Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển dạy nghề và hệ thống các trường nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
Lấ THỊ PHƯƠNG DUNG
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN DẠY NGHỀ VÀ HỆ THỐNG
CÁC TRƯỜNG NGHỀ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 60.34.05
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Đỗ Minh Cương
HÀ NỘI, 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tụi. Cỏc số liệu kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ
Lê Thị Phương Dung
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐN : Cao đẳng nghề
TCN : Trung cấp nghề
CNH, HĐN : Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
XHH : Xã hội hóa
CNKT : Công nhân kỹ thuật
CĐKT : Cao đẳng kỹ thuật
TTDN : Trung tâm dạy nghề
TTLĐ : Thị trường lao động
ĐH : Đại học
CĐ : Cao đẳng
TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
CSDN : Cơ sở dạy nghề


KCN, KCX : Khu công nghiệp, Khu chế xuất
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
PPP : Sức mua tương đương (Purchasing Power Parity)
CTMT : Chương trình mục tiêu
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HèNH, BẢNG BIỂU
Sơ đồ:
Hình:
Hình 4: Quy mô tuyển sinh học nghề qua các năm 51
Hình 5: Tỷ lệ giáo viên dạy nghề theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ 53
Hình 6: Dự báo cơ cấu lao động năm 2020 71
Hình 7: Dự báo cơ cấu đào tạo nghề đến năm 2020 72
Hình 8: Dự báo tỷ lệ lao động qua ĐTN qua các năm 76
Hình 9: Kế hoạch tuyển sinh dạy nghề đến năm 2020 76
Bảng biểu:
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, cùng
với quá trình đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dạy nghề đã được
phục hồi, từng bước được đổi mới và phát triển: quy mô dạy nghề được mở
rộng, chất lượng dạy nghề được nâng cao, đa dạng hóa các loại hình, hình
thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu cấp trình độ đào tạo, đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy
nghề được chú trọng, đa dạng hóa và tăng cường nguồn lực dành cho dạy
nghề, chất lượng dạy nghề đã chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng được
yêu cầu đội ngũ lao động qua đào tạo nghề phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội và xuất khẩu lao động.
Những kết quả đã đạt được ở trên còn hạn chế, vì vậy dạy nghề cũng còn
một số yếu kém là: cơ cấu ngành nghề, cơ cấu cấp trình độ đào tạo còn chưa
phù hợp với cơ cấu trình độ lao động trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
chương trình và phương pháp đào tạo còn chậm đổi mới, đội ngũ giáo viên
còn thiếu về số lượng và còn yếu về chất lượng, cơ sở vật chất, trang thiết bị

còn thiếu về số lượng và lạc hậu về công nghệ; xã hội hóa dạy nghề còn
chậm, thiếu đồng bộ; cơ chế, chính sách về dạy nghề chậm được đổi mới;
nguồn lực đầu tư còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh,
bền vững.
Chính vì vậy, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X đã đề ra chủ trương phát triển dạy nghề trong giai đoạn
2006 - 2010 như sau: “Phỏt triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng
nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công
nghiệp, cỏc vựng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng
lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận huyện. Tạo chuyển
- 1 -
biến căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu
vực và trên thế giới”.
Kết luận số 242 - TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ chính trị về
việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.Ư 2 (khóa VIII) phương hướng phát triển
giáo dục và đào tạo đến năm 2020: “Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp
giáo dục và đào tạo nước ta phải đổi mới căn bản, toàn diện và mạnh mẽ”.
“Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, kể cả những nghề thuộc lĩnh vực công
nghệ cao. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề
quận huyện”. “Chỳ trọng xây dựng một số trường dạy nghề đạt chuẩn khu
vực và quốc tế. Tăng nhanh quy mô công nhân và cán bộ kĩ thuật lành nghề ở
những khu vực công nghệ cao, tiếp cận trình độ tiên tiến thế giới”.
Nghị Quyết của Quốc hội số 35/2009/NQ-QH12 ngày 19 tháng 06 năm
2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo
dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015: Nhà nước
đảm bảo vai trò đầu tư chủ yếu cho giáo dục và đào tạo; hỗ trợ các cơ sở giáo
dục và đào tạo ngoài công lập đào tạo nâng cao trình độ giáo viên và cán bộ
quản lý; ưu tiên ngân sách cho giáo dục dạy nghề.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển dạy nghề. Luật Giáo dục

năm 2005, quy định dạy nghề có ba trình độ đào tạo (sơ cấp nghề, trung cấp
nghề, cao đẳng nghề): Luật dạy nghề - năm 2006 đã xác định chính sách đầu tư
của Nhà nước về phát triển dạy nghề: “Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đổi
mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo
viên, hiện đại hóa thiết bị, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất
lượng dạy nghề; tập trung xây dựng một số cơ sở dạy nghề tiếp cận với trình độ
tiên tiến của khu vực và trên thế giới; chú trọng phát triển dạy nghề ở cỏc vựng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đầu tư đào tạo các nghề thị
trường lao động có nhu cầu, nhưng khó thực hiện xã hội húa…”
- 2 -
Thực hiện chủ trương trên của Đảng và Nhà nước, để từng bước khắc phục
những hạn chế hiện nay của dạy nghề đòi hỏi phải nghiên cứu đề tài: “Những
nội dung cơ bản của chiến lược phát triển dạy nghề và hệ thống các trường
nghề”. Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó sẽ là cơ sở để
xây dựng chiến lược dạy nghề và hệ thống các trường CĐN, TCN góp phần phát
triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp, góp phần quan trọng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm2020.
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu luận cứ khoa học và đề xuất được nội dung cơ bản dạy nghề,
quy hoạch hệ thống mạng lưới trường nghề bảo đảm cân đối giữa nhu cầu lao
động với khả năng đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu lao động có kĩ thuật của nền
kinh tế cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề của thị
trường lao động theo ngành, vùng và xuất khẩu lao động đến năm 2020.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI
1. Đối tượng nghiên cứu:
- Chính sách pháp luật về dạy nghề; chiến lược phát triển kinh tế xã
hội; chiến lược giáo dục đào tạo và dạy nghề;
- Hệ thống dạy nghề, quy hoạch mạng lưới trường nghề, trung tâm

dạy nghề thuộc các thành phần kinh tế gồm: các trung tâm dạy nghề, trường
trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề;
- Hệ thống dạy nghề của một số nước trong khu vực và trên thế giới;
2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu, khảo sát tại một số trung tâm dạy nghề, trường trung cấp nghề,
cao đẳng nghề thuộc các Bộ, ngành và địa phương trên phạm vi toàn quốc.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chương trình gồm những nội dung sau:
- 3 -
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược và hệ
thống các cơ sở dạy nghề: Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan hoặc tác
động (vị trí vai trò, khái niệm cơ bản, các nhân tố tác động và kinh nghiệm
của một số nước trên thế giới) đến chiến lược dạy nghề và quy hoạch mạng
lưới cơ sở dạy nghề.
Chương 2: Thực trạng dạy nghề và hệ thống các trường dạy nghề
trên phạm vi toàn quốc giai đoạn 2001 - 2010: Đánh giá thực trạng chính
sách pháp luật về dạy nghề, đánh giá thực hiện chiến lược và thực hiện quy
hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề.
Chương 3: Nội dung cơ bản của chiến lược và quy hoạch hệ thống
các cơ sở dạy nghề: Bối cảnh Quốc tế và của Việt Nam, Dự báo nhu cầu lao
động qua đào tạo nghề, Quan điểm, Mục tiêu, Nhiệm vụ, Giải pháp phát triển
và tổ chức thực hiện chiến lược và quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát, thu thập
thông tin và lấy số liệu về dạy nghề để hoàn thiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thành đề tài./.
- 4 -
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
VÀ HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG NGHỀ

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC DẠY NGHỀ VÀ
HỆ THỐNG CÁC CƠ SỞ DẠY NGHỀ
1.1.Vị trí, vai trò của dạy nghề trong chiến lược phát triển nguồn nhân
lực và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia
Ngày nay, hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều coi nhân tố con người,
nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, có vai trò quyết
định nhất đến sự phát triển nhanh và bền vững của một quốc gia. Các nhà
kinh tế đã khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động
giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, công tác an sinh xã hội là đầu tư có
hiệu quả nhất, quyết định đến khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững của đất nước. Nhờ có ưu tiên đầu tư cho giáo dục để phát triển nguồn
nhân lực mà nhiều nước trên thế giới chỉ trong thời gian ngắn đã nhanh chóng
trở thành nước phát triển, điển hình là các nước Hàn Quốc, Singapore…
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Phỏt triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững”. Phát triển giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu.
Mục tiêu của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nói chung là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, đạo đức, tri thức, sức khỏe,
tác phong công nghiệp, thể chất, thẩm mỹ, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của người công dân đáp ứng yêu cầu của sự
- 5 -
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dạy nghề là một bộ phận của hệ thống
giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật trực
tiếp trong sản xuất và dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương ứng với cấp
độ đào tạo, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và có thể tiếp tục học bổ sung, nâng cấp trình độ lên cao nếu có nhu
cầu và điều kiện. Hiện nay, lao động kỹ thuật của Việt Nam đang mất cân đối
nghiêm trọng về cơ cấu lao động ở cả ngành nghề và trình độ đào tạo trong

các ngành, vùng kinh tế, các khu vực. Trong khi lao động phổ thông dư thừa
rất lớn nhưng lao động kỹ thuật lại thiếu trầm trọng, nhất là lao động kỹ thuật
trình độ cao cho một số ngành như: công nghiệp chế tác, tin học, viễn thông,
công nghiệp chế biến nụng, lõm thủy sản, lao động kỹ thuật cho xuất khẩu.
Theo quyết định 579/QĐ-TTg năm 2011 về phê duyệt Chiến lược phát
triển nhân lực Việt Nam thời kì 2011-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban
hành: “Mục tiêu tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kì 2011-2020 là
đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát
triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ
năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên
tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển
trên thế giới.”
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, để tăng trưởng nền kinh tế bền
vững, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả và an toàn trong bối cảnh nền kinh tế
thế giới đầy biến động, nhiệm vụ của dạy nghề là phải xây dựng và phát triển
đội nhũ lao động có chất lượng, cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền đáp
ứng mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi toàn quốc
lẫn từng ngành, vùng kinh tế, địa phương; đồng thời cần tăng khả năng cạnh
tranh của lao động Việt Nam với lao động nước ngoài không những ở thị
trường lao động thế giới mà còn ngay ở thị trường lao động trong nước. Với
- 6 -
tốc độ phát triển nhanh và không ngừng của khoa học công nghệ, việc sử
dụng ngày càng nhiều công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, nhiều ngành nghề mới
xuất hiện trong thực tế xã hội, vì vậy cần có các hình thức, nội dung dạy nghề
phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội để thường xuyên bổ
xung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có đủ năng lực thích ứng với
những thay đổi nhanh chóng trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
1.2. Mối quan hệ của dạy nghề với việc làm, thu thập và giải quyết các
vấn đề xã hội trong nước và hội nhập quốc tế
Mục tiêu hàng đầu của công tác dạy nghề là đào tạo, bồi dưỡng năng lực

nghề nghiệp của từng người học, người lao động cho phù hợp với yêu cầu của
thị trường lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo điều
kiện cho người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm. Trong quá trình
học nghề, người lao động được học để hình thành những kiến thức, kỹ năng
và thái độ lao động nghề nhiệp cần thiết cho việc thực hiện thành công quá
trình lao động thực tế.
Với quan điểm: chuyển dần dạy nghề từ đào tạo theo năng lực sẵn có của
cơ sở dạy nghề sang dạy nghề theo dạy nghề theo nhu cầu của thị trường lao
động và xã hội, lấy nhu cầu của các ngành kinh tế, của doanh nghiệp làm mục
tiêu đào tạo, dạy nghề gắn với việc làm đã tạo điều kiện cho người học nghề
có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Hệ thống dạy nghề hiện nay tương đối đa
dạng, nội dung và hình thức đào tạo nghề tương đối linh hoạt đã tạo điều kiện
cho người học có cơ hội được nâng cao năng lực nghề nghiệp, thích ứng với
sự thay đổi nhanh chóng trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống, tăng thu nhập bền vững.
Dạy nghề đã tham gia vào các công tác xã hội như: góp phần tích cực
trong chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nụng, lõm, ngư nghiệp sang công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
- 7 -
đất nước; thực hiện nhiệm vụ phân luồng học sinh phổ thông, làm giảm chi
phí đào tạo, bớt gánh nặng cho xã hội; dạy nghề cho các phạm nhân, đối tượng
ma túy, người chưa thành niên phạm tội để họ có khả năng kiếm sống bằng con
đường làm ăn chân chính, góp phần phòng ngừa, hạn chế các tệ nạn xã hội, các
vụ án vi phạm pháp luật, ổn định an ninh, trật tự xã hội; dạy nghề cho người đi
xuất khẩu lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần mang lại
nguồn ngoại tệ đáng kể cho gia đình người lao động và đất nước.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp, các ngành, sự
nỗ lực cố gắng của cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và sự thay đổi về
nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, sự nghiệp dạy nghề đó cú
sự chuyển biến tích cực, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Với quan điểm phát triển dạy nghề theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, từng bước tiếp cận với trình độ tiên tiến của các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới để tạo bước đột phá về chất lượng dạy
nghề, hi vọng Việt Nam có thể xuất khẩu hoạt động đào tạo nghề ra thế giới.
1.3. Những khái niệm cốt lõi, mục tiêu, yêu cầu, đặc điểm cơ bản của
chiến lược dạy nghề và hệ thống các cơ sở dạy nghề
Trong quá trình xây dựng chiến lược dạy nghề, việc tính toán quy mô
dạy nghề theo trình độ, ngành nghề đào tạo, quy hoạch mạng lưới dạy nghề
được dựa trên các khái niệm: nguồn nhân lực, lao động qua đào tạo. Vì vậy để
có cơ sở xây dựng chiến lược dạy nghề phù hợp với mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước cần làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm cốt lõi sau:
1.3.1. Một số khái niệm cốt lõi:
1.3.1.1. Nguồn nhân lực
Trước đây, thuật ngữ sức lao động, nguồn lao động thường được sử dụng
trongiới nghiên cứu và quản lý. Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thuật
ngữ nguồn nhân lực được dùng chính thức, phổ biến và đã được nhận thức
cao hơn, hoàn thiện về vị trí, vai trò của con người trong quá trình phát triển.
- 8 -
Có thể hiểu nguồn nhân lực (nguồn lao động) là tổng thể những phẩm chất và
năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để
tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng, vùng lãnh thổ,
quốc gia trong những thời kì nhất định.
Theo Luật Lao động của Việt Nam (năm 1994) quy định: nguồn nhân lực
(nguồn lao động) là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60
tuổi; nữ từ 15-55 tuổi) có khả năng lao dộng, bao gồm những người đang có việc
làm hoặc chưa có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc (lực lượng lao động) và
những người đang đi học, nội trợ, không có nhu cầu làm việc và tình trạng khác;
trong đó bộ phận quan trọng nhất là lực lượng lao động.
1.3.1.2. Lao động qua đào tạo nghề
Lao động qua đào tạo là một thuật ngữ mới được sử dụng rộng rãi ở

nước ta trong những năm gần đây. Lao động qua đào tạo là lao động được đào
tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, được cấp văn bằng, chứng
chỉ về cấp bậc, loại nghề đào tạo với kết quả là được trang bị các kiến thức lý
thuyết cơ bản và có kỹ năng thực hành về một nghề (hoặc công việc) nhất
định phù hợp với yêu cầu của cấp bậc đào tạo và nghề nghiệp (công việc).
Lao động qua đào tạo là kết quả của hoạt động giáo dục - đào tạo nhằm
trang bị cho người được đào tạo những kiến thức cơ bản về kỹ năng nghề
nghiệp ở các trình độ khác nhau cùng với đạo đức, lương tâm và ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần hợp tác và tác phong làm việc để thực hiện những công
việc theo yêu cầu kỹ thuật nhất định.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, lao động qua đào tạo được phân
thành 4 nhúm chớnh: lao động kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ (lao động qua đào tạo nghề), lao động có bằng trung cấp chuyên
nghiệp, lao động có bằng cao đẳng, đại học, lao động có bằng sau đại học.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong tổng số lao động làm việc:
Tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề trong tổng số lao
= Số lao động qua đào tạo nghề
đang làm việc
*100
- 9 -
động làm việc (%)
Tổng số LĐ làm việc trong nền
kinh tế
Số lao động qua đào tạo nghề được thống kê phân thành 3 cấp trình độ:
trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề. Ngoài ra cũn cú lao
động có qua đào tạo nghề thường xuyên dưới 3 tháng có thể được hoặc không
được cấp chứng chỉ nghề. Để thống nhất trong quá trình tính toán lao động
qua đào tạo nghề, số lao động qua lớp đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề
được người đứng đầu cơ sở dạy nghề cấp văn bằng chứng chỉ nghề (quy định

tại Điều 15 của Luật Dạy Nghề) thì được thống kê trong số lao động qua đào
tạo nghề.
1.3.1.3. Nghề đào tạo
Nghề đào tạo có thể trùng với một nghề xã hội hoặc do nhiều nghề xã
hội hợp thành, có nội dung chuyên môn là khối lượng kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo và phẩm chất cần phải đào tạo trong một thời gian nhất định. Tương ứng
với mỗi nghề đào tạo có một mục tiêu đào tạo. Hệ thống (cơ cấu) mục tiêu
giáo dục nghề nghiệp phân hóa theo chiều ngang được thể hiện ở “bản danh
mục nghề đào tạo” do Nhà nước ban hành, đó là một văn bản pháp quy đối
với công tác đào tạo nghề.
1.3.1.4. Nghề trọng điểm
Nghề trọng điểm là nghề được lựa chọn để được đầu tư đồng bộ về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình dạy nghề để
có chất lượng đào tạo đạt trình độ chuẩn quốc gia, khu vực và trên thế giới.
Tiêu chí và quy trình lựa chọn các nghề trọng điểm được đảm bảo công khai,
minh bạch, dân chủ, đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao cho các ngành
kinh tế mũi nhọn, cỏc vựng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, tiểu
vùng. Tùy thuộc vào yêu cầu về trình độ đào tạo ở cấp quốc gia, khu vực hay
trên thế giới để xác định mức đầu tư phù hợp.
1.3.1.5. Dạy nghề (đào tạo nghề)
- 10 -
Dạy nghề là việc trang bị cho người lao động (người học nghề) những
hiểu biết về chuyên môn kỹ thuật, những kỹ năng kỹ xảo, cách thức tổ chức
và thái độ cần thiết trong hoạt động lao động của nghề (có thể là một, một số
hoặc toàn bộ các hoạt động lao động của nghề tùy theo mục tiêu đào tạo) để
người lao động có thể làm việc (hành nghề) một cách có chất lượng và hiệu
quả. Nói cách khác - dạy nghề phải được tiến hành một cách khoa học, theo
bài bản, đảm bảo tính hệ thống, hợp lý và toàn diện trên cả 3 phương diện
kiến thức, kỹ năng kỹ xảo và thái độ đối với bất cứ một hoạt động lao động
nào của nghề.

1.3.1.6. Cấp trình độ đào tạo nghề
Từ năm 1990 đến nay, kỹ thuật, công nghệ mới được áp dụng vào trong
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát triển rất nhanh, đặc biệt là công nghệ thông
tin và công nghệ Nano, sự thay đổi của công nghệ đã dẫn đến nhu cầu nhân
lực trong sản xuất có sự thay đổi lớn, các nhà đầu tư luôn hướng tới các công
nghệ cao để tăng sức cạnh tranh về số lượng, chất lượng và giá cả sản phẩm.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thì điều này càng được thể hiện rõ nét, nghĩa
là xu hướng phổ biến trên thế giới tập trung đầu tư theo mô hình sử dụng công
nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động và đòi hỏi lao động có chất lượng ngày
càng cao, tăng đầu tư vào thiết bị máy móc (Capital intensive).
- 11 -
Mô hình nhân lực thay đổi theo hướng:
Kỹ sư thực hành
Kỹ thuật viên trình độ cao
Công nhân kỹ thuật
Công nhân trình độ sơ cấp
Sơ đồ 1.1. Mô hình nhân lực
Theo mô hình này, số lao động có trình độ đại học ngày càng nhiều lên,
nhu cầu về công nhân lành nghề trình độ cao tăng mạnh và công nhân trình độ
trung cấp nghề giảm đi đáng kể so với năm trước đây.
Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp Đổi mới, đặc biệt trong 5 năm qua
đất nước ta thực hiện công cuộc đẩy mạnh CNH-HĐH, nền kinh tế của nước
ta đã duy trì phát triển với tốc độ cao. Một trong những yếu tố tạo nên sự phát
triển đó là việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến vào trong sản xuất.
Nhiều công nghệ tiên tiến, nhiều máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện
đại (các thiết bị tự động làm việc với sự trợ giúp của máy tính) đã được đưa
vào sử dụng trong sản xuất. Để áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, vận
hành các máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại đó đòi hỏi phải có một đội ngũ
công nhân kỹ thuật áo trắng, đội ngũ lao động trực tiếp có tri thức có trình độ
kiến thức cao đẳng, đại học vừa có trình độ kỹ năng nghề thành thạo, đó là

những người đã qua đào tạo cỏc khúa cao đẳng nghề, đại học công nghệ thực
hành. Hay nói cách khác, thực tiễn yêu cầu phải có một đội ngũ công nhân kỹ
thuật mới trình độ cao đẳng, đại học theo hướng thực hành.
Mặt khác, kinh nghiệm của các nước cho thấy họ đã hình thành 2 hệ
thống hàn lâm và thực hành và đều tổ chức học liên thông lên đại học và các
trình độ cao hơn để tạo điều kiện cho người học được học tập suốt đời. Tuy
nhiên, có điểm đáng lưu ý là một số nước cú cỏc cấp học ở trình độ đại học và
- 12 -
trên đại học cho hệ đào tạo theo hướng công nghệ thực hành. Vì vậy hệ đào
tạo theo hướng công nghệ thực hành cần có thêm một cấp học nữa, đó là đại
học công nghệ thực hành.
Thực tiễn trong nước và kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống đào tạo
nghề của Việt Nam được triển khai đào tạo theo 3 cấp trình độ là sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề theo Luật Giáo dục năm 2005 chưa đáp ứng
được nhu cầu lao động trực tiếp có trình độ cao trong quá trình CNH, HĐH
đất nước và phát triển của nền kinh tế, nhất là khi nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Vì vậy, trong thập kỷ tới, chúng ta phải hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề
theo hướng thực hành, bổ sung cấp trình độ đào tạo đại học thực hành (đào
tạo ra đội ngũ kỹ sư thực hành), nhằm đảm bảo tỷ lệ đào tạo giữa các cấp
trình độ phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và
sự thay đổi của kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất, phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy
nhanh quá trình hội nhập trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Cấp trình độ đào tạo nghề là một trong những nội dung quan trọng
trong hệ thống dạy nghề,nú quyết định đến việc xây dựng mục tiêu chương
trình đào tạo nghề, cũng như việc cấp văn bằng chứng chỉ đào tạo nghề thống
nhất của quốc gia. Xác định đúng đắn cấp trình độ đào tạo nghề không chỉ
góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng dạy nghề mà còn gắn đào tạo

nghề với yêu cầu của kỹ thuật trong sản xuất - kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động.
Cấp trình độ đào tạo nghề là việc xác định các trình độ nghề cần được
đào tạo ở mức nào, nó bao gồm mức độ phức tạp của lao động và năng lực
thực hiện nghề nghiệp. Cấp trình độ đào tạo nghề đó là sự phân hóa mục tiêu
- 13 -
đào tạo theo chiều sâu. Các cấp trình độ đào tạo nghề được sắp xếp từ đơn
giản đến phức tạp, sự sắp xếp thành hệ thống đó hình thành nên cấp trình độ
đào tạo nghề.
Mục tiêu đào tạo của cấp trình độ đào tạo thực hành là:
- Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng lực
thực hành của một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc
của một nghề, có thái độ nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học nghề sau
khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên
trình độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học kiến thức
chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề sau khi tốt
nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình
độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ cao dẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo,
ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết các tình huống phức
tạp trong thực tế; có thái độ nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học nghề
sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học
lên trình độ cao hơn.
- Dạy nghề trình độ đại học nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức
chuyên môn cơ bản của nhóm nghề, chuyên môn sâu của một nghề và năng
lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và tổ
chức làm việc theo tổ đội hay dây chuyền sản xuất hiện đại; có khả năng ứng

dụng kỹ thuật, công nghiệp mới vào công việc, có khả năng tổng hợp, sáng
tạo, cải tiến kỹ thuật công nghẹ ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh; giải
quyết được các tình huống phức tạp trong thực tế mang tính tổng hợp; có thái
- 14 -
độ nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả
năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
Việc hình thành bốn cấp trình độ đào tạo nhằm đảm bảo về đội ngũ
nguồn nhân lực lao động kỹ thuật, nghiệp vụ trực tiếp trong sản xuất, kinh
doanh dịch vụ theo hệ thống mục tiêu giáo dục nghề nghiệp nhất định: là cơ
sở để đổi mới căn bản Hệ thống giáo dục quốc dân trên cơ sở hình thành hai
luồng đào tạo là “Hàn lõm” và “Thực hành” đáp ứng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực của quốc gia, phù hợp với cơ cấu tổ chức sản xuất, thay đổi
của kỹ thuật, công nghệ mới, tạo sự liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.1.7. Hệ thống cơ sở đào tạo nghề
Hệ thống giáo dục quốc dân đã được công bố trong Luật Giáo dục năm
2005, trong đó có hệ Giáo dục nghề nghiệp. Dạy nghề là một phần của hệ thống
giáo dục nghề nghiệp trong khung cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân.
Cơ sở đào tạo nghề là một cơ sở có đủ các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ
thuật, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên theo quy định đăng ký, thường xuyên
thực hiện việc đào tạo nghề cho người lao động theo mục tiêu, chương trình
đã được xác định tương ứng với trình độ nghề mà thực tiễn yêu cầu của một
hoặc một số nghề nào đó (tên nghề theo danh mục nghề đào tạo).
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề là tập hợp của các cơ sở làm nhiệm vụ
đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về cơ cấu ngành nghề, cả về cơ
cấu trình độ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và được Nhà nước
thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương.
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề có thể được xác lập để đáp ứng yêu cầu
của một ngành kinh tế, một vùng kinh tế, một địa phương (tỉnh, thành phố);

một khu vực hoặc trên phạm vi toàn quốc.
Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề bao gồm các trung tâm dạy nghề,
trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề, các trường đại học, cao đẳng,
- 15 -
trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề và các cơ sở dạy nghề khác. Đào tạo
nghề là hệ thống chính trong việc cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Hệ thống cơ sở đào tạo nghề được nhà nước phân cấp quản lý cho các
Bộ ngành và Địa phương, vì vậy hệ thống các cơ sở đào tạo nghề được phân
theo cấp quản lý; đồng thời hệ thống cũng được phân theo vùng, ngành. Hệ
thống cơ sở đào tạo nghề còn được phân theo hình thức sở hữu gồm cơ sở dạy
nghề công lập, tư thục và cơ sở kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhà nước quản lý hệ thống các cơ sở đào tạo nghề thông qua các công
cụ quản lý như: Quy hoạch hệ thống dạy nghề (bao gồm số lượng cơ sở, phân
bố các cơ sở theo ngành, vùng, theo cấp quản lý; số lượng đào tạo; ngành
nghề đào tạo); quản lý chất lượng của hệ thống trên cơ sở chương trình
khung, chương trình, giáo trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc
dạy và học, chất lượng giáo viên giảng dạy, kiểm tra đánh giá chất lượng dạy
nghề và hệ thống kiểm định chất lượng dạy nghề.
1.3.2. Chiến lược và xây dựng chiến lược dạy nghề
Theo kinh nghiệm của các nước và thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc
xây dựng một chiến lược phát triển phù hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn,
có khả năng phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong,
đồng thời tranh thủ các cơ hội và ứng phó kịp thời với các nguy cơ, thách
thức của môi trường bên ngoài. Việc xây dựng chiến lược phát triển là nhiệm
vụ cốt yếu của công tác quản lý một ngành, một lĩnh vực.
Chiến lược là định hướng dài hạn; là quyết định về những lựa chọn tầm
chiến lược; là kết quả của quá trình chắt lọc từ những lựa chọn tầm chiến lược
thông qua quá trình đàm phán cân đối những lợi ích, một quá trình tương tác
đa chiều.

Chiến lược là một tập hợp các chuỗi hoạt động được xây dựng nhằm tạo
ra lợi thế cạnh tranh bền vững (McKinsey, 1978).
- 16 -
Chiến lược không chỉ là một kế hoạch, cũng không chỉ là một ý tưởng
mà còn là một triết lý sống (A. Montgomery).
Chiến lược sẽ trả lời những câu hỏi sau: Chiến lược giải quyết vấn đề gì?
(v.d. mục tiêu và can thiệp chiến lược): giải quyết như thế nào? (v.d. vấn đề
quản lý và phương pháp), cho đối tượng nào? cơ chế thực hiện và hợp tác như
thế nào? Một Chiến lược cần được rà soát định kỳ và có thể cần thay đổi
hay chỉnh sửa phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế.
Thực hiện mục tiêu của chiến lược được khái quát bằng sơ đồ sau:

- 17 -
Khung hướng dẫn
để đạt được tầm
nhìn
Lập kế hoạch thực
hiện chiến lược
Thực thi chiến lược
realization
Triển khai chiến lược
Chiến thuật/kế hoạch
thực hiện
Chiến lược
Mục tiêu tổng quan dài hạn
Hiện
thực
hóa
tầm
nhìn

Tầm nhìn
tương lai
Xây dựng chiến lược là đưa ra phương hướng nhằm
đạt được mục tiêu dài hạn
Sơ đồ 1.2. Mục tiêu của chiến lược
Chiến lược dạy nghề là những triết lý, những định hướng xuyên suốt về
phát triển dạy nghề cho một thời kỳ; trên cơ sở đó đề ra, xây dựng các chương
trình, kế hoạch hoạt động nhằm phát triển dạy nghề bền vững.
Chiến lược dạy nghề là một phần trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực và chiến lược giáo dục - đào tạo của
quốc gia. Do đó để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nền tảng hình thành một nước công nghiệp
hiện đại vào năm 2020 thì chiến lược dạy nghề phải đảm bảo được các yếu tố
sau:
- Thứ nhất, chiến lược không chỉ là bản kế hoạch mà phải thể hiện được
tầm nhìn xuyên suốt một giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển của các ngành kinh tế.
- Thứ hai, những nội dung chiến lược phải mang tính tổng thể, nhưng có
ưu tiên phát triển trọng tâm cho từng giai đoạn, nhiệm vụ, nhóm đối tượng…
- Thứ ba, chiến lược dạy nghề phải huy động được sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp dạy nghề.
- Thứ tư, dạy nghề từng bước chuyển sang hướng mô hình giáo dục mở,
mô hình giáo dục suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông với hệ thống giáo dục
quốc dân; đa dạng các hình thức, phương thức đào tạo đáp ứng với yêu cầu
của mọi đối tượng người học và đảm bảo công bằng xã hội.
- Thứ năm, chiến lược dạy nghề phải mang tính hội nhập quốc tế cao.
Xây dựng chiến lược là đưa ra phương hướng nhằm đạt được mục tiêu
dài hạn. Về lý thuyết, có thể đưa ra nhiều kịch bản về chiến lược phát triển
dạy nghề. Theo phương pháp truyền thống thường chỉ giới hạn vào cách nhìn
cổ điển, coi tương lai dạy nghề là sự kéo dài, ngoại suy của quá khứ dạy nghề,

- 18 -
theo phương pháp kịch bản mới thì tương lai của dạy nghề có thể là sự phát
triển dạy nghề theo kiểu phân nhánh, dứt đoạn hoặc nhảy vọt.
Với phương pháp kịch bản mới kết hợp cả logic và trí tưởng tượng để
đưa ra “bức tranh” tương lai khả dĩ của dạy nghề. Tuy nhiên, trong dạy nghề
có rất nhiều tham biến khác nhau, có ảnh hưởng đến sự phát triển dạy nghề.
Vì vậy, quá trình xây dựng kịch bản phải đảm bảo tính tương thích và nhất
quán, đồng thời cũng cần tìm ra những cơ chế, chính sách, những giải pháp và
nhiệm vụ cơ bản có tính khả thi cao để thực hiện.
Để tìm kiếm bức tranh tương lai cho dạy nghề Việt Nam, cần tìm hiểu
các đặc trưng chủ yếu liên quan đến dạy nghề trên cơ sở phân tích SWOT:
- Cơ hội: Đất nước Việt Nam đang có vị thế mới trên trường quốc tế,
tăng trưởng kinh tế tương đối cao, hội nhập kinh tế quốc tế vững chắc, dạy
nghề Việt Nam đứng trước đòi hỏi phát triển về quy mô, cơ cấu nghề, cơ cấu
trình độ và chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật trực tiếp.
- Thách thức: Việt Nam hiện vẫn là nước có thu nhập thấp, trình độ kinh
tế lạc hậu, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, phân tầng xã hội và chênh lệch
vùng miền chưa thu hẹp, trình độ nhân công chưa cao, nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế kéo theo nguy cơ tụt hậu xa hơn về giáo dục nói chung và dạy nghề
nói riêng.
- Điểm mạnh: Trong những năm vừa qua, dạy nghề đã phục hồi sau một
thời gian suy giảm, với hệ thống quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách
phù hợp, hệ thống dạy nghề phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng
được một phần nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
- Điểm yếu: Môi trường pháp lý về dạy nghề chưa được hoàn chỉnh, đầu
tư cho dạy nghề chưa cao, công tác quản lý dạy nghề chưa theo kịp với sự
- 19 -
phát triển của thực tiễn hội nhập quốc tế về giáo dục nói chung, dạy nghề nói
riêng, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn yếu.

Việc nghiên cứu chiến lược dạy nghề cần phải xem xét các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển dạy nghề, đến quy mô và chất lượng của dạy nghề như:
mạng lưới cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề,
chương trình, giáo trình dạy nghề, cơ sở vật chất, thiết bị cho dạy nghề, các
điều kiện khác đảm bảo chất lượng dạy nghề (hệ thống kiểm định chất lượng,
hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia).
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả của chiến
lược dạy nghề là quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề. Việc quy hoạch mạng
lưới cơ sở dạy nghề giúp cho việc phát tiển đào tạo các nghề chuyờn sõu,
nghề diện rộng, nghề phổ biến ở các cấp trình độ khác nhau hoặc đào tạo một
số nghề ở trình độ tiên tiến của khu vực, thế giới, đáp ứng với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Quy trình xây dựng chiến lược dạy nghề được khái quát như sau:
QUÁ TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH TỔNG QUAN
- 20 -
Tầm nhìn/mục tiêu dài hạn
Môi trường bên
ngoài:
- Các yếu tố khung
- Xu thế
- Các chính sách và
chiến lược khác
Môi trường bên
trong:
- Những kinh
nghiệm
- Nguồn lực
- Uy tín
- Lịch sử
Điểm mạnh và điểm

yếu: Xác định các
năng lực chủ đạo
Tiềm năng và rủi ro:
Xác định những yếu tố
thành công chủ chốt
Đánh giá phân tích Rủi ro
và Tiềm năng

×