Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.81 KB, 95 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
 
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
CHUỖI CUNG ỨNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP
VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG EU:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI CUNG ỨNG GIẦY DÉP 4
1.1. Lý thuyết về chuỗi cung ứng 4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chuỗi cung ứng 4
1.1.2. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng 7
1.1.3. Các thành phần cơ bản của chuỗi cung ứng 9
1.1.4. Những đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng 14
1.2. Chuỗi cung ứng mặt hàng giầy dép 16
1.2.1. Đặc điểm của ngành giầy dép 16
1.2.2. Chuỗi cung ứng giầy dép 18
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG ỨNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG EU 23
2.1. Tổng quan thị trƣờng giày dép ở EU 23
2.1.1.Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam vào EU 23
2.1.2. Đặc điểm tiêu thụ giày dép ở EU 27
2.1.3. Yêu cầu đối với giày dép xuất khẩu vào EU 29
2.2. Thực trạng chuỗi cung ứng xuất khẩu giầy dép Việt Nam sang thị trƣờng
EU 31
2.2.1. Công đoạn thiết kế sản phẩm giầy dép 33


2.2.2. Công đoạn cung ứng năng lực đầu vào: nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị,
kỹ thuật công nghệ. 35
2.2.3. Công đoạn sản xuất 37
2.2.4. Phân phối sản phẩm 43
2.2.5. Tiêu thụ sản phẩm 47
2.3. Đánh giá về hoạt động của chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt Nam
sang thị trƣờng EU 48
2.3.1. Thành tựu 48
2.3.2. Hạn chế 51
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG
XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG EU 55
3.1. Cơ hội và thách thức để phát triển chuỗi cung ứng xuất khẩu giầy dép
Việt Nam sang thị trƣờng EU 55
3.1.1. Cơ hội 55
3.1.2. Thách thức 58
3.2. Tầm nhìn và mục tiêu 61
3.2.1 Tầm nhìn 61
3.2.2. Mục tiêu 61
3.3. Đề xuất một số giải pháp phát triển chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép
Việt Nam sang thị trƣờng EU 62
3.3.1. Giải pháp chung đối với toàn chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt
Nam sang thị trường EU 62
3.3.2. Giải pháp đối với từng công đoạn của chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép
Việt Nam sang thị trường EU 67
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHỤ LỤC 79
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
EU

GDP
NVL
SKU
OEM
Stock Keeping Unit
Original equipment
manufacturing
Original design
manufacturing
Original brand name
manufacturing
European Commission
Tiếng nƣớc ngoài
European Union
Gross Domestic Product
Tiếng Việt
Liên minh châu Âu
Tổng sản phẩm quốc nội
Nguyên vật liệu
Đơn vị tồn chữ
Sản xuất thiết bị gốc
ODM
Sản xuất thiết kế gốc
Sản xuất theo thương hiệu
riêng
Ủy ban Châu Âu
Hiệp hội Da – Giày – Túi
xách Việt Nam
Đồng bằng sông Cửu
Long

Thành phố Hồ Chí Minh
OBM
EC
LEFASO
ĐBSCL
TP.HCM
TEU
Twenty foot equivalent
unit
General Scheme of
Preferences
Container 20 feet
Chương trình ưu đãi thuế
quan phổ cập
GSP
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu giày dép toàn ngành và vào thị trường EU năm
2009-2013 23
Bảng 2.2: Trị giá xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào 16 nước thuộc liên minh EU
năm 2009-2013 24
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU phân theo mặt hàng
năm 2009 – 2013 26
Bảng 2.4: Sản phẩm chủ yếu của ngành 39
Bảng 3.1: Thống kê xuất khẩu giày dép sang một số nước trong EU quý I/2014 56
Hình vẽ
Hình 1.1: Chuỗi cung ứng điển hình 6
Hình 1.2. Tác nhân thúc đẩy chính của chuỗi cung ứng 9
Hình 1.3: Đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng 14
Hình 2.1: Cấu trúc chuỗi cung ứng giày dép của Việt Nam 31

Hình 2.2: Kênh phân phối cơ bản mặt hàng giày dép tại thị trường EU 45
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu mặt hàng giày dép xuất khẩu Việt Nam sang EU
năm 2009 – 2013 27
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu các doanh nghiệp sản xuất giày dép năm 2013 38
Biểu đồ 2.3: Tính hiện đại của thiết bị sản xuất giày dép năm 2013 42
Biểu đồ 2.4: Thời gian khấu hao của thiết bị sản xuất giày dép năm 2013 42
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước năm 2009-
2013 50
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giày dép là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Ngành sản xuất giày dép hàng năm đóng góp một phần không nhỏ vào GDP của cả
nước và có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kim ngạch xuất khẩu
giày dép không ngừng tăng qua các năm, đưa Việt Nam trở thành một trong một
trong 5 nước xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới
Trong nhiều năm qua, ngành giày dép cho thấy những nỗ lực không ngừng
cải thiện sản phẩm cả về chất lượng và mẫu mã, nâng cao tính cạnh tranh trên thị
trường thế giới, từ đó mà xuất khẩu giày dép đạt được những bước tăng trưởng tiến
bộ. Ngành giày dép được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan hơn, đơn hàng xuất khẩu
sẽ gia tăng. Tuy nhiên, giày dép xuất khẩu vào các thị trường lớn như EU hay Hoa
Kỳ đều yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật, điều này sẽ khiến các
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong việc đầu
tư phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, xuất
khẩu giày dép của Việt Nam vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro do thị trường thế giới hiện nay
có nhiều biến động và việc nguyên liệu sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu.
Cùng với đó, ngành đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ chuỗi cung ứng
giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan, Ấn Độ…, mà đặc biệt là
Trung Quốc với lợi thế về giá nhân công rẻ, năng suất lao động cao, sản xuất

nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị trong nước phát triển dẫn đến giá thành rẻ và
cạnh tranh hơn.
EU là thị trường tiêu thụ giày dép lớn nhất thế giới với nhu cầu nhập khẩu
hàng năm là 1,5 tỷ đôi giày dép các loại, vì thế hiện nay EU vẫn luôn được coi là thị
trường mục tiêu của Việt Nam. Nhìn vào đặc điểm của thị trường sản xuất giày dép
tại EU có thể thấy ngành này đã phát triển từ lâu đời, dày dặn kinh nghiệm sản xuất,
trình độ khoa học công nghệ hiện đại, tập trung nhiều thương hiệu giày nổi tiếng thế
giới. Tuy nhiên, gần đây sản xuất tại EU đang có xu hướng trở nên bão hòa do vấp
phải sự cạnh tranh từ chính những chuỗi cung ứng giày dép xuất khẩu giá rẻ của các
nước châu Á trên như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, và theo một số dự báo quy
mô hoạt động sản xuất trong thời gian tới sẽ có dấu hiệu thu hẹp. Trước thực trạng
2
này, ngành công nghiệp giày dép EU đã nhận thấy sự cần thiết phải tái cơ cấu, cắt
giảm lao động và quy mô sản xuất tại châu Âu, tăng thuê ngoài và sử dụng lao động
ở các nước châu Á.
Trước tình hình trong nước và tận dụng cơ hội từ EU, ngành giày dép cần
đẩy mạnh việc liên kết giữa các doanh nghiệp để phát triển mô hình chuỗi cung ứng
giày dép xuất khẩu sang EU hướng tới mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu,
phát triển công nghiệp sản xuất giày dép và đưa sản phẩm giày dép Việt Nam lên
tầm cao mới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này,
chính vì lý do đó tác giả chọn đề tài: “Chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt
Nam sang thị trƣờng EU: Thực trạng và giải pháp” để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là dựa trên cơ sở lý thuyết về chuỗi
cung ứng và thực trạng chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị
trường EU nhằm tìm ra các giải pháp phát triển chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép
Việt Nam sang EU trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của khóa luận là:

-
Tập trung nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận có liên quan đến hoạt
Phân tích thực trạng hoạt động chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt Nam
động của chuỗi cung ứng trong ngành giày dép.
-
sang thị trường EU qua đó chỉ ra những thành tựu đạt được và những tồn tại, hạn
chế cần khắc phục.
-
Đề xuất một số giải pháp phát triển chuỗi cung ứng xuất khẩu giầy dép Việt
Nam sang thị trường EU
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp
đối với chuỗi cung ứng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
-
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu chuỗi cung ứng xuất khẩu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: giai đoạn 2009-2013
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu
như phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, phương pháp so sánh, đánh giá, phương
pháp diễn giải và quy nạp. Dữ liệu sử dụng để nghiên cứu chủ yếu được thu thập từ
các nguồn có uy tín như trang web của Tổng cục Thống kê, Bộ Công thương, Tổng
cục Hải quan, Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam và các báo cáo chuyên
ngành liên quan của các đơn vị uy tín như Ngân hàng thế giới, Cục xúc tiến thương
mại Việt Nam, Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chuỗi cung ứng giày dép
Chương 2: Thực trang chuỗi cung ứng giày dép Việt Nam sang thị trường EU

Chương 3: Một số giải pháp phát triển chuỗi cung ứng giày dép Việt Nam
sang thị trường EU
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Th.S. Nguyễn Thị
Yến, người thầy đã tận tình hướng dẫn, đóng góp ý kiến, giải đáp thắc mắc của em
trong quá trình hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô trong
khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, cũng như các thầy cô giáo trong trường Đại
học Ngoại thương vì đã giảng dạy và truyền đạt cho em những kiến thức nền tảng
và cần thiết giúp ích rất nhiều trong quá trình viết bài.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện bài viết nhưng do kiến thức còn hạn hẹp, nên
khóa luận của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô trong khoa để bài viết của em hoàn thiện hơn.
giày dép Việt Nam sang EU
-
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI CUNG ỨNG
GIẦY DÉP
1.1. Lý thuyết về chuỗi cung ứng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chuỗi cung ứng
1.1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “Chuỗi cung ứng” đang trở nên phổ biến một các nhanh chóng,
nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế như ngày nay. Chúng ta có thể nghe thấy
nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, đọc nhiều hơn trên các trang
báo, các tạp chí kinh tế. Và vai trò của các nhà quản lý chuỗi cung ứng trong các tập
đoàn đa quốc gia càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Vậy chuỗi cung ứng
được hiểu như thế nào? Sau đây là một số định nghĩa về khái niệm này:
“Chuỗi cung ứng là sự liên kết với các công ty nhằm đưa sản phẩm hay dịch
vụ vào thị trường” (Lambert, Stock và Elleam, 1998, c.14).
“Chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan, trực tiếp hay gián
tiếp, đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản

xuất và nhà cung cấp, mà còn nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân khách
hàng” (Chopra Sunil và Pter Meindl, 2001, c.1).
“Một chuỗi cung ứng là một mạng lưới toàn cầu của các tổ chức hoạt động để
thúc đẩy dòng chảy nguyên liệu và thông tin giữa các nhà cung ứng và khách hàng
nhanh nhất với chi phí thấp nhất.” (Manish Govil và Jean - Marie Proth, 2002, Tr. 7).
“Một chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động đáp ứng khách hàng.
Những hoạt động này được kết hợp với dòng chảy và sự biến đổi của hàng hóa từ
giai đoạn nguyên liệu thô, cho đến người tiêu dùng cuối cùng” (Ling Li old
dominion university, USA, 2007, Tr. 3).
“Một tập hợp gồm ba hay nhiều công ty được liên kết trực tiếp bởi một hay
nhiều dòng chảy hàng hóa, dịch vụ, tài chính và thông tin từ một nguồn tới một
khách hàng” (John T.Mentzer, 2001).
Tổng quát lại, một chuỗi cung ứng có thể được hiểu là một mạng lưới các
hoạt động (bao gồm cả hoạt động vật chất và hoạt động ra quyết định) được kết nối
với nhau thông qua các dòng chảy vật chất, thông tin và tài chính giữa các nhà cung
ứng, doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng. Mạng lưới này không chỉ bao gồm
5
nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn liên quan đến công ty vận tải, nhà kho, nhà
bán lẻ và khách hàng của nó.
Ví dụ trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu sẽ được chế biến
và sản xuất lần lượt qua các nhà máy chế biến nguyên liệu gốc đến các nhà sản xuất
trung gian, sau đó được mua bởi một nhà sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng.
Các sản phẩm cuối cùng này sẽ được đóng gói và vận chuyển đến các đại lý, nhà
phân phối, bán lẻ. Sau đó các đại lý, nhà phân phối, bán lẻ này sẽ bán sản phẩm cho
khách hàng cuối cùng. Nếu sản phẩm không đạt được sự hài lòng của khách hàng
(có thể do chi phí, chất lượng, khả năng ứng dụng, bảo hành, …) dẫn đến những
phàn nàn và khiếu nại, thì sản phẩm đó có thể sẽ được vận chuyển lại đến nhà sản
xuất cuối cùng để giải quyết (sửa chữa, tái chế, hoặc thay thế). Dòng vận chuyển
ngược chiều này cũng sẽ được bao gồm trong một chuỗi cung ứng.
Ở ví dụ trên, khách hàng sẽ được cung cấp thông tin về giá cả, chất lượng và

sự sẵn có của sản phẩm thông qua website của nhà sản xuất hoặc của các đại lý, nhà
phân phối. Khi mua hàng, khách hàng sẽ thực hiện thanh toán, dựa vào đơn đặt
hàng của khách hàng, các đại lý, nhà phân phối hoặc bán lẻ sẽ gửi dữ liệu đến nhà
kho của chính họ hoặc của nhà sản xuất, sắp xếp đầy đủ đơn hàng chuyển đến cho
khách hàng và thông báo cho khách hàng lịch trình giao hàng. Đổi lại sau khi nhận
tiền của khách hàng, các nhà phân phối sẽ trả tiền cho nhà sản xuất, nhà sản xuất sẽ
thanh toán cho các nhà cung cấp nguyên phụ liệu trung gian. Trong các hoạt động
này có sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian như vận chuyển, kho
bãi,…
Ví dụ trên cho thấy tính liên kết của các hoạt động và sự linh hoạt của các
dòng chảy vật chất, thông tin, tài chính trong chuỗi cung ứng. Phần sau đây sẽ khái
quát một số đặc điểm của chuỗi cung ứng điển hình.
1.1.1.2. Đặc điểm
Qua việc định nghĩa thuật ngữ “chuỗi cung ứng”, có thể rút ra những đặc
điểm cơ bản của một chuỗi cung ứng điển hình như sau:
-
Chuỗi cung ứng điển hình như trong hình 1.1, chúng ta có thể hình dung các
doanh nghiệp nằm ở khu vực giữa như doanh nghiệp trung tâm. Thực tế, doanh
nghiệp trung tâm không chỉ là doanh nghiệp lắp ráp sản phẩm cuối cùng, nó cũng có
6
thể là bất cứ doanh nghiệp nào tham gia chuỗi cung ứng, tùy thuộc vào phạm vị
tham chiếu và mục tiêu của nhà quản trị khi xem xét mô hình.
Hình 1.1: Chuỗi cung ứng điển hình
Dòng sản xuất và dịch vụ
Đổi trả và tái chế
Nhà cung
cấp NVL
Nhà sản xuất
trung gian
Nhà sản xuất

cuối cùng
Nhà phân phối,
bán buôn
Bán lẻ
Vận chuyển và
lưu kho
Thông tin/ Kế hoạch/ Hoạt động tích hợp
Nguồn: Joel D. Wisner và nhóm tác giả, 2005, Tr.6
-
Khách hàng cuối cùng là nguồn tạo ra lợi nhuận cho toàn bộ chuỗi cung ứng.
Các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung ứng phải thống nhất với nhau về các
quyết định kinh doanh hợp lý, nhằm duy trì một mức giá bình ổn và phù hợp để đạt
được mức độ hài lòng cao của người tiêu dùng.
-
Cùng với các thực thể chính, có rất nhiều doanh nghiệp khác liên quan một
các gián tiếp đến hầu hết các chuỗi cung ứng, và họ đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động phân phối. Đó là các nhà cung cấp dịch vụ, chẳng hạn như các công ty
vận tải đường không, đường thủy và đường bộ, các nhà cung cấp hệ thống thông tin,
các công ty kinh doanh kho bãi, các hãng môi giới vận tải, các đại lý và nhà tư vấn.
Nhờ có các doanh nghiệp này, việc giao tiếp giữa người mua và người bán được
diễn ra hiệu quả, các doanh nghiệp có thể phục vụ được các thị trường xa xôi, giúp
7
các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vận tải nội địa và quốc tế, và nói chung cho phép
doanh nghiệp phục vụ tốt khách hàng với chi phí thấp nhất có thể.
-
Chuỗi cung ứng luôn hàm chứa tính năng động và nó liên quan đến dòng
chảy thông tin nhất định về sản phẩm và tài chính giữa các giai đoạn khác nhau.
Chúng ta có thể thấy rõ trong ví dụ về hãng máy tính Dell sau đây. Khi một khách
hàng mua hàng trực tuyến máy tính Dell, khách hàng sẽ trực tiếp tham gia vào
chuỗi cung cấp. Trang web của hãng sẽ nhận đơn đặt hàng của khách hàng, nhà

máy lắp ráp của Dell, và tất cả các nhà cung cấp của Dell. Trang web cung cấp cho
khách hàng thông tin về sản phẩm, chủng loại sản phẩm và tính sẵn sàng của sản
phẩm. Khách hàng khi truy cập vào trang web, tìm hiểu thông tin về sản phẩm, giá
cả và thực hiện việc đặt hàng kèm với thủ tục và phương thức thanh toán qua mạng.
Sau đó khách hàng sẽ trở lại trang web để kiểm tra tình trạng của đơn hàng. Các giai
đoạn sâu hơn trong chuỗi cung cấp sử dụng thông tin về đơn hàng của khách hàng
để đáp ứng yêu cầu. Tiến trình này liên quan đến dòng thông tin thêm, về sản phẩm
và tài chính giữa các giai đoạn khác nhau của chuỗi cung ứng.
Những đặc điểm trên cho thấy một chuỗi cung ứng có rất nhiều thực thể
tham gia, có thể là trực tiếp cũng có thể là gián tiếp và khách hàng là thành tố tiên
quyết của chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng thực tế là một mạng lưới dịch chuyển
linh hoạt của các dòng thông tin, sản phẩm và tài chính dọc theo cả 2 hướng của
chuỗi.
1.1.2. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng
Bên cạnh khái niệm chuỗi cung ứng, người ta cũng nhắc đến “quản trị chuỗi
cung ứng” như một khái niệm song song, không tách rời. Sau đây là một số định
nghĩa về khái niệm này:
Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trị chuỗi cung ứng là “việc thiết kế
và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trị cho các tổ chức để đáp ứng nhu cầu
thực sự của khách hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực con người
và công nghệ là then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công” (The
Institute for supply management, 2000).
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là “việc quản lý
cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm
8
tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua
các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng” (Courtesy of Supply chain
Council)
Theo Hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị chuỗi
cung ứng là “sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh doanh truyền

thống và các sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một công ty cụ thể và
giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với các mục đích cải thiện thành tích
dài hạn của các công ty đơn lẻ và cả chuỗi cung ứng” (Courtesy of the Council of
Logistics Management).
Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billing trong bài báo nghiên cứu thì
“quản trị chuỗi cung ứng như việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở các cơ sở của
mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào sản phẩm trung
gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuỗi cùng, và phân phối sản phẩm đến
khách hàng thông qua hệ thống phân phối” (H.L.Lee and C.Billington, 1995, Tr.
41-63)
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa như sau: “Quản trị chuỗi cung ứng là
tập hợp những phương thức sử dụng một cách tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp,
người sản xuất, hệ thống kho bãi và các cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa được
sản xuất đến đúng địa điểm, đúng lúc với đúng yêu cầu về chất lượng, với mục đích
giảm thiểu chi phí toàn hệ thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về mức độ
phục vụ”
Tính nhất quán thể hiện trong các định nghĩa đó chính là ý tưởng của sự phối
hợp và hợp nhất số lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các
thành viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất lượng, và
dịch vụ khách hàng nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho tất cả các tổ
chức liên quan đến công tác này. Vì thế, để quản trị thành công chuỗi cung ứng, các
doanh nghiệp phải làm việc với nhau bằng cách chia sẻ thông tin về những điều liên
quan chẳng hạn như dự báo nhu cầu; các kế hoạch sản xuất; những thay đổi về công
suất, các chiến lược marketing mới; sự phát triển mới sản phẩm và dịch vụ; sự phát
triển công nghệ mới; các kế hoạch thu mua; ngày giao hàng và bất kỳ điều gì tác
động đến các kế hoạch phân phối, sản xuất và thu mua.
9
1.1.3. Các thành phần cơ bản của chuỗi cung ứng
Trong chuỗi cung ứng, có 5 lĩnh vực mà các công ty có thể quyết định nhằm xác
định năng lực của chuỗi cung ứng gồm: sản xuất, tồn kho, địa điểm, vận tải và thông

tin. Các lĩnh vực này là tác nhân thúc đẩy hiệu quả chuỗi cung ứng của công ty.
Hình 1.2. Tác nhân thúc đẩy chính của chuỗi cung ứng
1. Sản xuất
Sản xuất cái gì, như
thế nào & khi nào?
2. Tồn kho
Sản xuất bao nhiêu &
dự trữ bao nhiêu?
5. Thông tin
Những vấn đề cơ bản
để ra những quyết
định
4. Vận tải
Vận chuyển sản phẩm
bằng cách nào và khi
nào?
3. Địa điểm
Nơi nào thực hiện tốt
nhất cho hoạt động
gì?
Nguồn: Nguyễn Kim Anh, 2006, Tr.13
Quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả trước hết đòi hỏi có sự hiểu biết về mỗi tác
nhân thúc đẩy và cách thức hoạt động của nó. Mỗi tác nhân thúc đẩy có khả năng
ảnh hưởng trực tiếp đến chuỗi cung ứng và tạo ra năng lực nào đó. Bước tiếp theo là
mở rộng sự đánh giá kết quả đạt được do nhiều sư kết hợp khác nhau của các trục
điểu khiển này. Chúng ta hãy bắt đầu xem xét các tác nhân thúc đẩy này một cách
riên g lẻ.
1.1.3.1. Sản xuất
Sản xuất liên quan đến năng lực của chuỗi cung ứng để sản xuất và tồn trữ
sản phẩm. Các phương tiện trong sản xuất như là các nhà xưởng và nhà kho. Vấn đề

cơ bản của nhà quản lý khi ra quyết định sản xuất là: giải quyết cân đối giữa tính
đáp ứng và tính hiệu quả như thế nào. Nếu mà nhà xưởng và nhà kho được xây
dựng với công suất cao thì sẽ tạo ra khả năng linh động và đáp ứng nhanh khối
lượng lớn về nhu cầu sản phẩm. Tuy nhiên, các nhà xưởng được xây dựng theo một
trong hai phương pháp sau để phù hợp với sản xuất:
10
• Tập trung vào sản xuất – một nhà máy tập trung vào sản xuất một sản phẩm
thì có thể thực hiện được nhiều hoạt động khác nhau trong sản xuất từ việc chế tạo
các bộ phận khác nhau cho đến việc lắp ráp các bộ phận của sản phẩm này.
• Tập trung vào chức năng – chỉ tập trung vào một số hoạt động như sản xuất
một nhóm các bộ phận thực hiện việc lắp ráp. Cách thức này có thể áp dụng để sản
xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Khuynh hướng tiếp cận một sản phẩm thường dẫn đến việc phát triển chuyên
sâu cho sản phẩm tương ứng với mức chi phí bắt buộc. Cách tiếp cận theo hướng
chức năng tạo ra việc phát triển chuyên môn cho những chức năng đặc biệt của sản
phẩm thay vì phát triển cho một sản phẩm được đưa ra. Các công ty cần quyết định
phương pháp tiếp cận nào và kết hợp những gì từ hai phương pháp này để mang lại
cho chính công ty khả năng, kiến thức cần có đế đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng.
Tương tự, đối với các nhà kho cũng được xây dựng theo nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Có ba phương pháp tiếp cận chính sử dụng trong nhà kho:
• Đơn vị tồn trữ (Stock Keeping Unit - SKU) – Theo phương pháp truyền
thống này, tất cả các sản phẩm cùng loại được tồn trữ cùng nhau. Đây là cách hiệu
quả và dễ thực hiện tồn trữ sản phẩm.
• Tồn trữ theo lô – Theo phương pháp này, tất cả các sản phẩm có liên quan
đến nhu cầu của một loại khách hàng nào đó hay liên quan đến một công việc được
tồn trữ chung với nhau. Điều này cho phép sự lựa chọn và đóng gói có hiệu quả
nhưng đòi hỏi nhiều không gian tồn trữ hơn so với phương pháp tồn trữ truyền
thống SKU.
• Cross-docking – Phương pháp này của tập đoàn siêu thị Wall-Mart đưa ra

nhằm tăng hiệu quả của chuỗi cung ứng. Theo phương pháp này, sản phẩm không
được xếp vào kho bộ phận. Thay vì bộ phận đó được sử dụng dể dự trữ một sản
phẩm thì xe tải từ nhà cung cấp đến bốc dỡ số lượng lớn nhiều sản phẩm khác nhau.
Những lô hàng này được phân thành những lô nhỏ hơn. Các lô hàng nhỏ hơn có
nhiều sản phẩm khác nhau này được kết hợp lại theo nhu cầu hàng ngày và được
bốc lên xe tải đưa đến cho khách hàng cuối cùng.
11
1.1.3.2. Tồn kho:
Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm do nhà
sản xuất, nhà phân phối và người bán lẻ tồn trữ dàn trải trong suốt chuỗi cung ứng.
Các nhà quản lý phải quyết định tồn trữ ở đâu nhằm cân đối giữa tính đáp ứng và
tính hiệu quả. Tồn trữ số lượng hàng tồn kho cho phép công ty đáp ứng nhanh
chóng những biến động về nhu cầu khách hàng.
Tuy nhiên, việc xuất hiện và tồn trữ hàng tồn kho tạo ra một chi phí đáng kể
và để đạt hiệu quả cao thì phí tồn kho nên thấp nhất có thể được.
Có ba quyết định cơ bản để tạo và lưu trữ hàng tồn kho:
• Tồn kho chu kỳ - đây là tồn kho cần thiết nhằm xác định nhu cầu giữa giai
đoạn mua sản phẩm. Nhiều công ty nhắm đến sản xuất hoặc mua những lô hàng lớn
để đạt được kinh tế nhờ quy mô. Chi phí tồn trữ xác định trên chi phí lưu trữ, xử lý
và bảo hiểm hàng tồn kho.
• Tồn kho an toàn – là lượng hàng tồn kho được lưu trữ nhằm chống lại sự bất
trắc. Nếu dự báo nhu cầu được thực hiện chính xác hoàn toàn thì hàng tồn kho chỉ
cần thiết ở mức tồn kho định kỳ. Mỗi lần dự báo đều có những sai số nên để bù đắp
việc không chắc chắn ở mức cao hay thấp hơn bằng cách tồn trữ hàng khi nhu cầu
đột biến so với dự báo.
• Tồn kho theo mùa – đây là tồn trữ xây dựng dựa trên cơ sở dự báo. Tồn kho
sẽ tăng theo nhu cầu và nhu cầu này thường xuất hiện vài lần trong năm. Một lựa
chọn khác với tồn trữ theo mùa là hướng đến đầu tư khu vực sản xuất linh hoạt có
thể thay đổi tỷ lệ sản xuất các sản phẩm khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng.
Trong trường hợp này, vấn đề cần chính là sự đánh đổi giữa chi phí tồn trữ theo

mùa và chi phí để có được khu sản xuất linh hoạt.
1.1.3.3. Địa điểm:
Địa điểm liên quan đến vị trí, hoạt động được thực hiện ở các bộ phận của
chuỗi cung ứng. Sự lựa chọn ở đây chính là tính đáp ứng nhanh và hiệu quả. Các
quyết định sẽ tập trung vào hoạt động ở một số khu vực để đạt được hiệu quả và
tính kinh tế nhờ quy mô. Các quyết định sẽ tập trung vào các hoạt động ở các khu
vực gần khách hàng và nhà cung cấp để hoạt động đáp ứng kịp thời hơn.
12
Quyết định về địa điểm được xem như là một quyết định chiến lược vì ảnh
hưởng lớn đến tài chính trong kế hoạch dài hạn. Khi quyết định về địa điểm, nhà
quản lý cần xem xét hàng loạt các yếu tố liên quan đến như chi phí phòng ban, lao
động, kỹ năng cần có trong sản xuất, điều kiện cơ sở hạ tầng, thuế… và gần với nhà
cung cấp hay người tiêu dùng.
Quyết định địa điểm có tác động mạnh đến chi phí và đặc tính hoạt động của
chuỗi cung ứng. Quyết định địa điểm phản ánh chiến lược cơ bản của một công ty
về việc xây dựng và phân phối sản phẩm đến thị trường. Khi định được địa điểm, số
lượng và kích cỡ… thì chúng ta xác định được số lượng kênh phân phối sản phẩm
đến người tiêu dùng cuối cùng.
1.1.3.4. Vận tải:
Vận tải liên quan đến việc di chuyển từ nguyên vật liệu, bán thành phẩm và
thành phẩm trong chuỗi cung ứng. Việc cân đối giữa tính đáp ứng nhanh và hiệu
quả thể hiện qua việc lựa chọn phương thức vận tải. Phương thức vận tải nhanh nhất
là máy bay vì đáp ứng nhanh nhất cũng tốn chi phí nhiều nhất. Phương thức vận tải
chậm hơn như tàu thủy, xe lửa thì rất có hiệu quả về chi phí nhưng đáp ứng không
kịp thời. Chi phí vận tải có thể bằng 1/3 chi phí vận hành của chuỗi cung ứng nên
quyết định chọn lựa ở đây là rất quan trọng.
Có 6 phương thức vận tải mà công ty có thể lựa chọn:
• Tàu thủy: rất có hiệu quả về chi phí nhưng là hình thức vận chuyển chậm
nhất. Nó giới hạn sử dụng các địa điểm phù hợp với tàu thuyền đi lại như sông, biển,
kênh đào…

• Xe lửa: cũng rất có hiệu quả về chi phí nhưng chậm. Nó cũng giới hạn sử
dụng giữa những nơi có lưu thông xe lửa.
• Xe tải: là hình thức vận chuyển tương đối nhanh và rất linh hoạt. Xe tải hầu
như có thể đến mọi nơi. Chi phí của hình thức này dễ biến động vì chi phí nhiên liệu
biến động và đường xá thay đổi.
• Máy bay: là hình thức vận chuyển rất nhanh, đáp ứng rất kịp thời. Đây cũng
là hình thức có chi phí đắt nhất và bị hạn chế bởi công suất vận chuyển.
• Đường ống dẫn: rất có hiệu quả nhưng bị giới hạn bởi những mặt hàng là
chất lỏng hay chất khí như nước, dầu và khí thiên nhiên.
13
• Vận chuyển điện tử: đây là hình thức vận chuyển nhanh nhất, rất linh hoạt và
có hiệu quả về chi phí. Hình thức này chỉ được sử dụng để vận chuyển loại sản
phẩm như năng lượng điện, dữ liệu và các sản phẩm được tạo từ dữ liệu như hình
ảnh, nhạc, văn bản.
Nhà quản lý cần thiết kế lộ trình và mạng lưới phân phối sản phẩm đến thị
trường với các địa điểm khác nhau và phương thức vận tải khác nhau trong chuỗi
cung ứng. Lộ trình là một đường dẫn mà sản phẩm sẽ di chuyển qua. Mạng lưới
phân phối là sự phối hợp của các lộ trình và các phương tiện kết nối các lộ trình đó.
Theo nguyên tắc chung, giá trị của sản phẩm càng cao (như linh kiện điện tử, dược
phẩm…) thì mạng lưới phân phối càng nhiều sẽ làm nổi bật tính đáp ứng. Giá trị
sản phẩm càng thấp như sản phẩm có số lượng lớn (như nông sản, rác thải…) thì
mạng lưới phân phối càng nhiều sẽ làm nổi bật tính hiệu quả.
1.1.3.5. Thông tin:
Thông tin là một vấn đề quan trọng để ra quyết định đối với bốn tác nhân
thúc đẩy của chuỗi cung ứng. Đó là sự kết nối giữa tất cả các hoạt động trong một
chuỗi cung ứng. Trong phạm vi này, sự kết nối là mạnh (ví dụ như dữ liệu chính xác,
kịp thời và đầy đủ) thì các công ty trong chuỗi cung ứng sẽ có thể quyết định tốt đối
với các hoạt động của riêng họ. Điều này giúp cho việc cực đại hóa lợi nhuận của
toàn bộ chuỗi cung ứng. Đó là cách mà thị trường chứng khoán hay các thị trường
tự do khác thực hiện và chuỗi cung ứng mang tính năng động giống như thị trường.

Có hai chức năng nổi bật của thông tin như sau:
• Phối hợp các hoạt động hàng ngày – liên quan đến chức năng của bốn tác
nhân thúc đẩy khác của chuỗi cung ứng: sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận tải. Các
công ty trong chuỗi cung ứng sử dụng các dữ liệu sẵn có về cung – cầu sản phẩm để
quyết định lịch trình sản xuất hàng tuần, mức tồn kho, lộ trình vận chuyển và địa
điểm tồn trữ.
• Dự báo và lập kế hoạch – để dự báo và đáp ứng nhu cầu trong tương lai.
Thông tin dự báo được sử dụng để bố trí lịch trình sản xuất hàng ngày, hàng tháng,
hàng quý. Thông tin dự báo cũng được sử dụng cho việc ra quyết định chiến lược có
nên lập các phòng ban mới, thâm nhập thị trường mới, rút lui khỏi thị trường đang
tồn tại…
14
Trong phạm vi của một công ty, cân đối giữa tính kịp thời và tính hiệu quả
liên quan đến việc đo lường lợi ích mà thông tin đem lại cũng như chi phí có được
thông tin đó. Thông tin chính xác giúp dự báo tốt hơn và hoạt động cung ứng hiệu
quả. Tuy nhiên, chi phí xây dựng và thiết lập hệ thống phân phối thông tin có thể rất
cao.
Trong phạm vi tổng thể chuỗi cung ứng, các công ty quyết định tính kịp thời
và tính hiệu quả chính là quyết định bao nhiêu thông tin chia sẻ cho các công ty
khác và bao nhiêu thông tin giữ lại cho công ty mình. Các công ty chia sẻ thông tin
càng nhiều về sản phẩm, nhu cầu khách hàng, dự báo thị trường, lịch trình sản
xuất… thì mỗi công ty càng đáp ứng kịp thời. Nhưng việc công khai này lại liên
quan đến việc tiết lộ thông tin công ty có thể sử dụng chống lại các đối thủ cạnh
tranh. Chi phí tiềm ẩn này cộng thêm tính cạnh tranh cao có thể gây thiệt hai đến lợi
nhuận của công ty.
1.1.4. Những đối tượng tham gia vào chuỗi cung ứng
Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung ứng bao gồm công ty, các nhà
cung cấp và khách hàng của công ty đó. Đây là tập hợp những đối tượng tham gia
cơ bản để tạo ra một chuỗi cung ứng cơ bản.
Trong chuỗi cung ứng cũng có sự kết hợp của một số công ty thực hiện những

chức năng khác nhau. Những công ty đó là nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán sỉ,
nhà bán lẻ và khách hàng cá nhân hay khách hàng là tổ chức. Những công ty thứ cấp
này sẽ có nhiều công ty khác nhau cung cấp hàng loạt những dịch vụ cần thiết.
Hình 1.3: Đối tƣợng tham gia vào chuỗi cung ứng
Nhà cung cấp dịch vụ
Nhà sản
xuất
Nhà phân
phối
Nhà bán
lẻ
Khách
hàng
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
15
1.1.4.1. Nhà sản xuất
Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Nhà sản xuất bao gồm
những công ty sản xuất nguyên vật liệu và công ty sản xuất thành phẩm. Các nhà
sản xuất nguyên vật liệu như khai thác khoáng sản, khoan tìm dầu khí, cưa gỗ… và
cũng bao gồm những tổ chức trồng trọt, chăn nuôi hay đánh bắt thuỷ hải sản. Các
nhà sản xuất thành phẩm sử dụng nguyên vật liệu và các bộ phận lắp ráp được sản
xuất ra từ các công ty khác.
1.1.4.2. Nhà phân phối
Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ nhà sản
xuất và phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được xem là nhà
bán sỉ. Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh doanh khác với số lượng
lớn hơn so với khách hàng mua lẻ. Do sự biến động nhu cầu về sản phẩm, nhà phân
phối tồn trữ hàng hóa, thực hiện bán hàng và phục vụ khách hàng.
Một nhà phân phối điển hình là một tổ chức sở hữu nhiều sản phẩm tồn kho
mua từ nhà sản xuất và bán lại cho người tiêu dùng. Ngoài khuyến mãi sản phẩm và

bán hàng, có những chức năng khác mà nhà phân phối phải thực hiện là quản lý tồn
kho, vận hành cửa hàng, vận chuyển sản phẩm cũng như chăm sóc khách hàng.
Nhà phân phối cũng là một tổ chức chỉ đại diện bán hàng giữa nhà sản xuất
và khách hàng, không bao giờ sở hữu sản phẩm đó. Loại nhà phân phối này thực
hiện chức năng chính yếu là khuyến mãi và bán sản phẩm.
Với cả hai trường hợp này, nhà phân phối là đại lý nắm bắt liên tục nhu cầu
của khách hàng, làm cho khách hàng mua sản phẩm từ các công ty sản xuất.
1.1.4.3. Nhà bán lẻ
Nhà bán lẻ tồn trữ sản phẩm và bán cho khách hàng với số lượng nhỏ hơn.
Nhà bán lẻ trong khi bán hàng cũng nắm bắt ý kiến và nhu cầu của khách hàng rất
chi tiết. Do nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình bán,
nhà bán lẻ thường quảng cáo và sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa
chọn và sự tiện dụng của sản phẩm.
1.1.4.4. Khách hàng
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua và sử
dụng sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp với sản
16
phẩm khác rồi bán chúng cho khách hàng khác là người sử dụng sản phẩm sau/ mua
sản phẩm về tiêu dùng.
1.1.4.5. Nhà cung cấp dịch vụ
Đó là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà
bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chuyên môn và kỹ năng đặc
biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có thể thực
hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính các nhà
sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này.
Trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, nhà cung cấp phổ biến nhất là cung cấp
dịch vụ vận tải và dịch vụ nhà kho. Đây là các công ty xe tải và công ty kho hàng và
thường được biết đến là nhà cung cấp hậu cần.
Nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp các dịch vụ như cho vay, phân tích
tín dụng và thu các khoản nợ đáo hạn. Đó chính là ngân hàng, công ty định giá tín

dụng và công ty thu nợ.
Một số nhà cung cấp thực hiện nghiên cứu thị trường, quảng cáo, thiết kế sản
phẩm, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý và tư vấn quản lý. . .
Chuỗi cung ứng bao gồm nhiều đối tượng tham gia và những đối tượng này
được chia ra thành một hay nhiều loại. Điều cần thiết của chuỗi cung ứng là duy trì
tính ổn định theo thời gian. Những gì thay đổi chính là sự tác động và vai trò của
các đối tượng tham gia trong chuỗi cung ứng nắm giữ.
1.2. Chuỗi cung ứng mặt hàng giầy dép
1.2.1. Đặc điểm của ngành giầy dép
Một là, vòng đời sản phẩm ngắn: Sản phẩm của ngành giầy dép rất đa dạng,
nhiều chủng loại và vòng đời ngắn. Sở dĩ như vậy chính là vì sản phẩm giầy dép
mang tính thời trang cao. Con người sử dụng sản phẩm giầy dép ngoài công dụng
bảo vệ đôi chân, còn góp phần làm tôn vẻ đẹp sang trọng, lịch sự của người sử dụng
nó. Tâm lý con người là thích đổi mới, sáng tạo, thậm chí độc đáo và gây ấn tượng.
Do vậy, sản phẩm giầy dép cũng phải luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu này. Kinh
tế càng phát triển thì nhu cầu giầy dép càng cao và mẫu mã luôn thay đổi. Ngày nay
ở các nước phát triển mỗi người không chỉ có một vài đôi giầy dép, nhất là nữ giới,
17
họ có thể có hàng chục đôi giầy dép với mẫu mã rất phong phú, màu sắc đa dạng và
không đòi hỏi độ bền cao.
Ngoài ra, sản phẩm của ngành giầy dép còn bị chi phối bởi các yếu tố như
văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, khí hậu, giới tính, tuổi tác… Vì vậy, các sản
phẩm của ngành giầy dép thường rất phong phú đa dạng.
Yếu tố thời vụ của công nghiệp giầy dép rất cao, sản phẩm của mùa này khó
có thể tiêu thụ được trong mùa khác. Đây là một điểm quan trọng mà các nhà sản
xuất phải nắm bắt và tổ chức sản xuất đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.
Hai là, giải quyết vấn đề việc làm cho nhiều người do sử dụng nhiều lao
động thủ công : Do đặc điểm về công nghệ nên dù có được hiện đại hóa đến đâu thì
trước mắt và lâu dài, công nghiệp giầy dép vẫn tồn tại những công đoạn cần tới lao
động thủ công của bàn tay con người. Do vậy, cùng với sự lớn mạnh của công

nghiệp giầy dép thì số lượng lao động thu hút vào ngành công nghiệp này ngày càng
đông, chưa kể các ngành có liên quan đến sự phát triển của công nghiệp giầy dép
như công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hóa chất và đặc biệt trong lĩnh vực
nông nghiệp để tạo ra các loại nguyên liệu cho công nghiệp giầy dép.
Cũng do công nghệ không quá phức tạp, lao động của ngành lại dễ đào tạo,
nên có thể tổ chức đào tạo sản xuất nhiều khâu phân tán ở các hộ gia đình. Chính vì
vậy, công nghiệp giầy dép đã tồn tại và phát triển ở hầu hết các nước đang phát triển
hoặc chậm phát triển, nơi có giá nhân công thấp và đang ở giai đoạn đầu của sự
công nghiệp hóa đất nước.
Ba là, vốn đầu tư ban đầu nhỏ: Công nghệ của ngành nói chung không quá
phức tạp, dễ tiếp cận và vận hành. Với công nhân chỉ cần kèm cặp trên dây chuyền
từ 1-2 tháng là có thể vận hành được. Nếu đầu tư 01 dây chuyền đồng bộ trị giá
500.000 USD, thì tạo việc làm cho khoảng 400 lao động. Như vậy suất đầu tư cho
một lao động sản xuất giầy khoảng 1.250 USD/lao động. Trong khi đó suất đầu tư
của ngành giấy là gần 30.000 USD/lao động và công nghiệp nặng còn cao hơn nữa.
Thời gian thu hồi vốn của ngành giầy dép cũng nhanh hơn so với nhiều
ngành công nghiệp khác: Thời gian thu hồi vốn của ngành giầy dép là 5-7 năm.
Trong khi các ngành công nghiệp nặng thời gian thu hồi vốn là 10-20 năm.
18
Bốn là, thị trường của ngành giầy dép tập trung chủ yếu ở các nước phát triển,
các khu vực kinh tế phát triển, các khu vực khí hậu hàn đới như: Châu Âu, Mỹ,
Nhật, Hàn…Các khu vực, các nước kinh tế chậm phát triển và khí hậu nhiệt đới thì
có nhu cầu rất thấp. Sở dĩ như vậy vì tại các quốc gia phát triển, người tiêu dùng có
thu nhập bình quân đầu người cao, nên có điều kiện cập nhật sản phẩm có xu hướng
thời trang mới nhất. Hơn nữa trong lĩnh vực thời trang thường có hai mùa chủ đạo
là mùa Xuân – Hè và Thu – Đông, hai mùa này phù hợp với các khu vực có khí hậu
ôn đới nên số lượng tiêu thụ giày dép tại khu vực này thường cao hơn khu vực khí
hậu nhiệt đới. Đây là một đặc điểm quan trọng cần lưu ý khi xây dựng chiến lược
phát triển thị trường cho mỗi nước.
Năm là, ngành giầy dép phát triển mạnh ở những nước đang phát triển và

chậm phát triển: Vì ở đó giá lao động rẻ, số lượng đơn hàng gia công luôn ở mức
cao, sản xuất theo dây chuyền lớn. Còn ở các nước phát triển thì tiêu dùng lượng
giầy dép lớn nhưng sản xuất thì rất ít, do tiền lương cao nên chủ yếu phải nhập khẩu.
Sáu là, giầy dép là ngành có khả năng xuất khẩu thu ngoại tệ, tạo tích lũy ban
đầu cho nền kinh tế: Với điều kiện và khoa học công nghệ và trình độ sản xuất thấp
kém, để có được nguồn thu ngoại tệ cho đầu tư đổi mới khoa học công nghệ, phát
triển sản xuất, việc thu hút ngoại tệ chủ yếu thông qua sản xuất, gia công các loại
hàng hóa có hàm lượng lao động cao để xuất khẩu. Trong đó giầy dép chiếm một
phần đáng kể, nên có vị trí quan trọng trong giai đoạn đầu của sự công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
1.2.2. Chuỗi cung ứng giầy dép
Chuỗi cung ứng giầy dép thông thường bao gồm năm công đoạn chính như
sau:
• Thiết kế, nghiên cứu tạo sản phẩm mới
• Chế tạo máy móc thiết bị, công cụ sản xuất và công nghệ, sản xuất nguyên
phụ liệu.
• Tổ chức sản xuất
• Phân phối sản phẩm
• Tiêu thụ sản phẩm
19
Mối quan hệ giữa các công đoạn này được giải thích như sau: dựa trên việc
thiết kế, nghiên cứu tạo sản phẩm mới, các nhà máy sẽ nghiên cứu chế tạo máy móc
thiết bị và sản xuất nguyên phụ liệu. Sau đó, máy móc và nguyên phụ liệu được
cung ứng cho nhà máy sản xuất giày dép để chế tạo sản phẩm theo mẫu thiết kế.
Sản phẩm được hoàn thiện sẽ được phân phối đến tay người tiêu dùng. Khi tiêu thụ
sản phẩm, nếu khách hàng không hài lòng về chất lượng, sản phẩm có thể được đưa
quay trở lại chuỗi cung ứng để đổi trả, triết khấu hoặc sửa chữa lại.
1.2.2.1. Công đoạn thiết kế tạo sản phẩm
Đây là một trong những công đoạn quan trọng và quyết định việc thực hiện
các công đoạn sau, đồng thời đòi hỏi tính sáng tạo cao để mang đến dấu ấn riêng

cho từng dòng sản phẩm, từng hãng thời trang. Để có được sản phẩm được ưa
chuộng trên thị trường và thu hút người tiêu dùng, sản phẩm đó phải có mẫu mã đẹp,
hợp thời trang, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Nếu công đoạn ý tưởng và
thiết kế kém, cho dù các công đoạn sau có được thực hiện tốt như thế nào, sản phẩm
vẫn sẽ không đạt được thành công khi đến với người tiêu dùng. Và điều này có thể
gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Mỗi dòng sản phẩm sẽ theo
đuổi một phân đoạn thị trường mục tiêu. Khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
một cách mạnh mẽ, việc thiết kế sản phẩm phù hợp với từng thị trường khác nhau là
yêu cầu cấp thiết. Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp phải đề ra chiến lược hợp lý
cho mỗi mẫu mã sản phẩm khi tung ra thị trường. Hơn nữa, thời tiết và khí hậu từng
vùng lại khác nhau nên từ khâu thiết kế, nhà thiết kế đã phải nghĩ đến nhiều yếu tố
cho một sản phẩm giầy dép nhất định. Hiện nay, đứng đầu ở khâu này phải kể tới
các kinh đô thời trang ở Pháp, Anh, Italia, Mỹ, Pháp, Trung Quốc… bởi tại đây tập
trung những nhà thiết kế lừng danh thế giới và các sản phẩm mang thương hiệu
quốc tế.
1.2.2.2. Hệ thống sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu; chế tạo máy móc thiết bị,
công cụ sản xuất và công nghệ
Nhóm nguyên phụ liệu cung cấp cho chuỗi cung ứng giầy dép gồm các loại
như: da và giả da, vải, đế giày, phụ liệu trang trí và nguyên liệu phụ trợ.
20
Da thuộc1 là nguyên liệu chính của ngành công nghiệp giày dép. Sau khi thu
mua các sản phẩm da thô từ các nhà cung cấp và các lò mổ tập trung phần lớn là da
trâu, bò, dê… các nhà sản xuất sẽ tiến hành công đoạn thuộc da và sau đó chế biến
thành sản phẩm cuối cùng là các nguyên liệu sử dụng dùng trong nghành công
nghiệp giầy dép. Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò quyết định trong công nghiệp
sản xuất giầy dép. Quốc gia chủ động được khâu này sẽ có được lợi thế rất
lớn.Trong số các quốc gia xuất khẩu giầy dép lớn hiện nay, phần lớn đã xây dựng
được công nghiệp phụ trợ và các nhà máy thuộc da phục vụ trực tiếp cho nghành
công nghiệp giầy dép điển hình như Trung Quốc, Đài Loan… Việc xây dựng các
nhà máy thuộc da đòi hỏi các quốc gia phải có công nghệ xử lý chất thải khá tiên

tiến vì hậu quả ô nhiễm môi trường mà nó gây ra. Hiện nay, Đài Loan, Trung Quốc
và Hàn Quốc là quốc gia cung cấp nguyên phụ liệu giầy dép lớn nhất thế giới. So
với 2 thị trường là Đài Loan và Hàn Quốc, thị trường xuất khẩu nguyên phụ liệu của
Trung Quốc vẫn tạo được sức cạnh tranh hơn nhờ lợi thế về giá cả và chủng loại
nguyên phụ liệu.
Các mặt hàng có thế mạnh của Trung Quốc là đế giày, da thuộc, vải lót, vải
lưới và một số loại phụ liệu khác như khuy, khóa, chỉ…Hơn nữa, Trung Quốc đang
đẩy mạnh phát triển ngành thuộc da trở thành ngành trọng điểm, nâng cao công
nghệ thuộc da trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Điều này sẽ tạo ra
nguồn hàng phong phú giúp các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng tìm kiếm nguồn
nhập khẩu giá cả hợp lý và có chất lượng cao.
Việc chế tạo máy móc thiết bị, các công cụ sản xuất và áp dụng công nghệ
mới cho các nhà máy sản xuất giày dép rất quan trọng. Vì đây là công đoạn giúp
tăng năng suất lao động, giảm chi phí nhân công, tiết kiệm thời gian và sản xuất với
quy mô lớn. Đồng thời cũng là công đoạn đòi hỏi tính sáng tạo và năng lực nghiên
cứu, chế tạo cao. Những doanh nghiệp làm chủ được công nghệ mới sẽ thu được
nguồn lợi nhuận rất lớn. Khi áp dụng các công nghệ mới vào quy trình sản xuất,
người lao động cần được hướng dẫn chi tiết về cách thức sử dụng, phương thức hoạt
động của máy móc, thiết bị; cách khắc phục khi có sự cố; quy trình bảo hành, bảo
dưỡng máy móc.
1
Da thuộc: là da thành phẩm, sau khi được chế biến từ da thô nguyên liệu.

×