; từ đó sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế,
xã hội của địa phương phát triển.
- Thông qua cho vay của NHCSXH, đã kéo theo một đội ngũ cán bộ ở
cấp xã, huyện vào cuộc cùng ngân hàng, số tiền hoa hồng tổ nhóm, phí ủy
thác đã làm nguồn thu đáng kể đối với ban quản lý tổ vay vốn và tổ chức
hội.
- Thông qua vay vốn hộ nghèo, nội dung hoạt động của các tổ chức
hội càng thêm phong phú, số lượng hội viên tham gia sinh hoạt ngày càng
đông.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo
(1). Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tín dụng đối với hộ
nghèo. Những hộ sống ở vùng đồng bằng, nơi có cơ sở hạ tầng tốt, trình độ
dân trí cao, khí hậu ôn hòa, đất đai rộng, thì vốn tín dụng hộ nghèo dễ có
điều kiện phát huy hiệu quả cao và ngược lại, những nơi cơ sở hạ tầng thấp
kém, giao thông đi lại khó khăn, đất đai ít, cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt thì
vốn tín dụng phát huy hiệu quả không cao.
(2). Điều kiện xã hội
Do tập quán canh tác ở một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn
lạc hậu, như chăn nuôi gia súc, gia cầm thả rông, không có chuồng trại,
không tiêm phòng dịch, nên hiệu quả không cao. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả tín dụng hộ nghèo. Các hộ nghèo thường có số con đông hơn
các hộ trung bình, nhưng sức lao động ít, trình độ học vấn của chủ hộ và các
thành viên trong gia đình thấp, nên sử dụng vốn kém hiệu quả. Một số hộ
nghèo do nhận thức còn hạn chế, xem nguồn vốn tín dụng của NHCSXH là
vốn cấp phát, cho không của Nhà nước, nên sử dụng chủ yếu vào sinh hoạt
trong gia đình; không đầu tư vào SXKD; vốn sử dụng không có hiệu quả,
dẫn đến không trả nợ cho ngân hàng.
(3). Điều kiện kinh tế
Vốn tự có của hộ nghèo hầu như không có (chỉ có sức lao động), nên
vốn SXKD chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng cũng là một yếu tố làm giảm
hiệu quả của vốn vay. Cùng với việc thiếu vốn SXKD, thì việc lồng ghép tập
huấn các chương trình như: Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư … hạn
chế cũng góp phần làm giảm hiệu quả tín dụng hộ nghèo.
Điều kiện y tế, giáo dục, thị trường cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả tín dụng hộ nghèo. Những nơi có trạm y tế, có đội ngũ y, bác sỹ đầy đủ,
thì nơi đó việc chăm sóc sức khỏe cho người dân được đảm bảo, người dân
có sức khỏe tốt đồng nghĩa với sức lao động tốt, có điều kiện để SXKD tốt,
sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó, có vốn tín dụng hộ nghèo và ngược lại.
Giáo dục có ý nghĩa quyết định đến việc sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả.
Nếu nơi nào có tỷ lệ người được học cao, thì nơi đó dễ có điều kiện tiếp thu
khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; nơi đó con người có ý thức tốt hơn; SXKD
có hiệu quả, chấp hành pháp luật Nhà nước và thực hiện việc trả nợ cho
ngân hàng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tín
dụng hộ nghèo. Nơi nào có chợ, chợ họp thường xuyên, thì nơi đó kinh tế
phát triển, hàng hóa sản xuất ra dễ tiêu thụ, người dân tiếp cận được với
khoa học kỹ thuật, có điều kiện tiếp cận được kinh tế thị trường.
(4). Chính sách nhà nước
Sự can thiệp (điều tiết) của Nhà nước đối với nền kinh tế là một tác
nhân quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế. Sự điều tiết của
Nhà nước đúng, kịp thời sẽ giúp môi trường kinh tế được lành mạnh hóa,
hoặc ngược lại sẽ gây rối loạn thị trường. Để nhà nước có các chính sách hỗ
trợ vốn cho các vùng nghèo, xã nghèo, hộ nghèo kịp thời, liên tục; có chính
sách hướng dẫn hộ đầu tư vốn vào lĩnh vực nào trong từng thời kỳ, xử lý rủi
ro kịp thời cho hộ nghèo, thì vốn vay dễ có điều kiện phát huy hiệu quả cao.
Sản phẩm làm ra của hộ nghèo, nếu có thị trường tiêu thụ tốt, thì dễ tiêu thụ
có lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao và ngược lại; nếu Nhà nước có các
chính sách đúng, kịp thời hỗ trợ hộ nghèo trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, thì góp phần làm cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. Nhà nước phải
đầu tư cơ sở hạ tầng, bao gồm xây dựng và nâng cấp các con đường giao
thông nông thôn, các công trình thủy lợi và chợ. Hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp, bao gồm cung cấp giống mới và các loại vật tư nông nghiệp khác,
tập huấn và khuyến nông để người nghèo có các điều kiện cần thiết sử dụng
vốn có hiệu quả.
(5). Bản thân hộ nghèo
Khách hàng vay vốn của NHCSXH hiện nay chủ yếu là hộ nghèo và
các đối tượng chính sách, mà hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ, trong đó, có
tri thức, kinh nghiệm SXKD, dẫn đến hiệu quả của SXKD hạn chế, sản
phẩm sản xuất ra chi phí cao, chất lượng và khả năng cạnh tranh kém khó
vượt qua các rủi ro trong sản xuất và đời sống. Về vốn chủ yếu là vốn vay
ngân hàng, không có vốn tự có, dẫn đến bị động về vốn sản xuất. Nếu hộ
nghèo có ý thức sử dụng vốn đúng mục đích gặp thuận lợi trong sản xuất,
chăn nuôi thì sẽ có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tại một số vùng đặc biệt
khó khăn là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tư
tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của Nhà nước. Một số hộ nghèo do ý
thức kém, nên sử dụng vốn sai mục đích, không chấp hành việc trả nợ (gốc,
lãi) cho ngân hàng đúng hạn.
1.4. KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước
1.4.1.1 Kinh nghiệm cho vay XĐGN của Ngân hàng Grameen (Bangladesh)
Bangladesh một số nước nông nghiệp lạc hậu, diện tích tự nhiên gần
143.000 km
2
, dân số khoảng 120 triệu người, thuộc nước nghèo nhất thế
giới; trong đó, 80% dân số sinh sống ở nông thôn. GDP bình quân đầu người
dưới 200 USD, nhưng bình quân GDP của nông dân chỉ hơn 100 USD/năm.
Dân trí thấp, nhiều người mù chữ. Bangladesh là nước đồng bằng, thiên tai
thường xuyên xảy ra. Do đó, đời sống của đa số nông dân rất thiếu thốn.
Ngân hàng Grameen (có nghĩa là làng xã) hình thành từ năm 1976,
vốn ban đầu chỉ có 28 USD của Giáo sư, TS Yumus sáng lập. Hệ thống ngân
hàng Grameen gồm: Ngân hàng TW, trụ sở tại thủ đô Datka, Văn phòng đại
diện tại các bang hoặc vùng, hơn 1.000 Chi nhánh khu vực ở nông thôn,
dưới chi nhánh, mỗi làng có Trung tâm tín dụng do thành viên vay vốn tự
xây dựng và tự quản lý, một thành viên làm trưởng Trung tâm tín dụng, mỗi
trung tâm tín dụng có ít nhất 10 tổ tín dụng. Mỗi tổ tín dụng có 5 thành viên,
một thành viên làm tổ trưởng. Nông dân nghèo muốn được vay tiền ngân