Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.64 KB, 87 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua đất nước đã có nhiều thay đổi lớn cả về kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập
mạnh mẽ hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới. Vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng lên. Để phục vụ cho hoạt động buôn bán, giao lưu
ngày một phát triển trong nền kinh tế - một nhu cầu bức thiết của xã hội thì
điều tiên quyết là phải phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó cơ sở hạ tầng giao
thông chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống đường xá, cầu cống phải được mở
rộng hơn và nâng cấp hơn để đảm bảo cho việc vận chuyển nhanh chóng,
thuận tiện, mà trước hết là an toàn hơn.
Do sự tăng lên quá nhanh của các phương tiện giao thông (đặc biệt là xe cơ
giới), nên mặc dù cơ sở hạ tầng giao thông đã có sự phát triển hơn nhưng tình
hình tai nạn giao thông vẫn là vấn đề đáng lo ngại cho toàn xã hội. Tai nạn
xảy ra kéo theo tổn thất về người và của, điều đó chẳng những gây đau đớn về
mặt tinh thần cho người thân mà còn làm thiệt hại về kinh tế cho gia đình và
xã hội. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời để đảm bảo về mặt tài chính
cho các chủ xe mỗi khi phương tiện của họ không may gặp rủi ro, góp phần
bảo vệ sự an toàn chung của xã hội.
Nhưng một thực tế hiện nay đó là số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất
xe còn tương đối thấp so với tổng lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Điều
này có thể là do: Các sản phẩm bảo hiểm còn xa lạ với người dân, do vấn đề
thu nhập, do các sản phẩm bảo hiểm vật chất xe chưa thực sự hấp dẫn, hoặc
do hoạt động giám định - bồi thường của các công ty bảo hiểm chưa đáp ứng
được mong muốn của khách hàng, gây mất lòng tin cho khách hàng…Vì vậy
cần phải có những giải pháp hữu hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một
nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

1
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương


lai. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài: : “Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất
xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội” với
mong muốn được đóng góp một số ý kiến để hoạt động này ngày càng được
nâng cao, tạo niềm tin cho khách hàng vào công ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo
Th.s Tô Thiên Hương, các anh chị ở văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy để em có
thể hoàn thành được chuyên đề thực tập của mình. Trong quá trình hoàn thành
chuyên đề, do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo
và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

2
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ
giới.
I. Sự cần thiết khách quan phải có bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.Lịch sử hình thành bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.1. Vai trò của ngành giao thông vận tải trong nền kinh tế.
Giao thông vận tải là một ngành dịch vụ, tham gia vào việc cung ứng
vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản
phẩm đến thị trường tiêu thụ, giúp cho các quá trình sản xuất xã hội diễn ra
liên tục và bình thường. Trong nền kinh tế quốc dân, giao thông và vận tải
đường bộ được xem là một ngành giữ vị trí rất quan trọng, giao thông đường
bộ được ví như “mạch máu” của nền kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải
phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được
thuận tiện.
Các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện nhờ

mạng lưới giao thông vận tải. Vì thế, những nơi nằm gần các tuyến vận tải lớn
hoặc các đầu mối giao thông vận tải cũng là những nơi tập trung các ngành
sản xuất, dịch vụ và dân cư. Nhờ hoàn thiện kỹ thuật, mở rộng cự li vận tải,
tăng tốc độ vận chuyển mà các vùng xa xôi về mặt địa lí cũng trở nên gần.
Những tiến bộ của ngành vận tải đã có tác động to lớn làm thay đổi sự phân
bố sản xuất và phân bố dân cư trên thế giới.
Ngành giao thông vận tải phát triển góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế,
văn hoá ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế,
tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước và tạo nên mối giao lưu kinh
tế giữa các nước trên thế giới.
Với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, sự phân công lao động ngày
càng mở rộng, là điều kiện phát triển của ngành giao thông vận tải nói chung.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

3
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Tuy vậy có một thực tế là cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ nước ta còn
nhiều yếu kém, không đồng bộ và chưa tương xứng với sự phát triển chóng
mặt của các phương tiện xe cơ giới, có nhiều đoạn đường không đạt tiêu
chuẩn về chất lượng, tỷ lệ nhựa thấp, đường có bề mặt rộng cho hai làn xe còn
ít, nhiều con đường bị xuống cấp nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do
nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, chưa đủ điều kiện để một lúc có thể
làm thay đổi toàn bộ cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Mặc dù trong những
năm qua, để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà Nước ta
đã đầu tư rất lớn cho cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ thông qua nguồn vốn
từ ngân sách Nhà Nước và sự hỗ trợ từ nguồn vốn vay của các chính phủ nước
ngoài, nguồn vốn này đã được sử dụng cho việc làm mới và nâng cấp nhiều
con đường quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để đáp ứng nhu cầu đi lại của
nhân dân và các hoạt động kinh tế xã hội khác. Bên cạnh đó thời tiết khí hậu
nước ta luôn có những diễn biến bất thường, mưa lớn lũ lụt xảy ra hàng năm

làm xuống cấp nghiêm trọng nhiều đoạn đường, có đoạn còn bị phá hủy hoàn
toàn.
Xe cơ giới là phương tiện phổ biến nhất của giao thông đường bộ với các
tính năng linh hoạt, vận hành tốt ở các loại địa hình, thuận tiện trong việc
chuyên chở hành khách và hàng hóa, đồng thời nó có tốc độ vận chuyển
nhanh, lưu lượng xe lớn, chi phí rẻ hơn so với các loại hình vận chuyển khác
cho nên rất được ưa chuộng. Hơn nữa, cùng với nhịp tăng trưởng nhanh, nhu
cầu vận chuyển lưu thông hàng hóa giữa các vùng tăng nhanh, do đó sự gia
tăng nhanh chóng của phương tiện xe cơ giới là điều tất yếu.
1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tai nạn xe cơ giới.
1.2.1. Nguyên nhân.
Xe cơ giới là phương tiện rất tiện ích trong giao thông vận tải đường bộ.
Tuy nhiên mặt trái của hình thức vận chuyển này là vấn đề an toàn trong vận
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

4
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
hành, là mức độ nguy hiểm lớn, khả năng gây tai nạn cao do số lượng đầu xe
quá dày đặc, đa dạng về chủng loại lại bất cập về chất lượng. Theo thống kê
của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia thì có tới hơn 80% các vụ tai nạn giao
thông là do hoạt động giao thông đường bộ gây ra và đều liên quan đến điều
khiển xe cơ giới.Vậy nguyên nhân nào gây nên những vụ tai nạn này?
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên những vụ tai nạn xe cơ giới, nhưng
chúng ta có thể gộp thành 3 nguyên nhân chính sau:
- Do người điều khiển xe khi tham gia giao thông.
+ Sử dụng chất kích thích khi tham gia giao thông như rượu, bia…
+ Cố tình vi phạm luật lệ an toàn giao thông như vượt đèn đỏ, đi vào
đường cấm, đường ngược chiều…
+ Lạng lách, đánh võng, đua xe, phóng nhanh, vượt ẩu dẫn đến họ không
làm chủ được tốc độ của mình.

+ Những người tham gia giao thông chưa được trang bị các kiến thức về
luật an toàn giao thông một cách đầy đủ. Đồng thời chất lượng đào tạo lái xe ở
các trung tâm còn kém.
+ Người tham gia giao thông không có giấy phép hợp lệ….
- Do bản thân xe tham gia giao thông.
+ Hệ thống an toàn của xe không đảm bảo tiêu chuẩn kĩ thuật đề ra.
+ Thời gian sử dụng xe đã quá lâu và xe đã quá cũ nát…
- Do cơ sở hạ tầng.
+ Đường xá, cầu cống còn kém chất lượng, mặc dù chúng ta đã cố gắng
khắc phục nhưng vẫn không theo kịp tốc độ tăng của lượng xe tham gia giao
thông, đặc biệt là nền kinh tế mở cửa và phát triển như hiện nay.
+ Địa hình ở nước ta khá phong phú và phức tạp, đồng thời thời tiết cũng
phức tạp, thường xuyên xảy ra lũ lụt và có sương mù. Đây là nguy cơ tiềm ẩn
của tai nạn giao thông.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

5
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
1.2.2. Hậu quả.
Dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì những vụ tai nạn xe cơ giới cũng
mang lại những hậu quả khó lường. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ
(TNGTĐB) hiện nay là mối hiểm hoạ đối với đời sống con người. Thiên tai
hay một cuộc chiến tranh nào rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng TNGTĐB
trong điều kiện sinh hoạt và sự phát triển của con người thì khó có thể khẳng
định được hồi kết thúc. Từ năm 1996 đến hết năm 2007, ở nước ta xảy ra
233.831 vụ TNGTĐB, làm chết 114.906 người, làm bị thương 244.550 người.
Tính trung bình mỗi ngày xảy ra 54 vụ TNGTĐB, làm chết 27 người và làm
bị thương 56 người. Riêng thiệt hại về tài sản, vật chất (cả hữu hình và vô
hình) là rất lớn, khó mà tính ra con số chính xác được. Theo ước tính trung
bình mỗi năm Việt Nam tốn khoảng 900 USD cho vấn đề tai nạn giao thông.

Hệ lụy của TNGTĐB là một gánh nặng của xã hội. Phần lớn tổn thất về
người (tính mạng, sức khoẻ) của loại tai nạn này nhằm vào những người có
sức khoẻ, năng động và là lao động chính của nhiều gia đình. Sau khi vụ, việc
giao thông đường bộ xảy ra, có thiệt hại về người và tài sản, nếu có: người
điều khiển phương tiện vi phạm các qui định về an toàn giao thông bị kết án tù
– xã hội phải lo; người chết do tai nạn – xã hội phải lo; người bị thương tích,
tàn phế - xã hội phải lo điều trị và nuôi dưỡng; tài sản, công trình, phương tiện
hư hỏng do tai nạn gây ra – xã hội phải lo sửa chữa, khắc phục…và còn rất
nhiều tổn thất khác có liên quan – xã hội cũng phải lo với biết bao nỗi niềm
xót thương, bức xúc, trăn trở.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

6
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Bảng 1 : Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam
(giai đoạn 1996-2007).
Năm
Số vụ tai
nạn
(vụ)
Số người bị
chết (người)
Số người bị
thương
(người)
Số vụ tai nạn
xảy ra bq
ngày (vụ)
1996 19.075 5.581 21.556 52,26
1997 19.159 5.680 21.905 52,49

1998 19.975 6.067 22.723 54,73
1999 20.733 6.670 23.911 56,80
2000 22.486 7.500 25.400 61,61
2001 25.040 10.477 29.188 68,60
2002 27.134 12.800 30.733 74,34
2003 19.852 11.319 20.400 54,39
2004 16.911 11.739 15.142 46,33
2005 14.141 11.184 11.760 38,74
2006 14.701 12.739 11.286 40,28
2007 14.624 13.150 10.546 40,07
(Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Trước thực trạng của loại tai nạn này, những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước tập trung chỉ đạo quyết liệt; các cấp, các ngành nỗ lực tổ chức thực hiện,
huy động nhiều lực lượng, sử dụng nhiều phương tiện, triển khai đồng bộ
nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, kiềm chế tiến tới giảm dần TNGTĐB. Có
lúc, có nơi lực lượng trực tiếp thực hiện công tác đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ hoạt động “hết công suất”. Nhờ vậy mà TNGTĐB được kiềm
chế và nếu xét theo xu thế phát triển chung có thể nói rằng tỷ lệ TNGTĐB
giảm rất nhiều so với nhu cầu đi lại của con người và số phương tiện tham gia
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

7
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
giao thông đường bộ ngày càng tăng; tình hình trật tự an toàn giao thông
đường bộ có bước chuyển biến tích cực, dư luận phấn khởi, ủng hộ.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Tai nạn, rủi ro là điều mà không một cá nhân, tổ chức nào mong muốn.
Nhưng trên thực tế thì tai nạn, rủi ro lại hàng ngày, hàng giờ vẫn luôn xảy ra
đe dọa đến tính mạng, sự an toàn của mọi người với các mức độ khác nhau.

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người cũng phần nào kiểm soát
và hạn chế được một số rủi ro, song cũng chính bàn tay con người lại làm cho
các rủi ro khác hoành hành giữ dội hơn.
Sự phát triển nhanh chóng của phương tiện cơ giới một mặt đem lại cho
con người một hình thức vận chuyển thuận tiện, kịp thời, rẻ và đặc biệt phù
hợp với nhu cầu của đại đa số dân cư Việt Nam hiện nay. Nhưng chính do tính
cơ động cao nên nguy cơ gây ra rủi ro tai nạn của xe cơ giới là rất lớn.
Riêng ở Việt Nam, theo Ủy ban an toàn giao thông (ATGT) Quốc gia,
trong vòng 12 năm từ năm 1995 đến năm 2007 số lượng phương tiện xe cơ giới
tăng 26,83 lần từ 3.918.935 chiếc lên 24.650.681 chiếc, bình quân hàng năm
tăng 16,8%. Trong đó ô tô tăng từ 340.779 chiếc đến 1.485.915 chiếc (tăng4,36
lần), mô tô tăng 6,47 lần từ 3.578.156 chiếc lên 23.164.766 chiếc. Qua bảng
trên ta thấy, số lượng xe cơ giới tăng rất nhanh qua các năm đặc biệt là trong
giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2001, ô tô tăng 15,12 % từ 483.917 chiếc đến
557.092 chiếc, xe mô tô tăng 34,60 % từ 625.823 chiếc đến 2.148.219 chiếc.
Tính đến hết năm 2007, tổng số lượng xe cơ giới của cả nước là 24.650.681 xe
trong đó 1.485.915 ô tô và 23.164.766 mô tô. Mặc dù tốc độ gia tăng các loại
phương tiện xe cơ giới cao như vậy nhưng tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng
ngành giao thông vận tải đường bộ còn hạn chế, còn nhiều vấn đề tồn tại cần
giải quyết. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2007 cả nước có khoảng 254.523 km
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

8
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
đường bộ thì chỉ có khoảng trên 50% được rải nhựa nhưng chất lượng kém và
ngày càng xuống cấp trầm trọng. Điều này thể hiện sự yếu kém của cơ sở hạ
tầng trong ngành giao thông nước ta.
Bảng 2 : Số lượng xe cơ giới tham gia giao thông từ năm 1995 – 2005
Năm Ô tô (chiếc) Mô tô (chiếc) PTGTCGĐB (chiếc)
1995 340.779 3.578.156 3.918.935

1996 386.979 4.208.274 4.595.253
1997 418.768 4.827.219 5.245.987
1998 443.000 5.200.000 5.643.000
1999 465.000 5.585.000 6.050.000
2000 483.917 6.210.823 6.694.740
2001 557.092 8.359.042 8.916.134
2002 607.401 10.273.000 10.880.401
2003 675.000 11.379.000 12.054.000
2004 774.824 13.375.992 14.150.816
2005 891.104 16.086.644 16.977.748
2006 1.024.769 19.303.972 20.328.741
2007 1.485.915 23.164.766 24.650.681
( Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Cùng với sự phát triển bất hợp lý, không đồng đều giữa số lượng phương
tiện xe cơ giới với sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là sư gia
tăng các vụ tai nạn giao thông. Chỉ tính riêng tháng 2 năm 2008 đã xảy ra
1.067 vụ, làm chết 1.002 người, bị thương 767 người do tai nạn giao thông. So
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

9
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
sánh tỷ lệ TNGT trên 10.000 phương tiện giao thông cơ giới đường bộ với
tháng 02/2007 giảm 0,26 về số vụ; giảm 0,22 số người chết; giảm 0,29 số
người bị thương. So với tháng 01/2008 giảm 01 vụ; giảm 21 người chết; tăng
130 người bị thương. Điểm đáng chú ý nhất ở đây chính là tai nạn xe cơ giới
luôn chiếm tỷ lệ cao trong các loại hình giao thông vân tải, chiếm 93,7 % về
số vụ, 94,13 % số người chết và 98,8% về số người bị thương, và tỷ lệ này
luôn ở mức ổn định, không thay đổi nhiều qua các năm.
Tai nạn giao thông là vấn đề mang tính xã hội và chỉ có thể hạn chế một
phần nào đó mà không thể kiểm soát một cách tuyệt đối được. Các nước đều

phải đối mặt với tình trạng tai nạn giao thông ngày càng tăng, phải đối mặt với
những thiệt hại không nhỏ về người và của mà chủ phương tiện gây ra. Tuy
nhiên trên thực tế có những chủ phương tiện lại trốn tránh không thực thi, có
khi gây tai nạn rồi bỏ trốn. Bởi thế việc giải quyết bồi thường trở nên khó
khăn, lợi ích của người bị nạn không được đảm bảo, gây ảnh hưởng tiêu cực
trong dư luận xã hội.
Làm thế nào để sẵn sàng có nguồn tài chính cho việc giải quyết bồi thường
hậu quả các vụ tai nạn, bảo vệ quyền lợi của người bị hại? Đây là mối quan
tâm không chỉ của Nhà Nước mà còn của các chủ xe và bản thân người bị
thiệt hại. Nhiều biện pháp được áp dụng khi có tai nạn giao thông xảy ra như
chủ phương tiện lập quỹ dự trữ, đi vay… nhưng các giải pháp này chỉ mang
tính tạm thời, thụ động. Do vậy, các chủ phương tiện phải tìm kiếm các giải
pháp hiệu quả hơn và bảo hiểm chính là giải pháp mang lại hiệu quả cao trong
việc xử lý rủi ro do tai nạn giao thông gây ra. Quỹ bảo hiểm được lập dựa trên
sự đóng góp một khoản tiền nhỏ của các chủ xe cho các công ty bảo hiểm để
bồi thường những thiệt hại khi phương tiện của họ hoạt động gây ra tai nạn.
Xuất phát từ vấn đề đó, bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời đáp ứng kịp
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

10
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
thời nhu cầu khách quan này của xã hội và cũng là điều mong muốn của các
chủ xe, chủ phương tiện.
2.2.Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
 Góp phần ổn định tài chính, khắc phục khó khăn cho chủ xe và lái xe khi
có rủi ro xảy ra.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân
gây nên, nhưng bất kể do nguyên nhân gì thì khi rủi ro xảy ra thường gây cho

con người khó khăn trong cuộc sống. Như chúng ta đã biết việc vận chuyển
hàng hóa bằng phương tiện vận tải đường bộ trong các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hiện nay là điều tất yếu. Xe tải là loại xe có trọng lượng lớn, tính
việt dã cao đáp ứng được nhu cầu chuyên chở hàng hóa lớn của các sơ sở và
doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu không may tai nạn xảy ra thì hậu quả của nó
cũng thật khó lường, không những gây thiệt hại về vật chất mà có khi là cả
tính mạng của con người. Khi có thiệt hại xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì
công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó cho người tham
gia bảo hiểm.Nhờ vậy, việc kinh doanh sẽ ít bị gián đoạn, tài sản hàng hóa
cũng được bù đắp, phần nào hạn chế được tổn thất cho chủ xe hoặc các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, giúp cho họ nhanh chóng khắc phục hậu quả, khó
khăn về mặt tài chính, ổn định đời sống và sản xuất. Nó còn đảm bảo quỹ tài
chính của doanh nghiệp, tránh được những khoản chi bất thường gây mất cân
đối, không làm ảnh hưởng nhiều đến các cá nhân, tổ chức có mối quan hệ trực
tiếp đối với doanh nghiệp. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu
hút được số đông người tham gia.
 Góp phần tăng thu cho ngân sách cho Nhà Nước, để từ đó Nhà nước có
điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

11
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới
đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo
hiểm cho người tham gia để họ ổn định tài chính, khắc phục khó khăn. Như
vậy ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên khi
không may họ gặp rủi ro. Mặt khác, hoạt động bảo hiểm này là bảo hiểm
thương mại nên có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua
các loại thuế, dẫn đến tăng thu cho ngân sách.Ngoài ra, từ một phần số tiền
không phải chi trả bồi thường, nhà bảo hiểm có thể sử dụng để đầu tư tăng

trưởng vốn, cùng với Nhà Nước đầu tư trở lại xây dựng hệ thống đường xá
giao thông, cầu đường…nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng, đảm bảo an toàn cho
nhân dân và từ đó có điều kiện phát triển kinh tế hơn.
 Góp phần ngăn ngừa tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất.
Công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này luôn đi cùng công tác tuyên
truyền, quảng cáo giúp mọi người nhận thức được vai trò của bảo hiểm vật
chất xe cơ giới và những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với phương tiện của
mình. Do vậy họ sẽ tự giác chấp hành luật lệ an toàn giao thông vì lợi ích
trước hết của chính bản thân họ. Bên cạnh đó, việc triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm vật chất xe cơ giới cũng đi liền với việc giúp các cá nhân, tổ chức tăng
cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu rủi ro xuống mức
thấp nhất có thể. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp một cách tích cực để
thực hiện biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp
phòng tránh tai nạn, cùng ngành giao thông làm các biển báo nhắc nhở mọi
người phải kiểm soát được tốc độ khi điều khiển phương tiện trên những đoạn
đường nguy hiểm, những đoạn đường hay xảy ra tai nạn giao thông, đường
lánh nạn…Còn đối với các chủ xe, lái xe là những người trực tiếp điều khiển
các phương tiện giao thông, việc tham gia nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ
giới có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiện của chủ xe, thúc đẩy họ phải
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

12
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
thực hiện các biện pháp an toàn khi lái xe và luôn chăm lo giữ gìn xe của
chính mình.
 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần làm tăng doanh thu cho các
doanh nghiệp bảo hiểm, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp vụ
khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả về

số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng được
nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và cố
gắng tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, số
lượng người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều này
đã làm cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
 Là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã hội, giúp
họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các chủ
xe, lái xe khắc phục hậu quả, xoa dịu bớt những căng thẳng thường gặp giữa
chủ xe , lái xe với nạn nhân của các vụ tai nạn, từ đó làm giảm bớt những bất
đồng trong việc tham gia giao thông đường bộ,đảm bảo sự ổn định cho xã hội.
II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.Đối tượng tham gia bảo hiểm.
Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất cả các loại xe tham gia giao
thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô
và xe máy. Như vậy theo khái niệm này, xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và
một vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải, một ngành kinh tế kỹ
thuật có ảnh hưởng rất lớn đến hầu hết các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng
và đối ngoại; là sợi dây kết nối các mối quan hệ giao lưu, thông thương hàng
hóa giữa các vùng, các khu vực với nhau, giữa trong nước và ngoài nước tạo
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

13
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
điều kiện phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng cao của người
dân. Với thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay, việc đi lại, vận chuyển bằng xe
cơ giới là hình thức chủ yếu và phổ biến, được sử dụng rộng rãi trong nền
kinh tế quốc dân.
Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá
trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Để xác định là xe cơ giới,

người ta thường dùng các tiêu thức sau:
 Xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như
xe đạp, xe do gia súc kéo…).
 Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng chính
động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
 Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển.
Xe cơ giới được cấu thành từ nhiều bộ phận (khối động cơ,hệ thống nhiên
liệu, hệ thống điện, hệ thống truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số,
bộ phận thân vỏ). Các bộ phận này được lắp ráp ăn khớp với nhau theo một
nguyên lý nhất định, mỗi cái có một chức năng nhất định. Hệ thống nhiên liệu
sẽ chuyển hóa nhiên liệu thành cơ năng, cơ năng này được chuyền qua các bộ
phận đến bánh xe - bộ phận duy nhất tiếp xúc với mặt đất để đẩy xe đi dưới sự
điều khiển của con người.
Xe cơ giới được coi là nguồn nguy hiểm nên để trở thành đối tượng bảo
hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật và các điều
kiện pháp lý nhất định - phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký
xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi
trường, giấy lưu hành xe.
Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta thường phân chia xe cơ giới
thành các tổng thành. Trên cơ sở phân chia đó, bên bảo hiểm có thể bảo hiểm
toàn bộ xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận xe. Trong các tổng thành, thân vỏ xe
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

14
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị và nếu có xảy ra tai nạn thì thân vỏ xe cũng
chính là bộ phận bị ảnh hưởng nhiều nhất. Chính vì thế hiện nay các công ty
bảo hiểm của Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm
thân vỏ xe.
 Đối với xe mô tô: do giá trị xe thấp nên chủ xe thường tham gia bảo

hiểm toàn bộ xe.
 Đối với xe ô tô: do chúng có giá trị lớn, vận tốc cao, khu vực lưu chuyển
rộng, một khi rủi ro xảy ra thì chi phí sửa chữa rất tố kém. Đối tượng bảo hiểm
ở đây chính là các xe ô tô vận chuyển hàng hóa, hành khách…có đủ điều kiện
về mặt kỹ thuật (đã qua kiểm định an toàn kỹ thuật và các điều kiện về môi
trường), có giấy phép lưu hành hoạt động trên lãnh thổ quốc gia. Riêng đối với
các loại xe đua, xe tập lái, chạy thử sau khi sửa chữa thì chỉ được bảo hiểm khi
có các thỏa thuận khác giữa hai bên. Chủ phương tiện ô tô có thể lựa chọn tham
gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe và cũng có thể bảo hiểm từng bộ phận của
chiếc xe. Tuy nhiên, nếu bảo hiểm bộ phận thì chỉ có thể bảo hiểm tổng thành
thân xe. Đứng trên góc độ kinh tế kỹ thuật, thông thường xe ô tô được chia
thành bảy tổng thành. Đó là:
 Tổng thành thân vỏ.
 Tổng thành động cơ.
 Tổng thành hộp số.
 Tổng thành cầu trước.
 Tổng thành trục sau.
 Tổng thành hệ thống lái.
 Tổng thành săm lốp.
2. Phạm vi bảo hiểm.
Rủi ro, tai nạn gắn với sự lưu hành xe cơ giới rất đa dạng và chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố. Từ những yếu tố khách quan như thời tiết, địa hình,
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

15
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe như
tình trạng quản lý, bảo dưỡng của chủ xe; ý thức, kỹ năng, kinh nghiệm của
người lái xe…
Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định phạm vi bảo hiểm và quy

định loại trừ trong những mẫu đơn bảo hiểm của các công ty bảo hiểm rất cần
thiết, để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
2.1. Rủi ro được bảo hiểm.
Người bảo hiểm bồi thường cho Chủ xe tham gia bảo hiểm những thiệt hại
vật chất xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của lái xe, chủ
xe, đó là:
- Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật
đổ…
- Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy, nổ…).
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên (bão, lũ lụt, sét đánh,
động đất, mưa đá…).
- Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội (mất cắp, mất cướp toàn bộ, đập
phá…).
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có phạm vi thời gian bảo hiểm 24/24 giờ,
trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm (điều này được ghi
trong giấy chứng nhận bảo hiểm).
Thông thường hợp đồng vật chất xe cơ giới có hiệu lực trên toàn lãnh thổ
quốc gia. Trong hợp đồng mở rộng phạm vi bảo hiểm ra ngoài lãnh thổ quốc
gia theo yêu cầu của người được bảo hiểm thì phải được sự chấp thuận bằng
văn bản của người bảo hiểm.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, người bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

16
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
- Chi phí sửa chữa, thay thế nhằm phục hồi xe nguyên vẹn như trước khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Trị giá các phụ tùng thay mới, trừ khấu hao ngoại trừ trường hợp tham
gia bảo hiểm theo điều kiện “ mới thay cũ ”.

- Tổn thất toàn bộ thực tế hoặc ước tính (trong trường hợp xe bị tổn thất
toàn bộ hoặc ước tính).
Ngoài ra người bảo hiểm còn thanh toán những chi phí cần thiết và hợp lý
phát sinh trong tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm như:
+ Chi phí ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm.
+ Chi phí bảo vệ, kéo xe đến nơi sửa chữa gần nhất.
+ Chi phí giám định tổn thất.
Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở
hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực đối với chủ xe
mới nhưng phải thông báo cho bên bảo hiểm biết và chấp nhận. Tuy nhiên,
nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty
bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu
họ có yêu cầu.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường của người bảo hiểm (bao
gồm cả chi phí) rong một vụ tai nạn không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi
trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
2.2. Rủi ro loại trừ.
Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu
nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe
trong việc quản lý, bảo dưỡng xe, như:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

17
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
- Hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá, giảm dần chất
lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa, trong quá trình
sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
- Hư hỏng về điện hoặc động cơ do xe hoạt động trong vùng bị ngập nước.
- Tổn thất đối với săm lốp trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng

nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một vụ tai
nạn.
- Hành động cố ý phá hoại của chủ xe, lái xe.
Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật và/hoặc độ trầm trọng của
rủi ro tăng lên, đó là những tai nạn xảy ra khi:
- Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
- Lái xe say rượu bia, có sử dụng ma túy, hoặc các chất kích thích khác
trong khi điều khiển xe.
- Xe vận chuyển chất cháy nổ trái phép (không có giấy phép vận chuyển
hoặc vận chuyển trái với quy định trong giấy phép vận chuyển).
- Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách theo quy định.
- Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường phương tiện cơ giới đường bộ.
- Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn.
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
Loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như: chiến tranh, bạo
loạn…
Những quy định loại trừ khác như:
- Loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị
thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

18
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
- Loại trừ thiệt hại do mất cắp bộ phận xe.
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi
thường cho chủ xe khi:
- Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội

dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
- Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, trong việc
đòi người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người
bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.
3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
3.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH).
GTBH của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm
người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe
tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Trong thực
tế, việc đánh giá giá trị bảo hiểm của xe rất phức tạp nhất là ở Việt Nam hiện
nay có rất nhiều xe đã qua sử dụng, sửa chữa tân trang lại…Mặt khác, giá xe
trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới
tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Do đó,
các công ty bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe:
- Loại xe
- Năm sản xuất
- Mới độ mới, cũ của xe
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Một phương pháp xác định GTBH mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng
đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể:
GTBH = Giá trị ban đầu – khấu hao (nếu có).
Về nguyên tắc để xác định giá trị xe một cách đầy đủ và chính xác nhất thì
phải thành lập một hội đồng đánh giá giá trị hoặc tổ chức đấu thầu. Nhưng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

19
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
trong thực tế thì các bên không đủ chi phí và thời gian để làm như vậy với
hàng trăm chiếc xe tham gia bảo hiểm. Do đó trước khi tham gia bảo hiểm các
công ty bảo hiểm và các chủ xe sẽ tiến hành thỏa thuận đánh giá giá trị thực tế

của xe theo cách sau:
 Đánh giá giá trị thực tế của xe theo thị trường: Doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ cùng chủ xe thỏa thuận xác định giá trị thực tế của xe trên thị trường kết hợp
với giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình sử dụng. Việc xác định
giá trị thực tế của xe trên thị trường căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Giá mua ban đầu của xe.
+ Giá mới của xe cùng loại trên thị trường vào thời điểm hiện tại có
tham khảo bảng giá trị xe mới do doanh nghiệp bảo hiểm ban hành hàng năm
và giá xe tại các hãng xe ô tô trên cơ sở sự biến động về giá cả xe mới trên thị
trường.
+ Xu hướng tiêu dùng các loại xe của thị trường, tình hình sản xuất
trong nước hoặc nhập khẩu của các xe cùng loại hay các phụ tùng thay thế.
+ Tình trạng hao mòn thực tế của xe: Có thể dựa vào các căn cứ sau
để đánh giá:
 Số km đã khai thác trên thực tế.
 Số năm đã sử dụng xe, mục đích sử dụng xe.
 Tần suất sử dụng xe hay hệ số khai thác.
 Đặc điểm địa hình hoặc điều kiện đường xá của vùng
hay tuyến mà xe thường xuyên hoạt động.
 Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên
thực tế.
 Giá mua bán trên thị trường của các xe tương đối cùng loại.
Với các căn cứ và cách đánh giá trên, chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm có
thể thỏa thuận đi đến thống nhất một giá trị xe tham gia bảo hiểm hợp lý. Nói
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

20
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
chung mọi quá trình đánh giá xác định giá trị xe chỉ cho một kết quả tương đối,
hợp lý để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên.

Trên cơ sở GTBH, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với STBH nhỏ hơn,
hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, việc quyết định
tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi
thường khi có tổn thất xảy ra.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH nhỏ hơn giá trị thực tế của xe thì
được gọi là bảo hiểm dưới giá trị.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH bằng giá trị thực tế của xe thì được
gọi là bảo hiểm ngang giá trị.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH lớn hơn giá trị thực tế của xe thì
được gọi là bảo hiểm trên giá trị.
Trường hợp bảo hiểm bộ phận (thân vỏ xe ô tô), STBH được định trên cơ
sở GTBH toàn bộ xe và tỷ lệ (%) về phần giá trị của bộ phận đó trên giá trị
của toàn bộ xe (tỷ lệ này người bảo hiểm đã quy định cho từng loại xe).
3.2. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà Chủ xe có trách nhiệm phải thanh toán cho
Bên bảo hiểm khi họ tham gia bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. Hợp
đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia bảo hiểm đóng phí hoặc
chấp nhận đóng phí theo quy định. Ở Việt Nam, các công ty bảo hiểm sẽ tiến
hành thu phí bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài Chính. Phí bảo hiểm phải
đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau:
P = f + d
Trong đó: P: Phí thu mỗi đầu xe.
f: Phí bồi thường.
d: Phụ phí.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

21
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Căn cứ vào STBH, mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe
cơ giới được xác định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với STBH.

P = S
b
* R
Trong đó: S
b
: Số tiền bảo hiểm.
R : Tỷ lệ phí bảo hiểm.
Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào
các yếu tố sau:
 Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
 Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
 Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn).
Bảng 3: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới
(không tính khấu hao hay thay mới).
Giá trị thực tế
Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản trên số tiền
bảo hiểm
Xe ô tô
Xe mô tô,
xe máy
Bảo hiểm
toàn bộ
Bảo hiểm bộ
phận
Xe sử dụng dưới 3 năm hoặc giá trị
còn lại từ 70% trở lên so với giá trị xe
mới.
1.5% 2.5% 1%
Xe sử dụng từ 3 đến 6 năm hoặc giá trị
còn lại từ 50% đến 70% so với xe mới.

1.7% 2.7% 1.2%
Xe sử dụng trên 6 năm hoặc giá trị còn
lại dưới 50% so với giá trị xe mới.
1.9% 2.9% 1.4%
(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho một năm hợp đồng, cùng với tỷ lệ phí
cơ bản đó là quy định về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng có thời hạn
dưới một năm.
Bảng 4: Biểu phí ngắn hạn theo quy định của Bộ Tài Chính.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

22
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Đến 03 tháng 30% Phí bảo hiểm năm
Trên 03 tháng đến 06 tháng 60% Phí bảo hiểm năm
Trến 06 tháng đến 09 tháng 90% Phí bảo hiểm năm
Trến 09 tháng đến 12 tháng 100% Phí bảo hiểm năm
(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Ngoài ra, để phục vụ cho nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng, Bộ Tài
Chính cũng đưa ra biểu phí dài hạn bổ sung.
Bảng 5: Biểu phí dài hạn theo quy định của Bộ Tài Chính.
Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Trên 12 tháng đến 15 tháng 124% Phí bảo hiểm năm
Trên 15 tháng đến 18 tháng 144% Phí bảo hiểm năm
Trên 18 tháng đến 21 tháng 162% Phí bảo hiểm năm
Trên 21 tháng đến 24 tháng 168% Phí bảo hiểm năm
Trên 24 tháng đến 30 tháng 208% Phí bảo hiểm năm
Trên 30 tháng đến 36 tháng 240% Phí bảo hiểm năm


(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Phương pháp tính phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới của nhiều công
ty bảo hiểm trên thế giới luôn dựa vào một số yếu tố cơ bản sau:
- Loại xe (xác định bởi mác và năm sản xuất…). Do mỗi loại xe có những
đặc tính kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên tỷ lệ phí bảo
hiểm được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường các công ty bảo hiểm
đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông
dụng thông qua việc phân loại các xe thành các nhóm. Việc phân loại này dựa
trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, thiết bị an toàn, chống mất cắp,
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

23
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
giá cả, chí phí sửa chữa, phụ tùng thay thế…Đối với các xe không thông dụng
như xe kéo rơ mooc, xe chở hàng nặng… mức rủi ro cao nên phí bảo hiểm
thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định trên mức phí cơ bản.
- Mục đích sử dụng xe. Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo
hiểm. Nó giúp cho người bảo hiểm có thể dự đoán được mức độ rủi ro có thể
xảy ra. Ví dụ: một chiếc xe riêng của một gia đình chỉ phục vụ cho mục đích
đi lại hàng ngày sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn một chiếc xe dùng vào việc kinh
doanh vận chuyển hành khách. Xe lăn bánh trên dường càng nhiều, rủi ro tai
nạn càng lớn.
- Phạm vi và địa bàn hoạt động. Xe hoạt động trên phạm vi càng rộng, khả
năng xảy ra rủi ro càng lớn. Và mức độ rủi ro còn phụ thuộc vào đặc điểm địa
hình, số lượng xe, điều kiện tự nhiên… trên địa bàn mà xe đang hoạt động.
- Độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm lái xe. Số liệu thống kê cho thấy rằng, các
lái xe là nam giới và các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe
lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường giảm phí bảo hiểm cho
các lái xe có tuổi từ 45 đến 55 tuổi. Tuy nhiên, đối với những lái xe từ 55 tuổi
trở lên thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe đảm bảo để có thể lái

xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm.
- Tiền sử lái xe. Liên quan tới các vụ tai nạn phát sinh, các hành vi vi phạm
luật lệ an toàn giao thông…
Ngoài ra khi tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo
hiểm và sự phân biệt giữa bảo hiểm xe lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Cơ chế
thưởng bằng việc giảm phí cũng được áp dụng như một biện pháp để giữ
khách hàng. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ phí bảo hiểm của các công ty bảo
hiểm nhìn chung đều có sự phân biệt giữa xe mô tô và xe ô tô, giữa cách thức
bảo hiểm toàn bộ và bộ phận xe.Tỷ lệ phí cũng được điều chỉnh cho những
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

24
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Tô Thiên Hương
trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm như rủi ro mất cắp bộ phận xe, trường
hợp áp dụng mức miến thường tăng lên và theo số năm xe đã qua sử dụng.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động
một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt
động đó theo công thức sau:
Số tháng xe đã hoạt động trong năm
Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm ×
12
Hoàn phí bảo hiểm: Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí cả năm
nhưng trong năm xe không hoạt động hoặc được chuyển giao quyền sở hữu
cho chủ xe khác mà không chuyển giao quyền lợi bảo hiểm vật chất xe.
Trường hợp này, công ty bảo hiếm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng
hợp đồng còn hiệu lực cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau
Số tháng không hoạt động
Phí hoàn lại = phí cả năm × × tỷ lệ hoàn lại phí
12
Đây là mức giảm phí và hoàn lại phí theo quy định của Bộ Tài Chính để

tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, tùy
thuộc vào hoạt động kinh doanh của mình mà các công ty bảo hiểm có thể có
thêm những ưu đãi với khách hàng của mình để thu hút khách hàng tham gia
bảo hiểm tại công ty.
Biểu phí đặc biệt. Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số
lượng xe tham gia nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể
áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này
cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên
các số liệu về bản thân khách hàng, cụ thể:
- Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Lớp Bảo Hiểm 46b

25

×