Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.71 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN THỊ THIỀU HƯƠNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN THỊ THIỀU HƯƠNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước
Mã số: 60310203
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Nguyễn Minh Phương
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết
luận trong luận văn chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thiều Hương
3
CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
CB CC Cán bộ, công chức
HĐND Hội đồng nhân dân
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là cấp chính
quyền gần dân nhất, trực tiếp tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống hàng ngày của
nhân dân ở địa phương. Chính quyền cấp xã trực tiếp bảo đảm trên thực tế việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người dân, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cấp xã là cấp gần gũi dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều
xong xuôi” [38, tr. 372].
Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền và hệ thống chính trị cấp
xã nói chung phụ thuộc trước hết vào năng lực của đội ngũ CB,CC cấp xã, vì
đây là những người hàng ngày tiếp xúc với người dân, làm cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn cho thấy, địa phương nào có đội ngũ
CB,CC cơ sở trong sạch, vững mạnh thì nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn
định; kinh tế, văn hóa phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Ngược
lại, cơ sở nào đội ngũ CB,CC không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, thì địa
phương đó sẽ gặp khó khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển. Điều đó cho
thấy, CB,CC cấp xã có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và củng
cố hệ thống chính trị cơ sở, ảnh hưởng đến sự nghiệp đổi mới của Đảng và

Nhà nước ta hiện nay.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã trong sạch,
vững mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ 5,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
1
công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở” [17, tr 167].
Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 và Nghị định
số 114/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/2003 về cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn đã tạo cơ sở pháp luật cho việc kiện toàn và phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo hướng chính quy và chuyên nghiệp hóa.
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 92/2009/NĐ-
CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối
với CB,CC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, các chức danh công chức cấp xã gồm:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hoá - xã hội.
Đội ngũ công chức cấp xã có chức trách tham mưu, đề xuất các biện

pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND và chủ tịch UBND
cấp xã, đồng thời trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của quản lý nhà
nước và cung ứng dịch vụ công trong các lĩnh vực theo quy định của pháp
luật và sự phân công của Chủ tịch UBND cấp xã.
Nhìn chung trong những năm gần đây, đội ngũ công chức cấp xã đã có
nhiều cố gắng, nỗ lực thực hiện có kết quả chức trách, nhiệm vụ của mình, có
tinh thần phấn đấu vươn lên, vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại và phức tạp ở
2
cấp cơ sở. Đội ngũ công chức cấp xã đã hoàn thành tốt chức trách tham mưu,
giúp UBND trong việc thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã
trong quản lý nhà nước các lĩnh vực kinh tế - xã hội và cung ứng các dịch vụ
công đáp ứng nhu cầu, lợi ích của nhân dân địa phương theo quy định của
pháp luật.
Ở Hưng Yên trong những năm qua, đội ngũ công chức cấp xã đã phát
huy được vai trò, trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước và đã đạt
được những kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn
định chính trị - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ
mới của đất nước, của địa phương, đội ngũ công chức cấp xã còn không ít
những hạn chế về trình độ và năng lực. Chính vì thế trong quá trình quản lý
khi gặp những tình huống, những vụ việc rắc rối không đề ra được phương án
giải quyết tối ưu.
Đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Hưng Yên trước năm 2003 hầu hết
chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, hoặc
đào tạo lớp Trung cấp lý luận chính trị, chưa được đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ, do vậy những lúng túng, va vấp, vi phạm trong công việc là điều
khó tránh khỏi. Bên cạnh những hạn chế do trình độ, năng lực, một bộ phận
không nhỏ công chức cấp xã do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, có
biểu hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức, sống xa dân, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, lợi dụng chức quyền làm trái các nguyên tắc quản lý, tham nhũng,
làm giàu bất chính, lãng phí của công, bán và sang nhượng đất trái phép, bị

truy tố trước pháp luật gây tổn hại không nhỏ đến uy tín và làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước, đội ngũ
công chức cấp xã đang bộc lộ một số hạn chế về trình độ, năng lực tham mưu
cho UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước và trực
tiếp cung ứng các dịch vụ công cho người dân, tổ chức trên địa bàn.
3
Xuất phát từ vai trò và thực trạng của đội ngũ công chức cấp xã nêu
trên đòi hỏi phải nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định các giải
pháp thích hợp xây dựng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hưng Yên đáp ứng
được yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn mới ở địa
phương. Với những lý do đó, học viên mạnh dạn lựa chọn vấn đề “Xây dựng
đội ngũ công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước ở
tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, với
mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã
của tỉnh nhà.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, trong đó
có công chức cấp xã là chủ đề tài có tính thời sự và đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu trên các phương diện khác nhau của nhiều nhà khoa học, nhà quản
lý, hoạch định chính sách và hoạt động thực tiễn. Đến nay đã có nhiều công trình
được công bố dưới dạng sách, đề tài khoa học, bài báo đăng tạp chí, như:
- Sách: Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới.
Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ. Nxb. Chính trị quốc
gia. 2004.
- Sách: Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. TS. Thang
Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia, 2005.
- Sách: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã

(Qua khảo sát ở đồng bằng sông Hồng). TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai chủ biên.
Nxb. Chính trị quốc gia, 2007
- Sách: Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phường hiện nay. TS. Nguyễn Duy Hùng chủ biên. Nxb. Chính trị
quốc gia. 2008.
4
- Sách: Tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức cơ sở. Ths. Nguyễn Thế Vịnh, Ths. Đinh Ngọc Giang đồng chủ biên.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009
- Sách: Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam
hiện nay. Những vấn đề lý luận và thực tiễn. TS. Mạc Minh Sản. Nxb. Chính
trị - Hành chính. 2009.
- Sách: Chính quyền cấp xã và việc tổ chức, điều hành hoạt động của
UBND cấp xã. Ths. Dương Bạch Long biên soạn. Nxb. Chính trị quốc gia,
2011.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2007): Nghiên cứu xây dựng quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn 2007- 2015. Chủ nhiệm: Vũ Xuân Khoan - Bộ
Nội vụ.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2008): Nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở Tây Nguyên. Chủ nhiệm: TS. Hồ Công Dũng - Bộ Nội vụ.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2009): Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở. Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn Thế
Vịnh- Bộ Nội vụ.
- Luận văn thạc sĩ luật học của Lương Thị Quyên (2005) : Nâng cao
chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã qua nghiên
cứu thực tiễn của tỉnh Hải Dương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thanh Tuyền (2009): Chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã trên địa bàn tỉnh Điện

Biên hiện nay., Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Phương Thảo (2010): Chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã của tỉnh Tuyên Quang, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
5
- Luận văn thạc sĩ hành chính công của Trần Minh Lý (2010): Nâng
cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp, Học
viện Hành chính
Một số bài viết, bài nghiên cứu về đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
đăng trên các Tạp chí như Tạp chí Cộng sản, Tổ chức Nhà nước, Quản lý Nhà
nước như: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - Vấn đề và giải
pháp, Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2002; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
xã, phường trong giai đoạn hiện nay –Tạp chí Tổ chức nhà nước, 3/2005; Góp
phần hoàn thiện chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã – Tạp chí Tổ
chức Nhà nước. Số 5/2009; Cơ sở khoa học xây dựng, hoàn thiện chính sách,
chế độ đối với cán bộ, công chức cơ sở”. Tạp chí Cộng sản. Chuyên đề cơ sở.
Số 6/2009; Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức xã góp phần phát
triển nông nghiệp bền vững - Tạp chí Tổ chức Nhà nước. Số 9/2011; Vai trò
của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trong thời kỳ đổi mới. Tạp
chí Tổ chức Nhà nước. Số 10/2011.
Như vậy, có thể thấy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đánh giá
thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt
động chính quyền cấp xã và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã, nhưng chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu chuyên biệt về cán
bộ, công chức cấp xã nói chung và công chức cấp xã ở tỉnh Hưng Yên nói
riêng. Hơn nữa phần lớn những công trình này đều được thực hiện trước khi
Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở của tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của công chức cấp xã và đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ công chức
6
cấp xã ở tỉnh Hưng Yên, luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp xây
dựng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hưng Yên đủ về số lượng, đảm bảo về
chất lượng, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng đội ngũ
công chức cấp xã; phân tích làm rõ sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ công
chức cấp xã và những nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ công chức
cấp xã.
- Đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh
Hưng Yên, nêu rõ những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp xây dựng đội ngũ công chức
cấp xã ở tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cải cách nền hành chính
nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác xây dựng đội ngũ công chức
thuộc UBND xã, phường, thị trấn ở tỉnh Hưng Yên
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát, đánh giá công tác xây dựng đội
ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hưng Yên từ năm 2003 (Pháp lệnh CB,CC sửa
đổi, bổ sung năm 2003) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin
lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước ta về công tác cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ
công chức cấp xã nói riêng.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bởi phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp cụ thể như: phân tích và
tổng hợp, lịch sử và lôgic, thống kê, so sánh… để phân tích và làm sáng tỏ
vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đội
ngũ công chức cấp xã.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp phù hợp, có tính khả thi nhằm
xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính nhà nước ở tỉnh Hưng Yên.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Những kết luận và giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách tạo nguồn, tuyển dụng, sử
dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ công chức cấp xã ở Hưng Yên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện, thành phố của tỉnh Hưng Yên.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan sau này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
CẤP XÃ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1.1. Vị trí, vai trò và chức trách, nhiệm vụ của công chức cấp xã
1.1.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm của công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà
nước ở mỗi quốc gia. Ở các quốc gia tồn tại nhiều đảng phái chính trị, công
chức chỉ được hiểu là những người giữ công vụ thường xuyên trong các cơ
quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc công chức, hưởng lương từ ngân
sách nhà nước. Còn ở những nước chỉ có duy nhất một Đảng lãnh đạo nhà
nước và xã hội thì quan niệm công chức được mở rộng hơn, ngoài những chủ
thể trên mà còn gồm cả những đối tượng có dấu hiệu tương tự, nhưng làm
việc trong tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt, cán bộ là “người làm công tác nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước, Đảng và đoàn thể có chức vụ”, công
chức là “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp” [38
tr. 207].
Luật CB,CC năm 2008, có hiệu lực chính thức từ ngày 01/01/2010
quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
9
chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung

ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; …[ 30, tr 8 ]
Theo Điều 61 của Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một
số chế độ, chính sách đối với CBCC ở xã, phường, thị trấn và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, CBCC cấp xã gồm:
- Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
10
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);

+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa - Xã hội.
Số lượng CBCC cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp xã:
cấp xã loại 1 không quá 25 người, cấp xã loại 2 không quá 23 người, cấp xã
loại 3 không quá 21 người. Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện
theo quy định tại Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính
phủ về việc phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Như vậy, CB,CC cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử hoặc
tuyển dụng để giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong tổ chức Đảng, HĐND,
UBND, các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã hoặc giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã
Nói đến vấn đề cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
11
cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Người đặt cán bộ
ở vị trí có tính chất quyết định, vì chính sách đúng nhưng không đạt được kết
quả nếu cán bộ thực hiện sai, cán bộ yếu kém. Do vậy, theo Người, “Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [29, tr. 229 - 306].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại
của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường

xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Ở nước ta, chính quyền cấp xã có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng
không chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối
mạnh mẽ đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân
cư và toàn thể người dân trong xã; là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực
hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước đều được thực hiện ở cấp xã. Với vị trí là cấp cơ sở, vai trò của
công chức cấp xã được thể hiện qua các mối quan hệ: với đường lối, chính
sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với chức trách thực thi công vụ và
với quần chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
- Quan hệ giữa chính sách, pháp luật với công chức cấp xã là mối quan
hệ nhân - quả. Công chức cấp xã có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể cụ
thể hóa, bổ sung hoàn chính chính sách và tổ chức thực hiện tốt pháp luật.
Nếu công chức cấp xã không vững mạnh thì cho dù đường lối, chính sách có
đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Như vậy, công chức cấp xã góp
phần quyết định sự thành bại của đường lối và chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
12
- Công chức cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng
thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự
điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, vị trí,
vai trò của công chức cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng
nhân dân.
- Công chức cấp xã là nhân tố chủ yếu, mang tính “động” nhất ở cơ sở,
tuy nhiên công chức cấp xã lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã yêu cầu các chức danh
công chức cấp xã phải hoạt động theo những nguyên tắc và khuôn khổ nhất

định. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã khoa học
và hợp lý có tác dụng thúc đẩy và tạo điều kiện cho các chức danh công chức
cấp xã thực thị công vụ có hiệu lực và hiệu quả. Công chức cấp xã chỉ có sức
mạnh khi gắn với tổ chức chính quyền và nhân dân, nếu tách rời thì công
chức cấp xã mất sức mạnh quyền lực và hiệu lực do nhân dân tạo nên.
- Công chức cấp xã là lực lượng nòng cốt trong quản lý hành chính nhà
nước ở cấp xã. Mỗi công chức cấp xã được giao thực hiện một khối lượng
công việc rộng, nhiều và có tác động ảnh hưởng lớn trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Chính họ có khả năng đóng góp
nhiều ý kiến đề xuất với các cơ quan nhà nước cấp trên để xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân.
- Công chức cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực tiếp
bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã
hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trò
13
tiên phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham
nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính
quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thông
qua hoạt động của công chức cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ
và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Tóm lại, công chức cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng và thực
tế trong quá trình xây dựng đất nước, đội ngũ công chức cấp xã ở nước ta đã
khẳng định được vị trí, vai trò của mình, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2.3. Đặc điểm của công chức cấp xã
- Công chức cấp xã là một bộ phận cấu thành đội ngũ CB,CC nhà nước
thực thi công vụ nhằm mục đích phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát trực tiếp
của nhân dân. Họ là những người đại diện cho chính quyền cơ sở, là những

người gần dân nhất; hàng ngày tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, giải quyết các
thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân. Đồng thời họ
tiếp nhận, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên, kịp thời
nắm bắt và tham mưu với các cấp để kịp thời điều chỉnh các chủ trương,
chính sách cho phù hợp, sát thực, hiệu quả.
- Công chức cấp xã được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có trình
độ, năng lực không đồng đều, mặt bằng chung còn khá thấp. Đặc biệt ở một
số địa phương vẫn còn không ít công chức cấp xã chưa đạt chuẩn về trình độ
đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đối với những công chức cao tuổi. Một
bộ phận công chức cấp xã ý thức chính trị, đạo đức công vụ còn hạn chế, chưa
thực sự tâm huyết với công việc, thiếu chủ động trong học tập, rèn luyện để
nâng cao trình độ, năng lực công tác, chưa thực sự lắng nghe và kịp thời giải
quyết các nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thậm chí có những biểu hiện
14
suy thoái về đạo đức công vụ, gây khó khăn, phiền hà cho người dân hoặc lợi
dụng hoạt động công vụ để trục lợi cá nhân, vi phạm pháp luật
- Tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá trong hoạt động thực thi công
vụ của công chức cấp xã chưa cao. Phần lớn công chức cấp xã là người sinh
sống tại địa phương nên có ưu điểm là am hiểu về văn hoá, phong tục, tập
quán và tâm lý, tình cảm của người dân, thuận lợi trong việc tổ chức, vận
động nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và các quy định của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, cũng
chính vì là người địa phương nên công chức cấp xã bị chi phối bởi nhiều mối
quan hệ tình cảm dòng tộc, "trong họ ngoài làng", tạo nên lối làm việc "duy
tình", chủ quan cá nhân, giải quyết công việc bằng kinh nghiệm, ảnh hưởng
đến hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ của chính quyền cơ sở. Ngược lại,
những công chức cấp xã không phải là người địa phương, ít bị chi phối bởi
các mối quan hệ tình cảm lại thiếu sự am hiểu về văn hoá, con người ở cơ sở.
Hơn nữa, do tư tưởng cục bộ, địa phương của CB,CC và nhân dân còn khá
phổ biến, nên không thực sự ủng hộ, hợp tác đối với những công chức cấp xã

là người địa phương khác.
Bên cạnh đó, việc bố trí, sử dụng công chức cấp xã cũng còn nhiều bất
hợp lý, không căn cứ vào trình độ, năng lực mà bị chi phối bởi yếu tố chủ
quan của cá nhân cán bộ lãnh đạo UBND cấp xã. Việc bố trí, sử dụng các
chức danh công chức cấp xã không đúng chuyên môn được đào tạo dẫn tới
những hạn chế về năng lực thực thi công vụ, lãng phí nguồn nhân lực, không
phát huy được năng lực chuyên môn của công chức, đồng thời gây tâm lý ức
chế khiến công chức cấp xã không muốn gắn bó với cơ sở và không thu hút
được nguồn nhân lực chất lượng cao về cơ sở làm việc.
- Công chức cấp xã là lực lượng mang tính “động”, thường xuyên có sự
thay đổi. Mặc dù đã thực hiện quy định về tiêu chuẩn cụ thể và nhiệm vụ của
15
từng chức danh công chức cấp xã, nhưng trên thực tế vị trí công việc của công
chức cấp xã thường thiếu ổn định so với công chức cấp huyện, cấp tỉnh do có
sự luân chuyển, điều động, bố trí lại nhiệm vụ, nhất là sau mỗi kỳ bầu cử.
Khác với cán bộ cấp xã, công chức cấp xã được tuyển dụng để thực thi công
vụ với chức trách, nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh nhưng họ cũng chính
là nguồn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở nên sau các kỳ bầu cử
thường có nhiều biến động, thay đổi.
- Công chức cấp xã phải thực hiện một khối lượng công việc rất lớn,
trên phạm vi rộng và phải kiêm nhiệm nhiều việc. Công chức cấp xã được đào
tạo ở một chuyên ngành nhất định nhưng khi thực thi công vụ ở cơ sở lại phải
thực hiện việc tham mưu quản lý và thực thi công vụ trên quy mô, phạm vi
rộng với nhiều lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau. Ví dụ chức danh công chức
địa chính- xây dựng vừa phải thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai, quy hoạch,
nhà ở và hạ tầng kỹ thuật, quản lý đô thị (ở phường, thị trấn) và quản lý nông
nghiệp (ở xã), quản lý bảo vệ môi trường, hoà giải tranh chấp, tiếp nhận đơn
thư khiếu nại, tố cáo về đất đai, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về
đất đai. Các chức danh công chức khác ở xã, phường, thị trấn cũng trong tình
trạng tương tự trong khi chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc còn nhiều hạn

chế. Chính những điều này đã tạo ra những áp lực rất lớn cho công chức cấp
xã, đồng thời dễ nẩy sinh tiêu cực, ảnh hưởng đến việc nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ công chức và chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thực thi
công vụ của chính quyền cơ sở.
- Công chức cấp xã là những người trực tiếp thực hiện và đảm bảo cho
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cấp xã
là cấp trực tiếp quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở và giải quyết nhiều vấn
đề liên quan đến người dân từ mặt pháp lý đến đời sống dân sinh, từ an ninh
trật tự, giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo. Điều này đòi hỏi công chức cấp
16
xã phải có sự am hiểu về pháp luật, về văn hoá, phong tục tập quán, tâm lý
nhân dân và đặc biệt là phải thực hiện tốt công tác dân vận, tổ chức tốt việc
hoà giải giải quyết các vụ việc ở cơ sở, không để các vụ việc kéo dài, vượt
cấp gây bức xúc trong nhân dân.
- Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã có nhiều điểm khác
biệt với công chức hành chính nhà nước.
+ Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã có tính đặc thù
nhất định vì vừa phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật, vừa
phải phù hợp với thực tiễn ở địa phương, đảm bảo hợp lý - hợp tình, phù hợp
giữa ý Đảng - lòng dân. Công chức cấp xã khi thực thi công vụ không những
chỉ căn cứ vào pháp luật và các quy định của cấp trên mà còn phải căn cứ vào
tình hình, điều kiện thực tế ở cơ sở. Do đối tượng tiếp xúc, làm việc của công
chức cấp xã rất đa dạng, phức tạp, nhiều thành phần lứa tuổi, trình độ nhận
thức hiểu biết khác nhau nên khi thực thi công vụ, công chức cấp xã không
thể cứng nhắc thực hiện một cách máy móc các quy định của pháp luật nhưng
cũng không thể làm trái các quy định của pháp luật, vi phạm các nguyên tắc
hoạt động công vụ. Do đó đòi hỏi công chức cấp xã phải có những “kỹ năng
mềm”, có “năng lực thực tiễn” để đủ sức xử lý được các tình huống phát sinh
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã ít mang tính lý

thuyết mà chủ yếu “mang tính thực hành”, đó là việc đưa các quy định pháp
luật vào trong thực tiễn, đồng thời kiểm nghiệm các chính sách, pháp luật có
phù hợp với thực tiễn ở cơ sở hay không. Thực thi công vụ đối với công chức
cấp xã là việc làm cụ thể, là công đoạn cuối cùng, đầu ra của các dịch vụ hành
chính công; người thực, việc thực, có kết quả đầu ra sản phẩm. Công chức cấp
xã là những người trực tiếp tham mưu cho chính quyền cơ sở quản lý hành
chính nhà nước và cung cấp các dịch vụ hành chính cho nhân dân. Do đó,
17
công chức cấp xã phải chịu khó suy nghĩ, tìm tòi những giải pháp thiết thực,
cụ thể để thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ
đạo của cấp trên vào việc quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở theo lĩnh vực
được phân công.
Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã cần phải có sự linh
hoạt cho phù hợp với thực tiễn ở cơ sở, nên năng lực thực thi công vụ của
công chức cấp xã cũng có những yêu cầu đặc trưng riêng đó là: Có khả năng
vận dụng những kiến thức và nguyên tắc vào thực tiễn công tác; có khả năng
tư duy độc lập trong thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả, đúng theo quy định
và sáng tạo để phù hợp với thực tiễn; có khả năng nhận diện, phát hiện vấn
đề; phân tích, đánh giá, xử lý thông tin nhanh nhậy, biết vận dụng đưa ra giải
pháp thích hợp, sáng tạo trong quá trình thực thi công vụ, vừa bảo đảm đúng
pháp luật, vừa phù hợp với thực tiễn phong phú của cơ sở.
+ Hoạt động thực thi công vụ của công chức cấp xã cũng có những
điểm khác biệt với cán bộ xã. Cán bộ xã được hình thành do bầu cử, hoạt
động công vụ của cán bộ xã mang tính chất chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo,
tuyên truyền, vận động nhân dân. Công chức cấp xã thực thi công vụ mang
tính quản lý hành chính nhà nước, trực tiếp thực thi pháp luật, đưa pháp luật
vào thực tiễn cuộc sống. Thực thi công vụ của công chức cấp xã bằng hành
động cụ thể và có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến quyền và lợi ích của người
dân ở cơ sở, được đánh giá theo những kết quả cụ thể và chịu sự giám sát
thường xuyên và trực tiếp của người dân.

Các đặc điểm của công chức cấp xã và tính đặc thù trong hoạt động
công vụ của công chức cấp xã có tác động nhất định đến xây dựng đội ngũ
công chức cấp xã ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã và chức trách,
nhiệm vụ của các chức danh công chức cấp xã
18
1.1.2.1.Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền cấp xã là chính quyền
cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể quản
lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng,
kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm bảo các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, nâng cao mọi mặt đời sống
của nhân dân. Sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của
chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước và cung cấp dịch vụ công phục vụ nhân dân.
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực
tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc,
nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND, thực hiện quyền lực
nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ
vào nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện
những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật
và các quyết định của chính quyền cấp trên. Trong đó:
- Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND cấp xã quyết định những chủ trương, biện
19
pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát
triển địa phương về kinh tế - xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối
với cả nước; thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND cấp xã, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công
dân ở địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã trong việc quyết định các vấn
đề quan trọng ở địa phương được quy định cụ thể từ Điều 29 đến Điều 35
Luật Tổ chức HĐND-UBND năm 2003.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã do HĐND cấp xã bầu ra, là cơ quan chấp hành
của HĐND cấp xã, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. UBND chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương,
biện pháp phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các chính sách khác trên địa
bàn. UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp
phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà
nước từ Trung ương tới cơ sở.
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong hoạt động quản lý các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương được quy định cụ thể từ Điều 113
đến Điều 118 Luật Tổ chức HĐND-UBND năm 2003.
1.1.2.2. Chức trách, nhiệm vụ của các chức danh công chức cấp xã
Thông tư số 06/2012/TT-BNV, ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã,
phường, thị trấn quy định chức trách của công chức cấp xã là làm công tác

chuyên môn thuộc biên chế của UBND cấp xã, có trách nhiệm tham mưu,
giúp UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công
20

×