LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu sơ đồ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTW : Ngân hàng Trung ương
KH : Khách hàng
BIDV : Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Techcombank : Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam
ACB : Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
VBARD : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Vietcombank : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Sacombank : Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín
MB : Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Eximbank : Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu
MSB : Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải
TS : Tài sản
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Danh mục bảng
!"
!"
#$ !%&'()*+
#$ !%&'()*+
,-./01234,/5$6'7 !8++9:++*;
,;.01234,/3<4 !8++9:++*=
,=./01234,/5$68 !8++9:++*9
,9>?4@A1'/B5++*"
;
,",4CDE% !;
F3$B(7G3<'33?56';"
8++9:++;"
%$HI?7<4575JKL9=
%$I'8/JBK,72M3?/4J&FK#'3G4
7N9=
%$KI,&99
%$I/,4/4O/99
%$B5IPPPKK673<JQ99
Danh mục biểu đồ
!"
!"
#$ !%&'()*+
#$ !%&'()*+
,-./01234,/5$6'7 !8++9:++*;
,-./01234,/5$6'7 !8++9:++*;
,;.01234,/3<4 !8++9:++*=
,;.01234,/3<4 !8++9:++*=
,=./01234,/5$68 !8++9:++*9
,=./01234,/5$68 !8++9:++*9
,9>?4@A1'/B5++*"
,9>?4@A1'/B5++*"
;
;
,",4CDE% !;
,",4CDE% !;
F3$B(7G3<'33?56';"
F3$B(7G3<'33?56';"
8++9:++;"
8++9:++;"
%$HI?7<4575JKL9=
%$I'8/JBK,72M3?/4J&FK#'3G4
7N9=
%$KI,&99
%$I/,4/4O/99
%$B5IPPPKK673<JQ99
-
Danh mục sơ đồ
!"
#$ !%&'()*+
%$HI?7<4575JKL9=
%$I'8/JBK,72M3?/4J&FK#'3G4
7N9=
%$KI,&99
%$I/,4/4O/99
%$B5IPPPKK673<JQ99
;
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hiện nay, vấn đề toàn cầu hoá được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Toàn
cầu hoá là mang lại những tác động tích cực, tuy nhiên nó sẽ loại bỏ những nền kinh
tế không có khả năng cạnh tranh. Bản thân Việt Nam cũng là một quốc gia đang
ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, các năm vừa
qua, khối các ngân hàng thương mại cổ phần đang ngày càng lớn mạnh, họ năng
động, thích nghi nhanh chóng với yêu cầu của thị trường để gia tăng thị phần của
mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của các ngân hàng thương mại nước ngoài với ưu
thế lớn về kinh nghiệm, công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Dưới áp
lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng và sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ thông tin, các ngân hàng thương mại “Nhà nước” nói chung và Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng đòi hỏi tự mình phải đánh giá lại năng
lực cạnh tranh của bản thân, đồng thời đưa ra giải pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh để bản thân ngân hàng có thể đứng vững trên thị trường.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)” làm đề tài luận văn của mình, nhằm
góp phần nào đó để giải quyết được những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV).
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam (BIDV).
Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại, tập trung làm rõ những vấn đề sau:
Luận văn đưa ra trình bày những yếu tố cơ bản nhất về ngân hàng thương
mại bao gồm khái niệm, vai trò và các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Tiếp đó, luận văn đi vào nghiên cứu các nội dung về năng lực cạnh tranh của
ngân hàng thương mại, gồm:
Quan niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại được hiểu là
tiêu chí tổng hợp phản ánh khả năng tự duy trì lâu dài trên thị trường, trên cơ sở
thiết lập một mối quan hệ bền vững với khách hàng để đạt được một số lượng lợi
nhuận nhất định hoặc khả năng chống lại một cách thành công các sức ép của các
lực lượng cạnh tranh.
Các đặc điểm ảnh hưởng chi phối đến năng lực cạnh tranh trong hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại gồm 02 nhóm đặc điểm: đặc điểm về sản
phẩm ngân hàng cung cấp và đặc điểm về khách hàng của ngân hàng.
Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại bao
gồm 04 nhóm chỉ tiêu chính. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời: ROA, ROE,
NIM, chênh lệch lãi suất. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro: CAR, tỷ lên nợ
quá hạn, tỷ lệ nợ xấu. Và một số chỉ tiêu khác về chi phí, giá cả, lãi suất và chỉ tiêu
phản ánh thị phần hoạt động ngân hàng.
Bên cạnh đó, luận văn trình bày thêm về mô hình phân tích năng lực cạnh
tranh, trong đó tập trung về mô hình SWOT. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của ngân hàng thương mại cũng được đề cập đến với sự phân chia các
nhân tố thành nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Trong đó, nhân tố chủ quan
phải kể đến như: nguồn nhân lực, công tác marketing, chất lượng dịch vụ ngân
hàng, chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ, mức độ áp dụng công nghệ
thông tin vào trong hoạt động ngân hàng… Nhân tố khách quan bao gồm: môi
trường kinh tế, công nghệ, văn hóa – xã hội, môi trường tự nhiên, chính phủ luật
pháp và chính trị; môi trường toàn cầu. Ngoài ra luận văn còn đề cập đến một số lực
lượng cạnh tranh bên ngoài như: các ngân hàng hiện tại, ngân hàng mới, khách hàng
(người mua, người bán) và dịch vụ mới thay thế.
Trong chương 2, luận văn khái quát những nét chung nhất về Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam (BIDV) và đi sâu nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh
tranh tại đây giai đoạn 2008-2010.
Trước tiên, luận văn giới thiệu chung về Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam (BIDV): lịch sử phát triển và hình thành, cơ cấu tổ chức.
Trọng tâm của chương 2 là việc phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh tại
BIDV: trên cơ sở lý luận về việc phân tích năng lực cạnh tranh đã được trình bày ở
chương 1, luận văn đi vào phân tích sâu thực trạng năng lực cạnh tranh tại BIDV
theo 04 nhóm chỉ tiêu:
Về mức độ sinh lời: thể hiện ở chỉ tiêu tổng thu nhập, chi phí hoạt động, chí
phí hoạt động/tổng thu nhập, chênh lệch thu chi trước DPRR, chi phí hoạt
động/tổng tài sản, chi phí hoạt động/thu nhập ròng.
Về mức độ rủi ro của BIDV: chỉ tiêu này được phản ánh thông qua chỉ số
CAR, nợ quá hạn/ dư nợ, nợ xấu/dư nợ.
Về giá cả và lãi suất: tác giả đề cập đến biểu phí dịch vụ của BIDV cũng như
chính sách lãi suất mà BIDV đưa ra đối với các khách hàng.
Cuối cùng là chỉ tiêu phản ánh sự tăng, giảm thị phần hoạt động của ngân
hàng, trong đó tác giả đi sâu đề cập đến thị phần về mạng lưới giao dịch, thị phần
huy động vốn và cho vay
Qua việc nhìn nhận tình hình thực tế năng lực cạnh tranh của BIDV qua các
chỉ tiêu trên, luận văn còn định vị vị thế cạnh tranh của BIDV trên thị trường qua
mô hình SWO. Từ đó, tác giả phân tích để thấy được những kết quả mà BIDV đã
đạt được và những vấn đề hạn chế, khó khăn đồng thời chỉ rõ ra các nguyên nhân
của hạn chế đó.
Những kết quả đã đạt được của BIDV sau khi xác định được năng lực cạnh
tranh của mình:
Tài sản và lợi nhuận của BIDV tăng qua các năm, trong đó công tác huy
động – cho vay tại BIDV luôn đóng vai trò tiên phong trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ. Song song với việc tăng trưởng tín dụng, BIDV cũng chú trọng đến
việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng theo thông lệ quốc tế. Với mục tiêu trở
thành một ngân hàng năng động và hiện đại hàng đầu trong hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam, BIDV đã từng bước điều chỉnh cơ cấu nguồn thu theo hướng
tăng dần tỷ trọng thu từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ liên ngân hàng.
Những vấn đề hạn chế và nguyên nhân:
Tỷ lệ cho vay/tổng tài sản cao: Thu nhập chủ yếu của BIDV là từ hoạt động
tín dụng. Hoạt động cho vay không mang lại thu nhập lớn nhưng lại có tính rủi ro
cao. Chính sự phụ thuộc này đã làm cho khả năng sinh lời của BIDV thấp.Khả năng
tài chính yếu, mặc dù không phải chịu áp lực tăng quy mô nhưng số vốn tự có của
BIDV còn thấp so với các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam và rất nhỏ bé so với ngân hàng trung bình trên thế giới.
Kế hoạch tăng vốn luôn được chú trọng nhưng quy mô vẫn chưa đủ lớn so
với chuẩn mực quốc tế.
Chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng: Chính sách nhân sự chưa hoàn thiện, đặc
biệt là chế độ đãi ngộ chưa hợp lý, chưa khuyến khích được nhân viên.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trên:
Nguyên nhân chủ quan:
Khả năng cung ứng dịch vụ mới: từ năm 2008 BIDV mới tiến hành thành lập
chuyên trách công tác nghiên cứu sản phẩm tại hầu khắp các Ban, trung tâm. Tuy
nhiên những bộ phận này có thể nói là rất mới, chưa đi sâu đi sát vào nghiệp vụ
cũng như tính thực tiễn và nghiên cứu thị trường chưa cao.
Công tác marketing hoạt động chưa hiệu quả: Chưa có chiến lược Marketing
cụ thể rõ ràng, công tác ứng dụng marketing còn yếu
Việc mở rộng các kênh phân phối hiện đại diễn ra còn chậm: so với các Ngân
hàng khác trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam thì việc sử dụng kênh
phân phối này đi sau khoảng 3-4 năm.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng chưa được đánh giá cao
Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ chưa tốt do cán bộ phải
kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ cùng một lúc…
Mức độ áp dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động ngân hàng: việc
triển khai quá nhiều dự án, phần mềm hỗ trợ bên ngoài hệ thống chính chứng tỏ hệ
thống cốt lõi của BIDV chưa đáp ứng được nhiều yêu cầu trong việc quản trị điều
hành, cũng như việc triết xuất ra các báo cáo hỗ trợ cho quá trình bán và chăm sóc
khách hàng.
J
Nguyên nhân khách quan:
Trình độ và tính chất nền kinh tế chưa phát triển, dân trí thấp nên các dịch vụ
tài tài chính chưa thể thực hiện rộng rãi và có hiệu quả. Không chỉ như vậy, mức độ
thu nhập bình quân thấp nên các chu chuyển tài chính, giao dịch vốn diễn ra với tốc
độ chưa cao khiến cho thị trường tài chính chưa phát triển với tốc độ nhanh.
Trong những năm gần đây kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, lạm phát diễn
biến phức tạp ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường tài chính, từ đó tác động
tiêu cực đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, tệ quan liêu và thủ tục hành chính còn
rườm rà phức tạp, cản đường phát triển các ngân hàng.
Nền kinh tế mới ở bước đầu của hội nhập mở cửa, cơ sở hạ tầng còn nhiều
yếu kém, hệ thống giao thông, cơ sở sản xuất…còn nhiều bất cập.
Trong chương 3, sau khi khái quát định hướng phát triển của Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam (BIDV), luận văn đề xuất một số giải pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh của BIDV. Đó là:
Thứ nhất: Tăng cường năng lực tài chính
Đối với giải pháp tăng vốn cấp 1, BIDV có thể hướng vào những công việc
sau: tăng vốn điều lệ: ngoài vốn nhà nước cấp, khi BIDV đã thực hiện thành công
cổ phần hoá, cần tiếp tục phát hành cổ phiếu lần đầu và các lần tiếp theo. Dự án tài
chính nông thôn 2 và 3 cũng là nguồn vốn giá rẻ, số lượng lớn mà BIDV cần tập
trung khai thác. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng chú trọng vào việc tập trung thu hồi
nợ xấu hay bổ sung từ các quỹ được phép tăng vốn.
Đối với giải pháp tăng vốn cấp 2, ngân hàng có thể tiến hành tiếp tục phát
hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 còn thiếu; tăng từ quỹ dự phòng, định giá lại tài sản.
Thêm vào đó, công tác huy động vốn luôn được chú trọng, nguồn vốn huy động có
thể từ các quỹ - các nhà đầu tư - các doanh nghiệp, vay dài hạn các ngân hàng - tổ
chức nước ngoài; từ các quỹ - các nhà đầu tư - các doanh nghiệp trong nước và từ
dân cư, các tổ chức kinh tế khác.
Thứ hai: Đào tạo phát triển nguồn nhân lực: Những lĩnh vực quan trọng đang
yếu về quản lý và quản trị, yếu về chuyên môn nghiệp vụ cần phải thuê chuyên gia
J
và lãnh đạo nước ngoài. Đổi mới công tác tuyển dụng theo công việc và theo vị trí,
từng bước thay thế các vị trí và các khâu yếu kém không phát huy được khả năng.
Xây dựng chế độ tiền lương đãi ngộ - thù lao mới phù hợp với cổ phần hoá và mô
hình tập đoàn, thuê chuyên gia – lãnh đạo người nước ngoài.
Thứ ba: Định hướng phát triển cho các sản phẩm dịch vụ
Về tín dụng: Chuyển mạnh sang tín dụng ngắn hạn để đẩy mạnh và phát triển
các dịch vụ bảo lãnh thanh toán, chiết khấu để đổi mới và phát triển các hình thức
kinh doanh tín dụng và dịch vụ mới mà chủ yếu là để phát triển dịch vụ bán lẻ. Tiếp
tục đẩy mạnh công tác kiểm tra - giám sát phân loại định hạng tín dụng và khách
hàng để quản lý quản trị chặt chẽ rủi ro tín dụng…
Về dịch vụ: Tập trung đẩy mạnh các dự án đầu tư công nghệ phục vụ trực
tiếp cho các hoạt động dịch vụ và các sản phẩm của dịch vụ để đẩy nhanh tiến trình
phát triển và đẩy mạnh hoạt động dịch vụ. Nghiên cứu ứng dụng để triển khai các
yêu cầu nhu cầu dịch vụ mới đối với các thị trường mục tiêu. Đẩy mạnh các loại sản
phẩm dịch vụ bán chéo các hoạt động Bảo hiểm - Chứng khoán – thuê mua - đầu tư
tài chính tổng hợp.
Thứ tư: Tăng cường công tác marketing: Tăng cường hoạt động nghiên cứu
thị trường và khách hàng. Công việc này đòi hỏi ngân hàng phải phân loại được
khách hàng của mình gồm khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng.
Thứ năm: Đa dạng hóa kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả:
Nghiên cứu sự kết hợp mạng lưới – kênh phân phối sản phẩm dịch vụ đa năng đa
hoạt động ở từng địa bàn kết hợp thống nhất – hài hoà - rộng khắp để khai thác tốt
nhất các sản phẩm dịch vụ ngân hàng- bảo hiểm - chứng khoán - đầu tư tài chính
theo nguyên tắc phục vụ trọn gói từng khách hàng, từng dự án đầu tư.
Thứ sáu: Hiện đại hóa công nghệ BIDV cần tập trung đầu tư nâng cấp đáp
ứng các nhu cầu dịch vụ mới, quan trọng nhất là các dịch vụ ngân hàng điện tử. Các
chương trình phần mềm quản lý cho hoạt động ngân hàng và cho các loại hình hoạt
động của các công ty. Kết nối được mạng trong tập đoàn.
Thứ bảy: Xây dựng cấu trúc tổ chức hợp lý: Cải tiến quy trình nghiệp vụ theo
hướng đáp ứng chuẩn mực của NHNN, vừa đơn giản, gọn nhẹ thuận tiện cho khách
J
hàng. Bên cạnh đó cần phân công nhiệm vụ giữa các phòng ban, bộ phận, tránh sự
chồng chéo, giảm bớt khâu trung gian không cần thiết cũng chính là góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng
Không chỉ như vậy, luận văn còn đưa ra một số kiến nghị với Ngân hàng
Nhà nước và Nhà nước Chính phủ.
Với những kết quả đạt được thông qua thực hiện đề tài: “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)”, luận văn đã có
những đóng góp chủ yếu sau đây:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại.
Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIDV) làm cơ sở đưa ra các giải pháp.
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị để nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV).
Khi tham gia vào sân chơi toàn cầu, bản thân các Ngân hàng thương mại Việt
Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn từ yêu cầu bản thân nền kinh tế
và chính từ các Ngân hàng thương mại với nhau. Các Ngân hàng thương mại trong
nước còn yếu kém về nhiều mặt đòi hỏi cần có những bước đi phù hợp. Chính vì
vậy, việc đẩy nhanh nghiên cứu và áp dụng giải pháp thích hợp để nâng cao năng
lực cạnh tranh là điều rất cần thiết và quan trọng. Tác giả mong nhận được sự đóng
góp của các thầy cô giáo, các nhà quản lý, đồng nghiệp và người đọc quan tâm để
tác giả tiếp tục được hoàn thiện đề tài ở cấp độ cao hơn./.
J
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, vấn đề toàn cầu hoá được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Toàn
cầu hoá là mang lại những tác động tích cực, tuy nhiên nó sẽ loại bỏ những nền kinh
tế không có khả năng cạnh tranh. Bản thân Việt Nam cũng là một quốc gia đang
ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, các năm vừa
qua, khối các ngân hàng thương mại cổ phần đang ngày càng lớn mạnh, họ năng
động, thích nghi nhanh chóng với yêu cầu của thị trường để gia tăng thị phần của
mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của các ngân hàng thương mại nước ngoài với ưu
thế lớn về kinh nghiệm, công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến. Dưới áp
lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng và sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ thông tin, các ngân hàng thương mại “Nhà nước” nói chung và Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng đòi hỏi tự mình phải đánh giá lại năng
lực cạnh tranh của bản thân, đồng thời đưa ra giải pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh để bản thân ngân hàng có thể đứng vững trên thị trường.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)” làm đề tài luận văn của mình, nhằm
góp phần nào đó để giải quyết được những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV).
- Đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam (BIDV).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIDV) trong giai đoạn 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: thống
kê; so sánh; phân tích; tổng hợp.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được phân bổ thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV).
- Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam (BIDV).
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Sự phát triển của nền kinh tế của mỗi một quốc gia trong mỗi một giai đoạn
tuy khác nhau nhưng ngân hàng luôn là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất của nền kinh tế. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế sẽ mạnh và ngược lại
các ngân hàng yếu, nền kinh tế sẽ yếu; thậm chí nếu các ngân hàng đổ vỡ nền kinh
tế sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ. Vì vậy, các nhà kinh tế trong kinh tế học đã
coi "ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt", là "trái tim của nền kinh tế".
Chính bởi tính chất quan trọng của mình, cho nên để định nghĩa ngân hàng
có rất nhiều các khái niệm khác nhau như:
"Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế" (Peter S.Rose, 2001, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài
chính).
Theo Luật các tổ chức Tín dụng "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác và các loại hình tổ chức ngân hàng khác". "Trong đó, hoạt động
ngân hàng được định nghĩa là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán".
1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại đã thể hiện được rõ ai trò quan trọng trong nền
kinh tế. Đó là:
Cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn, các ngân
hàng thương mại đã tập hợp những khoản vốn nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức, cá
nhân và thực hiện cung ứng vốn cho nền kinh tế nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất,
góp phần vào lưu thông hàng hoá tiền tệ, cũng như đẩy mạnh tiêu dùng cá nhân từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ đó huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn
bộ nền kinh tế vào trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Có thể nói đó là
"chất dầu bôi trơn" cho bộ máy kinh tế hoạt động.
Không chỉ như vậy, các ngân hàng còn thúc đẩy sự luân chuyển vốn trong
nền kinh tế. Với chức năng thanh toán, ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán hộ
cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và vốn trong xã hội; đồng
thời giám sát toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh,
tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. Với nguồn vốn huy động, bên cạnh
cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngân hàng còn thực hiện mở rộng đầu tư trong và
ngoài nước, tạo điều kiện tốt nhất giúp các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
bằng các dịch vụ cần thiết như: tư vấn đầu tư, bảo lãnh, kiểm tra số dư trên tài
khoản giao dịch thường xuyên cho khách hàng
Với vai trò tạo tiền do tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ, ngân hàng
thương mại còn là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Để thực hiện
các chính sách đó, NHTW phải sử dụng công cụ điều tiết đảm bảo thực hiện được
các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong đó là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn
các công cụ đó chỉ thực hiện có hiệu quả khi có các ngân hàng thương mại và trung
gian tài chính tham gia đầy đủ theo quy định của NHTW (về tỉ lệ dự trữ bắt buộc,
quy chế thanh toán không dùng tiền mặt )
Với những ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế hàng hoá thị trường như góp
phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy tăng trưởng
*
trong nền kinh tế phát triển và đặc biệt là mối giao lưu kinh tế quốc tế thì sự ra đời
và tồn tại của NHTM là một xu hướng tất yếu và khách quan.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung
cấp các dịch vụ quản lý quỹ cho công chúng, đồng thời nó còn thực hiện nhiều vai
trò khác nhau trong nền kinh tế. Có thể nói thành công của ngân hàng phụ thuộc vào
năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện
các dịch vụ đó một cách hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Bởi vậy
số lượng các sản phẩm dịch vụ mà một ngân hàng cung ứng ngày càng phát triển đa
dạng theo sự phát triển của xã hội. Do đó có rất nhiều cách phân chia hoạt động
ngân hàng theo nhu cầu khách hàng, dựa vào bảng cân đối tài sản Nhưng ở đây,
tôi xin được phân chia các hoạt động ngân hàng như sau:
- Các hoạt động truyền thống bao gồm: Chiết khấu thương phiếu và cho vay
thương mại, nhận tiền gửi, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán,
thực hiện trao đổi ngoại tệ, bảo quản vật có giá, tài trợ cho các hoạt động của chính
phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác
- Các hoạt động hiện đại bao gồm: cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án, tư
vấn tài chính, cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing), quản lý ngân quỹ, cung
cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
1.2. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Trong một thập kỷ trở lại đây, thuật ngữ "năng lực cạnh tranh" được nhắc
đến rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mọi người đều nói đến thuật
ngữ đó, và được coi là "chủ đề thời sự" trong kinh doanh. Nhưng năng lực cạnh
tranh là gì thì không phải ai cũng hiểu được một cách rõ ràng và chính xác.
Năng lực cạnh tranh không phải là:
-
- Sự dư thừa nguồn lực: bởi bất cứ một nguồn lực nào được sử dụng thường
xuyên sẽ cạn kiệt và không thể mãi tạo ra một năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp đó.
- Giá nhân công rẻ: đây chỉ là một lợi thế cạnh tranh trong một giai đoạn nhất
định mà không thể coi là năng lực cạnh tranh. Mặt khác, giá nhân công rẻ cũng có
thể phản ánh trình độ người lao động không cao, không thể tạo ra sản phẩm tốt với
năng suất lao động cao được.
- Chính sách khuyến khích, ưu đãi của chính phủ: không một doanh nghiệp
nào, kể cả doanh nghiệp nhà nước mà có thể sống mãi bằng sự "bao cấp" của nhà
nước; đến một lúc nào đó sự bảo hộ với doanh nghiệp đó sẽ phải mất đi. Khi đó một
doanh nghiệp có thể coi là tồn tại khi và chỉ khi đứng vững được trong cạnh tranh
mà không phải nhờ đến sự giúp đỡ của một thế lực nào khác.
Theo quan điểm “Quản trị chiến lược” của Michael Porter thì năng lực cạnh
tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo sản
phẩm có giá trị thấp và sự khác biệt của sản phẩm, tức bao gồm cả các yếu tố vô
hình. Mỗi công ty đều phải xây dựng chiến lược cạnh tranh liên quan tới việc xác
định vị trí của công ty để phát huy các năng lực trước các lực lượng cạnh tranh như:
đối thủ tiềm năng, đối thủ hiện tại, sản phẩm thay thế, khách hàng và nhà cung cấp.
Còn theo quan điểm Marketing ngân hàng thì năng lực cạnh tranh liên quan chặt
chẽ đến việc tạo ra sản phẩm dịch vụ khác biệt và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm dịch vụ đó trên thị trường mục tiêu. Nếu tiếp cận theo góc độ của một nhà
quản trị ngân hàng, năng lực cạnh tranh cần được hiểu là khả năng đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng, biểu hiện qua sức mạnh thương hiệu, uy tín của ngân hàng, thị
phần của ngân hàng trên thị trường, chiến lược phát triển dài hạn, nguồn nhân lực…
có khả năng chống đỡ hiệu quả đối với các biến động bất lợi của thị trường.
Vậy, năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại được hiểu là tiêu
chí tổng hợp phản ánh khả năng tự duy trì lâu dài trên thị trường, trên cơ sở
thiết lập một mối quan hệ bền vững với khách hàng để đạt được một số lượng
;
lợi nhuận nhất định hoặc khả năng chống lại một cách thành công các sức ép
của các lực lượng cạnh tranh.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại
Trong kinh tế thị trường thì một đặc trưng cơ bản là cạnh tranh, sẽ không có
kinh tế thị trường nếu không có cạnh tranh. Mặt khác để phát triển kinh tế thị
trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thì chúng ta phải chấp nhận sự cạnh
tranh sẽ ngày càng gay gắt. Vì vậy, đòi hỏi các ngân hàng thương mại sẽ nỗ lực
không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, áp
dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại hoá công nghệ ngân hàng; hay nói một
cách chung nhất thì các ngân hàng thương mại phải nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình.
Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng thì quá trình cạnh tranh lại diễn
ra khác biệt và có phần gay gắt và khó khăn hơn so với ngành khác. Các ngân hàng
thương mại luôn nằm trong một hệ thống dưới sự quản lý của ngân hàng nhà nước.
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không phải là đối đầu, chiến thắng tuyệt đối
đối thủ của mình mà cạnh tranh là để hợp tác và phát triển ví dụ như: các ngân hàng
thương mại phải hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề chung của ngành, hệ thống
đảm bảo hai bên cùng có lợi, tồn tại và phát triển bằng nhiều hình thức: cho vay hợp
vốn, đồng tài trợ Bởi lẽ chỉ cần một ngân hàng thương mại trong hệ thống lung
lay sụp đổ cũng làm ảnh hưởng đến các ngân hàng thương mại khác thậm chí dẫn
đến hiệu ứng đôminô sụp đổ hàng loạt các ngân hàng thương mại khác.
Thực tế trong giai đoạn hiện nay toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình thúc
đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, qua
đó các ngân hàng không ngừng mở rộng thị phần và quy mô hoạt động bằng cách
vươn tới các thị trường quốc tế. Xu hướng quốc tế hóa hoạt động ngân hàng đã đặt
các NHTM trước áp lực cạnh tranh lớn đó là sự cạnh tranh giữa các NHTM với
nhau và giữa NHTM với các tổ chức tài chính phi ngân hàng, xu hướng này sẽ tác
=
động đến khách hàng, họ có nhiều sự lựa chọn hơn vì vậy nhu cầu và đòi hỏi sẽ cao
hơn. Trong kinh doanh mọi doanh nghiệp đều lấy khách hàng làm đối tượng và mục
tiêu phục vụ, các ngân hàng cũng không ngoại lệ, họ luôn không ngừng nỗ lực và
thỏa mãn nhu cầu khách hàng tối đa. Do đó những đòi hỏi của khách hàng trong
việc nâng cao chất lượng, loại hình dịch vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng.
Không chỉ như vậy, mặc dù rào cản ra nhập thị trường ngân hàng rất khắt
khe nhưng thị trường ngân hàng vẫn thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức
lớn, đặc biệt là các tổ chức nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ ngân
hàng hiện đại, kinh nghiệm quản lý dạy dạn, và thương hiệu quốc tế. Các ngân hàng
mới tham gia vào thị trường với kỹ năng cạnh tranh, tiềm lực tài chính và ước vọng
chiếm lĩnh thị phần, tham khảo được kinh nghiệm của các ngân hàng đi trước. Các
ngân hàng mới có những kế sách và sức mạnh mà các ngân hàng hiện tại chưa có
thông tin để đối phó. Do đó trong thời gian tới sự cạnh tranh trên thị trường ngân
hàng sẽ ngày càng gay gắt, xu hướng trong thời gian tới có thể là xu hướng mua bán
và sáp nhập trong ngành; từ đó số lượng ngân hàng vừa và nhỏ sẽ giảm đáng kể.
Sáp nhập giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động, duy trì mức lợi nhuận
và giảm được cạnh tranh trong ngành.
1.2.3. Đặc điểm liên quan đến năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Đặc điểm về sản phẩm ngân hàng cung cấp
Sản phẩm ngân hàng được thể hiện dưới dạng dịch vụ nên nó có những đặc
điểm cụ thể sau
Thứ nhất, là tính vô hình
Đây chính là đặc điểm chính để phân biệt sản phẩm dịch vụ ngân hàng với
các sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế. Các sản phẩm
ngân hàng không thể nhìn thấy được, cảm nhận được, nghe được, ngửi được trước
khi mua chúng như bất cứ các dịch vụ khác được cung cấp trên thị trường. Khách
9
hàng khi đến với ngân hàng không thể biết chắc chắn số tiền của mình có được an
toàn hay không, số tiền thanh toán cho đối tác có đến tay người nhận đúng hẹn hay
không Do vậy, để khắc phục đặc điểm này thì trong kinh doanh, ngân hàng phải
dựa trên cơ sở lòng tin. Hoạt động của ngân hàng phải hướng vào việc tạo và củng
cố được niềm tin đối với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm dịch
vụ cung ứng, tăng tính hữu hình của sản phẩm, khuyếch trương uy tín, hình ảnh, tạo
điều kiện để khách hàng tham gia vào hoạt động tuyên truyền cho ngân hàng đẩy
mạnh công tác xúc tiến hỗn hợp.
Thứ hai, là tính không thể tách biệt
Quá trình cung cấp và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ ngân hàng được diễn ra
đồng thời, đặc biệt có sự tham gia trực tiếp của khách hàng vào quá trình cung ứng
sản phẩm dịch vụ. Không chỉ như vậy mỗi dịch vụ lại tuân theo một quy trình nhất
định không thể chia cắt được thành các loại thành phẩm khác nhau như quy trình
thẩm định, quy trình cho vay… Điều này làm cho sản phẩm ngân hàng không có
sản phẩm dở dang, sản phẩm lưu kho mà được cung ứng trực tiếp cho các khách
hàng khi và chỉ khi các khách hàng có nhu cầu sản phẩm mới được cung ứng. Do
vậy, các ngân hàng thường tạo dựng, duy trì và phát triển các mối quan hệ với
khách hàng và các ngân hàng khác bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ
cung ứng, phát triển hoạt động chăm sóc khách hàng trong toàn thể đội ngũ cán bộ
nhân viên ngân hàng và hiện đại hoá hệ thống cung ứng tạo tính đặc biệt của hoạt
động dịch vụ này.
Thứ ba, tính không ổn định
Chất lượng của các dịch vụ ngân hàng thường không xác định, nó phụ thuộc
vào người thực hiện dịch vụ, thời gian, địa điểm thực hiện. Đồng thời, giữa các
ngân hàng khác nhau thì chất lượng dịch vụ sẽ khác nhau tuỳ trình độ chuyên môn
nhận thức mà cung ứng dịch vụ với mức độ khác nhau, cùng nhân viên thì chất
lượng dịch vụ này cũng tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, tinh thần ở thời điểm
giao dịch với khách hàng…
"
Thứ tư là tính không lưu giữ được
Các sản phẩm ngân hàng mang đặc tính vô hình do vậy cũng không thể lưu
kho được. Trong khi đó nhu cầu dịch vụ thường dao động lớn có thời điểm nhu cầu
tăng đột biến song các ngân hàng cũng không thể sản xuất sẵn rồi đem lưu kho
được. Ví dụ như, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền tại thời điểm cuối năm là rất lớn
nhưng các ngân hàng ngân hàng phải tăng cường phương tiện cũng như nguồn nhân
lực để đảm bảo phục vụ khách hàng song những thời điểm như đầu năm thì hoạt
động này lại ít hơn nhưng ngân hàng cũng không thể san bớt công việc để làm đỡ
cho cuối năm được. Chính bởi vậy chi phí bỏ ra cho dịch vụ ngân hàng thường
tương đối cao.
Đặc điểm sản phẩm ngân hàng có những đặc tính riêng so với ngành khác
ảnh hưởng rõ rệt đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Sản phẩm của
ngân hàng thương mại là tiền, đó vừa là đối tượng kinh doanh lại vừa là thước đo
kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Mặt khác đó là loại hàng hoá có
tính xã hội và tính nhạy cảm cao; chỉ một biến động nhỏ về tỷ giá và lãi suất cũng
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Do vậy cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại thực sự gay gắt và quyết liệt, nỗ lực không
ngừng nổi bật hơn đối thủ để đem lại cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất.
Hơn nữa sản phẩm ngân hàng có tính vô danh. Nếu như sản phẩm của doanh
nghiệp có thể đăng ký bản quyền thì sản phẩm của một ngân hàng không thể làm
như vậy được. Bất cứ một sản phẩm của một ngân hàng nào tạo ra được sự ưa
chuộng cho khách hàng thì ngay lập tức các ngân hàng khác cũng có khả năng cung
cấp những sản phẩm tương tự thậm chí còn hấp dẫn khách hàng hơn để giành lại thị
phần, phân tán mức độ ưa chuộng của xã hội đối với sản phẩm đó và làm giảm lợi
nhuận của ngân hàng đó ngay lập tức. Do vậy sự cạnh tranh này phổ biến diễn ra
thường xuyên buộc các ngân hàng phải chấp nhận.
+
1.2.3.2. Đặc điểm về khách hàng của ngân hàng
Do các sản phẩm ngân hàng nhìn chung là tương đối giống nhau nên ở bất cứ
một ngân hàng nào khách hàng cũng có thể được cung cấp những dịch vụ cơ bản
nhất. Do vậy khách hàng của ngân hàng thương mại không phải là những khách
hàng trung thành tuyệt đối mà rất dễ dàng bị lôi kéo bởi đối thủ cạnh tranh. Lòng
trung thành của khách hàng đối với ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào thái độ phục
vụ của nhân viên ngân hàng, cũng như những lợi ích mà họ thu được từ ngân hàng.
Với đặc điểm khách hàng rất dễ bị lôi kéo thì sự cạnh tranh của ngân hàng cũng
được nhân lên rất nhiều gây khó khăn trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.4. Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại
Như đã trình bày ở trên, năng lực cạnh tranh là một tiêu chí tổng hợp. Để duy
trì sự tồn tại và phát triển trong một thời gian dài thì đòi hỏi ngân hàng thương mại
đó phải có một năng lực cạnh tranh tốt. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại được cấu thành từ những lợi thế cạnh tranh trong từng giai đoạn của ngân hàng.
Đó là những lợi thế được ngân hàng tạo ra và sử dụng cho cạnh tranh. Hay còn
được hiểu là các đặc điểm hay biến số của sản phẩm mà nhờ đó ngân hàng có thể
tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt hơn so với đối thủ trực tiếp.
Ngân hàng cũng có thể tự sáng tạo lợi thế cạnh tranh khác nhau dựa trên hai
cách chủ yếu:
- Đối đầu trực tiếp với đối phương (vươn tới và duy trì lợi thế)
- Phát triển con đường tránh cạnh tranh. Mặc dù phương pháp này ít tốn
kém nhưng rất khó thực hiện. Phương pháp này thường được áp dụng
trong những ngân hàng có quy mô nhỏ, chiếm thị phần nhỏ.
Ta có thể khái quát một số nhóm chỉ tiêu để đo lường năng lực cạnh tranh
của ngân hàng thương mại như sau:
1.2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng tài chính
a. Chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời
Có rất nhiều chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nhưng trong hoạt động ngân hàng thì thu lãi là khoản thu luôn chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong các khoản mục trên bảng cân đối. Do vậy trong phần này tôi xin đưa ra
một số chỉ tiêu sau:
Lợi nhuận ròng
ROA= x 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu trên cho thấy khả năng bao quát của hoạt động ngân hàng thương
mại trong việc tạo thu nhập từ tài sản. Các ngân hàng thường sử dụng ROA để đo
lường mối quan hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn
được sử dụng tạo nên tài sản không sinh lãi và có một bộ phận tài sản không sinh lãi
lại tham gia tạo nên thu nhập cho ngân hàng. Do vậy nếu ROA lớn chứng tỏ hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng thương mại tốt và cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên
nếu ROA quá lớn làm cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung luôn đi song
hành với lợi nhuận.
Chỉ tiêu 2
Lợi nhuận ròng
ROE = x 100%
Vốn tự có
ROE là chỉ tiêu được các nhà ngân hàng quan tâm đến nhiều nhất. Nó cho
thấy khả năng sinh lời từ một đồng vốn của chủ. Từ đó cho biết số lợi nhuận ròng
mà một cổ đông có được. Do vậy các ngân hàng luôn cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để
tăng tính hấp dẫn đối với các cổ đông bằng nhiều phương pháp như: kiểm soát chi
tiêu, đầu tư, quản lý rủi ro có hiệu quả Tuy nhiên việc tăng ROE quá cao so với