Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

luận văn thạc sĩ Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.89 KB, 130 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã 8
1.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và
tiêu chí đánh giá chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã 22
1.3. Yêu cầu cụ thể về chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã 31
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH
HƯNG YÊN
42
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên 42
2.2. Thực trạng chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở
huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên 51
2.3. Đánh giá chung về chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên 79
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN
KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG YÊN
90
3.1. Quan điểm bảo đảm và nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã 90
3.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên 97
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118
PHỤ LỤC
125
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HĐND : Hội đồng nhân dân
Nxb : Nhà xuất bản
PTTH : Phổ thông trung học
THCS : Trung học cơ sở
UBND : Uỷ ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy Nhà nước ta, Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện
cho nhân dân địa phương trong việc thực thi quyền lực Nhà nước ở địa
phương. Với tính chất đó, HĐND nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc đảm bảo quyền lực nhân dân, phát huy dân chủ, đảm bảo hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Vì vậy, nâng cao năng lực hoạt động
của HĐND các cấp là một trong những nhiệm vụ rất cơ bản của quá trình xây
dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói riêng, của sự nghiệp đổi mới đất
nước ta hiện nay nói chung. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
khẳng định:
Nâng cao chất lượng của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền
địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát
của Hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương,
phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị,
hải đảo [19, tr.127].
Triển khai tinh thần đó, Nghị quyết Trung ương 5, khoá X đã đề xướng chủ

trương thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồmg nhân dân huyện, quận,
phường. Qua thí điểm, sẽ tổng kết, đánh giá và xem xét thực hiện chính thức chủ
trương này, cùng với việc xem xét sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Ngày 14/11/2008
Quốc hội khoá XII đã thông qua 02 nghị quyết liên quan đến yêu cầu củng cố và
tăng cường hiệu quả hoạt động của HĐND như: Nghị quyết số 25/2008/QH 12
ngày 14/11/2008 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004-2009 của HĐND các
cấp. Tại điều 1 của nghị quyết quy định kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004-2009
của HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp cho đến kỳ họp thứ nhất của
1
HĐND các cấp khoá sau vào năm 2011 và Nghị quyết số 26/2008/QH 12 ngày
14/11/2008 về thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường.
Đó chính là những động thái mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước nhằm hiện thực
hoá các quan điểm tổ chức và hoàn thiện chính quyền địa phương. Những động
thái này vừa là tiền đề chính trị quan trọng, vừa dự báo trước những thành công
của quá trình đổi mới.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp có thể được triển khai
từ nhiều khâu, với nhiều cấp độ. Một trong những hướng của sự đổi mới
chính là yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng của đại biểu HĐND mà
trước hết là ở cấp cơ sở - cấp xã. Cơ sở lý giải cho yêu cầu này xuất phát từ
vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ đại biểu HĐND cấp cơ sở là cấp gần
dân nhất, là cấp mà mỗi động thái của đại biểu HĐND đều tác động trực tiếp
tới người dân, đều có khả năng gây ra những hệ quả hoặc tích cực hoặc tiêu
cực tới thái độ và lòng tin của nhân dân vào chế độ xã hội, chế độ nhà nước.
Nhu cầu nâng cao chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã lại càng trở nên
cấp bách nếu đặt trong bối cảnh thực trạng chất lượng của đại biểu HĐND xã
trên phạm vi cả nước nói chung, ở từng địa bàn cụ thể nói riêng. Có thể lấy địa
bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên là một ví dụ điển hình. Thực tế trong
những năm qua chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như các đại biểu HĐND
đã được nâng cao về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là về kỹ

năng công tác trong hoạt động đại biểu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của
đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Kim Động vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém như
chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo luật định, vai trò đại
diện nhân dân của từng đại biểu còn hạn chế. Do vậy, nâng cao chất lượng đại
biểu HĐND cấp xã trên địa bàn này là một yêu cầu cần thiết.
Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu lại chưa được triển khai đúng
mức khiến cho nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng hoạt động của
2
đại biểu HĐND cấp xã còn bị bỏ ngỏ. Đề tài luận văn“Chất lượng đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên” được lựa
chọn chính là nhằm góp phần khắc phục khoảng trống trong hoạt động nghiên
cứu, góp thêm căn cứ để xây dựng các luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng của đại biểu HĐND cấp xã ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều cuốn sách, bài viết và một số đề
tài khoa học đề cập thực trạng và các giải pháp liên quan đến chất lượng, năng
lực của đại biểu HĐND cấp xã. Có thể nêu một số công trình điển hình sau:
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt
Nam” do PGS.TS. Lê Minh Thông, PGS. TS Nguyễn Như Phát đồng chủ biên,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002. Trong công trình này, các tác giả đã đề cập
nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn về chính quyền ở Việt Nam trong đó có chương
IV bàn tập trung về tổ chức chính quyền cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay.
- “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Tư pháp Hà Nội,
2004.Trong tác phẩm này tác giả tập trung phân tích và kiến nghị về mô hình
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong đó đặc biệt chú ý đến
mô hình của Hội đồng nhân dân cấp xã.
- “Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân
trong chương trình tập huấn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ
1999 – 2004” do PGS.TS Bùi Thế Vĩnh chủ biên, Nxb chính trị quốc gia Hà

Nội 2000. Với công trình này lần đầu tiên, những vấn đề liên quan đến cơ sở
lý luận về phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân đã
được đặt ra nghiên cứu một cách tương đối sâu sắc
- “ Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số giải pháp đổi mới” do
TS.Chu Văn Thành chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004. Các tác
giả đã nghiên cứu, khảo sát có hệ thống về thực trạng tổ chức hoạt động của
3
Hệ thống chính trị địa phương trên phạm vi cả nước và đi tới nhận định rằng
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã luôn giữ vị trí vai trò trọng tâm
trong nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ đổi mới. Từ đó các tác giả đã đề ra phương hướng và một số giải pháp thiết
thực để củng cố về tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở.
- Trong Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2 năm 2005, TS Vũ Đức Đán có
bài viết “vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân”. Tại đây, tác giả đã lý giải một cách biện chứng về vai trò, vị
trí của Hội đồng nhân dân nói chung và đại biểu Hội đồng nhân dân nói riêng
ở bộ máy chính quyền cấp xã.
- Luận án tiến sĩ “Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, của Vũ Mạnh
Thông. Trong luận án của mình, tác giả đã khái quát sự ra đời, phát triển của
Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời nhấn mạnh vai trò và vị thế của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, từ đó
đã đề cập yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân ở nước
ta hiện nay.
- Luận án tiến sĩ “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng
bằng sông cửu long hiện nay”, của Phạm Công Khâm. Đây là công trình đầu
tiên nghiên cứu có hệ thống về thực trạng trình độ, năng lực, đặc thù của cán
bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh phía nam nước ta.
- Luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ công chức tỉnh Thái Nguyên”, do tác giả Lương Thanh Nghị
thực hiện và bảo vệ năm 2004. Tác giả đã nghiên cứu có hệ thống về cơ sở lý
luận và thực trạng trình độ, năng lực của cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh
Thái Nguyên, qua đó chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong thực hiện đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã ở các tỉnh vùng dân tộc, vùng sâu ở
4
nước ta hiện nay, đồng thời nêu ra một số giải pháp thiết thực để đổi mới hoạt
động đào tạo bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã trong thời kỳ mới.
Sự thống kê một cách sơ lược về các công trình khoa học nói trên cho
thấy vấn đề đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở đã được các
nhà khoa học đề cập ở các khía cạnh và với các mức độ khác nhau. Đặc biệt,
liên quan trực tiếp tới chủ đề của luận văn này là vấn đề về năng lực và hiệu
quả hoạt động của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã đã được soi sáng ở mức
độ nhất định.Với kết quả nghiên cứu đạt được, các công trình nghiên cứu nói
trên đã cung cấp những tư liệu vật chất rất cần thiết cho việc triển khai các
nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này theo hướng đẩy sâu hơn những nội dung
đã được đề cập.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cho đến nay vẫn tồn tại một khoảng trống trong
nghiên cứu về chất lượng của chính đội ngũ đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Đặc biệt, từ góc độ của khoa học pháp lý, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, có hệ thống và xuất phát từ thực tiễn về yêu cầu và giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Đó cũng
chính là một trong những lý do để học viên xác định chủ đề của luận văn thạc sĩ
luật học “Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động
tỉnh Hưng Yên” nhằm cung cấp tư liệu thực tế cho hoạt động nghiên cứu về chất
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã nói chung, đồng thời trực tiếp nhằm
mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện
Kim Động nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã và thực trạng chất lượng hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, luận văn hướng
tới đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
5
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chất lượng và nâng cao chất lượng của đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện
Kim Động trong giai đoạn từ 1999 đến nay, đặt trọng tâm vào nhiệm kỳ 2004 - 2011.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã ở huyện Kim động hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến chất lượng
của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tại các xã thuộc huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu luận văn
-Về phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng đại
biểu Hội đồng nhân dân ở 19 xã, thị trấn của huyện Kim Động, tỉnh Hưng
Yên thông qua việc thu thập các báo cáo hoạt động và quy chế hoạt động của
Hội đồng nhân dân; Quy chế phối hợp giữa Thường trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện Kim Động và 19 xã, thị
trấn; báo cáo tổng hợp tiếp xúc cử tri, các nghị quyết đã được Hội đồng nhân
dân huyện và HĐND các xã, thị trấn ở huyện Kim Động thông qua.
-Về phạm vi thời gian: luận văn khảo sát, phân tích làm rõ chất lượng
hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân các xã, thị trấn ở huyện Kim Động
giai đoạn 1999 đến nay, trong đó tập trung chủ yếu vào nhiệm kỳ 2004-2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
và hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so sánh, phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp
thống kê…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Thông qua các nội dung nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ về mặt lý
luận và thực tiễn quy định của pháp luật về vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ,
chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá thực trạng chất lượng đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đồng thời đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim
Động tỉnh Hưng Yên.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc nâng cao
chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng
Yên. Từ đó, giúp cho cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh có quy hoạch, kế hoạch và
phương pháp phù hợp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả về việc
nâng cao chất lượng của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Kim Động
phù hợp theo yêu cầu đổi mới.
Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách, các nhà quản lý, sinh viên các trường luật, các nhà nghiên cứu
khoa học pháp lý, đồng thời giúp cho bản thân tác giả làm tốt hơn nhiệm vụ
và trách nhiệm của mình với công việc hiện tại được giao.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN
CÂN CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, chính quyền cơ sở góp một vai trò
quan trọng, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và nhà nước, trực tiếp tổ chức
thi hành đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, đảm bảo hiệu quả triển
khai nghị quyết của Đảng và những quy định của nhà nước tại địa bàn cơ sở.
Bộ máy nhà nước ở Trung ương muốn vững mạnh thì phải thường xuyên
củng cố và kiện toàn chính quyền cơ sở. Đó cũng là nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa lâu dài của Đảng và nhà nước ta trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
Hiến pháp năm 1992 quy định chính quyền cấp xã là một cấp - cấp cơ sở
- trong hệ thống hành chính bốn cấp của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Chính
quyền cấp xã là tổ chức nhà nước gần dân nhất nên không chỉ là nơi đảm bảo
cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ mà còn tạo điều kiện thiết
thực phát huy quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân tại cơ sở, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, đồng thời tạo điều kiện cho người dân
ổn định đời sống vật chất và tinh thần trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
Xét về mặt cấu trúc tổ chức, chính quyền cấp xã gồm hai bộ phận cấu thành:
HĐND cấp xã và UBND cấp xã. Như vậy, HĐND xã, phường, thị trấn là bộ phận
cấu thành không thể tách rời của chính quyền cấp cơ sở ở nước ta hiện nay.
HĐND cấp xã ở Việt Nam là một hình thức tổ chức quản lý xã hội theo
kiểu mới, là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân trong xã.
Hội đồng nhân dân cấp xã do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho nhân

dân trong xã, đồng thời đại diện cho chính quyền nhà nước cấp trên.
8
Trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn hoạt động quản lý, HĐND cấp
xã có thể được nhận diện từ những khía cạnh khác nhau. Nhưng về cơ bản,
căn cứ vào nhận thức chung về HĐND đã được xác định trong Luật tổ chức
HĐND và UBND cũng như căn cứ vào tính đặc thù của địa bàn cơ sở, có thể
nêu khái niệm HĐND cấp xã như sau:
Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương,
bao gồm các đại biểu do nhân dân trong xã trực tiếp bầu ra đại diện cho nhân
dân toàn xã, có toàn quyền quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội tại địa
phương theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân trong
xã và chính quyền nhà nước cấp trên.
Cũng giống như HĐND các cấp, HĐND cấp xã có hai chức năng:
Một là, chức năng quyết định các biện pháp, chủ trương về xây dựng,
phát triển địa phương thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Cụ thể:
- Trong lĩnh vực kinh tế, HĐND xã quyết định:.
+ Biện pháp thực hiện việc phát triển kinh tế-xã hội hàng năm nhằm
phát huy mọi tiềm năng của địa phương.
+ Dự toán và phân bổ ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán
ngân sách địa phương; các chủ trương biện pháp để triển khai thực hiện ngân
sách địa phương trong trường hợp cần thiết;
+ Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ở địa phương; biện
pháp quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các
nhu cầu công ích địa phương;
+ Biện pháp khuyến khích, vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, cây trồng vật nuôi theo quy hoạch chung;
+ Biện pháp thực hiện xây dựng, tu sửa đường giao thông, cầu cống
trong xã và các cơ sở hạ tầng khác ở địa phương;
+ Biện pháp thực hiện chính sách tiết kiệm chống tham nhũng, chống
buôn lậu.

9
- Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội và đời sống, HĐND cấp xã
quyết định:
+ Biện pháp thực hiện việc phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục ở địa
phương; bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào học lớp 1 đúng độ
tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục;
+ Biện pháp giáo dục thanh niên, bảo vệ chăm sóc giáo dục thiếu niên,
nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, giáo dục truyền
thống tốt đẹp; bài trừ mê tín, hủ tục chống các tệ nạn xã hội và những biểu
hiện không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương;
+ Biện pháp đảm bảo giữ gìn vệ sinh, hòng chống dịch bệnh, thực hiện
có hiệu quả chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình;
+ Biện pháp thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh
gia đình liệt sỹ, những người có công với nước.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, HĐND cấp
xã quyết định:
+ Biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng quốc phòng toàn dân; bảo đảm thi
hành chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương;
+ Biện pháp thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, nhiệm vụ động viên
chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương;
+ Biện pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp
luật khác ở địa phương.
- Trong lĩnh vực thực hiện chính sách tôn giáo, HĐND cấp xã quyết định:
+ Biện pháp đảm bảo thực hiện chính sách tôn giáo, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, HĐND cấp xã quyết định:
+ Biện pháp bảo đảm thi hành hiến pháp, Luật các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên ở địa phương;
10

+ Biện pháp bảo hộ tính mạng tài sản, tự do danh dự, nhân phẩm, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân tại địa phương;
+ Biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của nhà nước, bảo hộ tài sản của tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế ở địa phương;
- Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới
hành chính, HĐND cấp xã quyết định:
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch,
Phó chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
+ Bãi nhiệm đại biểu HĐND, chấp nhận việc đại biểu HĐND cùng cấp
xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật;
+ Bãi bỏ những quyết định sai trái của UBND cùng cấp;
+ Thông qua đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính ở địa
phương để đề nghị cấp trên xem xét quyết định.
Hai là, chức năng giám sát. Cụ thể:
- Giám sát hoạt động của Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND cấp xã;
giám sát thực hiện nghị quyết HĐND, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà
nước, của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.
- HĐND xem xét báo cáo của Chủ tịch HĐND, UBND cấp xã; Xem xét
việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn. Trong trường hợp cần thiết, giao
cho Chủ tịch HĐND và đại biểu HĐND giúp HĐND giám sát việc thi hành
pháp luật, nghị quyết của HĐND và báo cáo của UBND tại kỳ họp gần nhất.
- Trong quá trình thực hiện giám sát, Chủ tịch HĐND, đại biểu HĐND
có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có liên quan, các tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế cung cấp tài liệu thông tin cần thiết; khi
phát hiện có sai phạm thì đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó đình chỉ ngay hành vi vi phạm đó và xem xét để xử lý theo đúng
thẩm quyền.
11
Hai chức năng cơ bản nói trên của HĐND được thực hiện thông qua kỳ

họp của HĐND, qua hoạt động của Thường trực HĐND, và qua hoạt động cá
nhân của từng đại biểu HĐND. Như vậy, dù với hình thức hoạt động nào thì
yếu tố quyết định hiệu quả và chất lượng hoạt động của HĐND suy cho cùng
vẫn tuỳ thuộc vào hoạt động của đại biểu HĐND.
Điều 121 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Đại biểu HĐND là người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, phải liên hệ chặt chẽ
với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với
cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị
của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Cụ thể hoá nội dung hiến định của Hiến pháp 1992, Luật quy định:
Đại biểu HĐND là công dân nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ, văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú đủ
18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng
cử đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật [61, tr.6].
Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật
của nhà nước, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách,
pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước [62, tr.31].
Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra
mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản
ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri với HĐND
và cơ quan nhà nước hữu quan ở địa phương [79, tr.65].
Theo cách hiểu đó, đại biểu HĐND cấp xã là công dân Việt Nam tại địa
phương, do nhân dân trong xã bầu ra, đại diện cho nhân dân trong xã và thực
hiện quyền lực nhà nước tại địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri trong
xã và chính quyền nhà nước cấp trên. Đại biểu HĐND xã thay mặt cho cử tri
12
của mình để quyết định những vấn đề tại địa phương, đồng thời lắng nghe ý
kiến của cử tri, chuyển những kiến nghị của cử tri đến tổ đại biểu HĐND và

Thường trực HĐND cấp xã để tổng hợp báo cáo trước HĐND, gửi tới cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Như vậy, đại biểu HĐND cấp xã là thành viên của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phương. Đại biểu HĐND cấp xã vừa chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp
trên về mọi mặt kinh tế - xã hội, đảm bảo thực hiện Hiến pháp, Luật và các
quyết định của cơ quan nhà nước tại địa phương. Trong hoạt động, đại biểu
HĐND cấp xã thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định các
vấn đề quan trọng để phát huy các tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, biến ý chí quyền lực của nhân dân trên địa bàn trở thành
quyền lực nhà nước, thể hiện bằng các quyết định của Nhà nước, thực hiện
quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân đóng tại địa phương. Về thực chất, đại biểu HĐND cấp xã là người thực
hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay mặt cử tri trên phạm vi địa bàn
cơ sở. Bản thân quyền lực của người đại biểu HĐND cấp xã có được là do
nhân dân trao cho. Đại biểu HĐND cấp xã được hình thành theo nguyên tắc
bầu cử trực tiếp của cử tri.
Từ cách nhìn nhận đó, có thể thấy đại biểu HĐND cấp xã có một số đặc
điểm sau:
* Đại biểu HĐND cấp xã là nhân tố cấu thành cơ quan duy nhất ở địa
bàn xã do cử tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Do đó, đại biểu HĐND cấp xã là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói
của các tầng lớp nhân dân trong xã, đại diện cho trí tuệ tập thể của cử tri.
Tính đại diện nhân dân của đại biểu HĐND cấp xã được thể hiện ở
những điểm sau:
13
- Được nhân dân trong xã trao quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân thông qua các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước.

Sự yêu cầu về lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân là cơ sở
căn cứ xác định nội dung hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã; đại biểu
HĐND cấp xã phải phản ánh trung thực và bảo vệ mọi quyền, lợi ích chính
đáng của cử tri nơi bầu ra mình. Cần quan tâm đến mọi nguồn thông tin đại
chúng để hiểu rõ cái gì cử tri đang đòi hỏi, để hình thành chương trình hoạt
động của đại biểu HĐND.
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền thay mặt nhân dân trong xã. Đó là
quyền thảo luận, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương
trong các kỳ họp HĐND; quyền thay mặt nhân dân khi quan hệ với các cơ
quan, tổ chức ở địa phương để yêu cầu giải quyết đảm bảo các quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân. Trong hoạt động, mỗi đại biểu HĐND cấp xã cần
quan tâm trước hết là lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương,
của cộng đồng xã hội trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa phương,
trong bảo vệ lợi ích chung của dân tộc.
* Đại biểu HĐND cấp xã là người trực tiếp thực hiện quyền lực nhà
nước của HĐND cấp xã.
Hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của từng đại biểu HĐND cấp
xã được phản ánh ở hai khía cạnh sau:
- Mỗi đại biểu HĐND cấp xã đều trực tiếp tham gia thực hiện quyền
lực nhà nước tại địa bàn cấp xã. Đại biểu là người quyết định những vấn đề
quan trọng của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND, thực hiện
quyền giám sát của HĐND thông qua hoạt động chất vấn, nghe và xem xét
báo cáo của các cơ quan nhà nước trước HĐND trong việc thực hiện nghị
quyết của HĐND. Điều đó được đảm bảo thông qua việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của đại biểu HĐND trong thực tế.
14
- Đại biểu HĐND cấp xã là người đại diện cho cơ quan quyền lực trong
quan hệ với các cơ quan nhà nước khác và các viên chức nhà nước, với các tổ
chức xã hội và nhân dân. Đại biểu có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà
nước về việc thi hành pháp luật, về những vấn đề thuộc lợi ích chung, Đại

biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội kịp thời
chấm dứt việc làm trái pháp luật. Các cơ quan, tổ chức được đại biểu HĐND
cấp xã yêu cầu thì phải bố trí tiếp đại biểu theo đúng quy định. Đồng thời phải
có nghĩa vụ trả lời đại biểu HĐND khi có kiến nghị của đại biểu.
Đây là hoạt động gắn liền với chức trách đại biểu của đại biểu HĐND.
Để hoạt động của đại biểu có hiệu quả, pháp luật đưa ra những quy định cần
thiết, tạo khả năng thực tế cho đại biểu thực hiện đầy đủ tính đại diện nhân
dân, thực thi quyền lực nhà nước trong hoạt động HĐND ở đơn vị bầu cử.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm khoá IX Ban chấp hành Trung ương Đảng
về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở xã, phường,
thị trấn, đã nhấn mạnh:
Đổi mới cơ chế bầu cử, bảo đảm cho dân đề cử, ứng cử, lựa
chọn các đại biểu HĐND thực sự là người đại diện cho dân, tăng
thêm số lượng đại biểu HĐND so với hiện nay, tăng tỷ lệ thích đáng
đại biểu HĐND là người ngoài Đảng; tăng số kỳ họp và nâng cao
chất lượng các kỳ họp HĐND [16].
* Đại biểu HĐND cấp xã thực hiện hoạt động đại biểu trong khuôn khổ
những quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Đại biểu HĐND cấp xã có các quyền hạn và trách nhiệm sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã:
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền và nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ
họp, HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan
của HĐND;
15
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền đề nghị đưa vào chương trình của kỳ
họp những vấn đề mà đại biểu HĐND xem xét thấy cần thiết để HĐND cấp xã
xem xét quyết định. Ý kiến của đại biểu phải được ghi vào biên bản kỳ họp;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND, và các thành viên của UBND và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn

khác thuộc UBND cấp xã. Người bị chất vấn phải có trách nhiệm trả lời
những vấn đề mà đại biểu HĐND chất vấn theo thủ tục pháp luật quy định;
- Đại biểu HĐND cấp xã được bầu vào các cơ quan tổ chức của HĐND.
Đại biểu HĐND cấp xã phải tôn trọng và chấp hành quy chế về tổ chức và
hoạt động do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Hai là, quyền và nghĩa vụ trong mối liên hệ với cử tri ở đơn vị bầu cử
của đại biểu:
- Đại biểu HĐND cấp xã phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc cử tri theo
lịch, lấy ý kiến của cử tri về các vấn đề sẽ đưa vào nội dung trong kỳ họp HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã phải báo cáo với cử tri về hoạt động của mình
và HĐND. Đồng thời chịu sự giám sát của cử tri về các hoạt động đó;
- Đại biểu HĐND cấp xã tham gia tổ chức thực hiện pháp luật và các
quyết định của HĐND và UBND cấp trên.
- Đại biểu HĐND cấp xã tiếp dân theo lịch được phân công hoặc theo
yêu cầu của nhân dân; khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công
dân, đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến trực tiếp hoặc thông
qua tổ chức hoạt động của HĐND cấp xã để giám sát, chất vấn các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền xem xét giải quyết những khiếu nại, tố cáo đó;
Ba là, quyền của đại biểu HĐND cấp xã trong quan hệ với các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và các đơn vị trên phạm vi đơn vị hành chính và nghĩa vụ
của các cơ quan, tổ chức trong xem xét, yêu cầu của đại biểu và tiếp đại biểu.
- Theo uỷ quyền của HĐND, đại biểu của HĐND cấp xã có quyền xem
xét hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội… về
những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp xã;
16
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền yêu cầu được cung cấp tài liệu, được
đảm bảo thông tin cần thiết cho hoạt động đại biểu. Các cơ quan có thẩm
quyền phải đảm bảo các yêu cầu đó cho đại biểu HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền đề nghị để hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đề nghị các biện pháp ngăn chặn tiêu cực trong cơ

quan, tổ chức, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm đối
với những cán bộ, công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật;
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền theo dõi, giám sát, đôn đốc hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các công dân trong các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền yêu cầu gặp lãnh đạo các cơ quan, tổ
chức. Người có thẩm quyền phụ trách cơ quan phải có trách nhiệm tiếp và
giải quyết các yêu cầu đó;
Các cơ quan Hành chính nhà nước và các cán bộ nhà nước trong phạm vi
thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp tư liệu, thông tin, địa điểm
tiếp xúc cử tri, phương tiện giao thông cho hoạt động đại biểu HĐND;
- Đại biểu HĐND cấp xã có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể trong hoạt động đại biểu HĐND.
Bốn là, quyền của đại biểu HĐND cấp xã trong tăng cường pháp chế
Đảm bảo tăng cường và pháp chế là đòi hỏi đối với mọi tổ chức, cơ quan,
cán bộ, công chức và mọi công dân. Vì vậy, đại biểu vừa phải trực tiếp tiến
hành mọi hoạt động thuộc phạm vi chức năng, quyền hạn của HĐND cấp xã
theo đúng quy định của pháp luật, vừa có nghĩa vụ tham gia phát hiện đấu
tranh mọi hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể:
- Đại biểu HĐND cấp xã có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước
về việc thi hành chính sách, pháp luật và những vấn đề thuộc lợi ích chung
của cộng đồng dân cư tại cơ sở.
- Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu tổ chức, cơ quan nhà nước chấm dứt những
việc làm sai trái, vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân.
17
1.1.2. Vị trí, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Đơn vị hành chính cấp xã là nơi hàng ngày, hàng giờ diễn ra các mối
quan hệ trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội mà các cơ quan nhà nước cấp
trên không thể giải quyết hết được. Bởi vậy, ở đó phải đặt ra bộ máy chính
quyền cơ sở, xem đó là mắt xích quan trọng của hệ thống tổ chức nhà nước từ

Trung ương đến địa phương, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ở nước ta, vị trí, vai trò của HĐND cấp xã luôn được đề cao trong suốt
quá trình xây dựng và phát huy vị thế của HĐND cấp xã. Kể từ khi nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay, cấp xã và HĐND cấp xã ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Sau cách mạng tháng 8/1945, chỉ hai tháng sau khi tuyên bố độc lập,
ngày 22/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 63 về tổ chức HĐND và
Uỷ ban hành chính. Tại điểm I của Sắc lệnh đã nêu rõ: để thực hiện chính
quyền nhân dân ở địa phương trong nước Việt Nam sẽ đặt hai cơ quan HĐND
và Uỷ ban hành chính. HĐND do nhân dân bầu ra theo lối phổ thông và trực
tiếp đầu phiếu, là cơ quan thay mặt nhân dân. Uỷ ban hành chính do HĐND
bầu ra, là cơ quan hành chính vừa thay mặt nhân dân, vừa thay mặt cho chính
phủ. Ở hai cấp xã và tỉnh có HĐND và Uỷ ban hành chính, cấp huyện và thị
xã có Uỷ ban hành chính. Ở khu đô thị mà lâu nay về mặt hành chính được
thiết lập trực tiếp với tỉnh, từ nay sẽ gọi là thị xã. Ở mỗi thành phố sẽ đặt ba
cơ quan: HĐND thành phố, Uỷ ban hành chính thành phố và Uỷ ban hành
chính khu phố do nhân dân khu phố bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu
phiếu, là cơ quan vừa thay mặt cho nhân dân, vừa thay mặt cho Chính phủ.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định cấp hành chính cơ sở là xã, thị xã, khu phố.
Tại điều 57, 58 Hiến pháp năm 1946 – Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta-
quy định: Nước Việt Nam về phương diện hành chính chia thành 3 bộ: Bắc bộ,
Trung bộ, Nam bộ. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện
chia thành xã. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, ngày
18
09/11/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hai sắc lệnh 254 và 255 về tổ chức chính
quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến. Theo quy định của hai sắc lệnh nói
trên thì tổ chức chính quyền xã, thị xã có HĐND và Uỷ ban kháng chiến. Đối với
những xã nằm trong vùng địch chiếm đóng hay bị uy hiếp, nếu chưa bầu được
HĐND thì Uỷ ban kháng chiến hành chính chỉ ra một HĐND lâm thời, nếu đã

bầu được HĐND nhưng đại biểu HĐND còn lại ít nhất 1/3 tổng số đại biểu theo
quy định thì vẫn tiếp tục hoạt động. Nếu không đủ 1/3 đại biểu Uỷ ban kháng
chiến hành chính xã do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu chỉ định.
Như vậy là dù trong tình huống chiến tranh, thậm chí trong tình huống bị địch
chiếm đóng thì xã vẫn có HĐND, vẫn là đơn vị hành chính cơ sở hoàn chỉnh.
Sau ngày miền Bắc giải phóng (năm 1954), trước yêu cầu của nhiệm vụ
mới đòi hỏi phải chấn chỉnh và tăng cường bộ máy chính quyền các cấp, vào
đầu năm 1958, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phương.
Theo đó, thì đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm có: xã, thị trấn, khu phố đều có
tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính.
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức HĐND nhân dân và Uỷ ban hành
chính năm 1962 tiếp tục xác định đơn vị hành chính cơ sở gồm có: Xã, thị
trấn, thị xã thuộc tỉnh, khu phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. Xã và
cấp tương đương có HĐND và Uỷ ban hành chính.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà thống nhất, tại kỳ
họp thứ nhất Quốc hội khoá VI đã thông qua Nghị quyết về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở Hiến pháp năm 1959. Tại điểm 3
của nghị quyết quy định ở địa phương có các cấp chính quyền sau:
- Tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương
- Huyện, khu phố, quận, thành phố và thị xã thuộc tỉnh.
- Xã và cấp tương đương (thị trấn, phường)
Ở tất cả các cấp chính quyền đều có HĐND và UBND.
Ngày 18/12/1980. Quốc hội khoá VI kỳ họp thứ 7 thông qua bản Hiến
pháp mới của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 13 Hiến pháp
19
1980 quy định các đơn vị hành chính trong đó có cấp xã và tương đương, các
cấp hành chính đều có HĐND và UBND.
Ngày 30/6/1983 Quốc hội thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND
trong Luật quy định rõ việc tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.
Hiến pháp năm 1992 quy định bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được chia thành 4 cấp: Cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; và cấp
xã, phường, thị trấn.
Như vậy, trong lịch sử xây dựng và phát triển hệ thống chính quyền cách
mạng ở nước ta, có những cấp chính quyền ở vào những thời kỳ nhất định đã
không tổ chức HĐND. Riêng cấp xã, từ khi có sắc lệnh số 63 (1945) đến nay,
cơ quan HĐND cấp xã vẫn được duy trì và phát triển liên tục.
Từ phân tích trên về vị trí của HĐND cấp xã có thể thấy rõ vị trí, vai trò
của đại biểu HĐND cấp xã;
Trong điều kiện cụ thể của thể chế nhà nước Việt Nam, pháp luật quy
định: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương bầu
ra theo nguyên tắc: trực tiếp, phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín; chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, sự
hiện diện của đại biểu HĐND cấp xã trong bộ máy nhà nước là một nhu cầu
khách quan. Đó là bộ phận trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước tại cơ sở và
là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân địa phương.
Vị trí, vai trò của đại biểu HĐND cấp xã được minh chứng rõ nét qua vị
trí là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Đại
biểu HĐND cấp xã là người do nhân dân trực tiếp bầu ra, mỗi đại biểu HĐND
xã đại diện cho một khu vực dân cư, tổ chức đoàn thể, thành phần dân tộc, tôn
giáo hoặc một tổ chức nghề nghiệp trong địa bàn cấp xã. Từng đại biểu
HĐND xã đều có quyền và nghĩa vụ chuyển tải đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của
20
chính tổ chức, thành phần do mình đại diện vào chương trình hành động của
HĐND cấp xã, đồng thời xem xét, phân tích, đánh giá thể chế hoá những nội
dung cần thiết thành nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước tại cơ sở.
Thông qua vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương
của đại biểu HĐND, HĐND xã đã mang tính chất quyền lực. Như vậy từ khía
cạnh này đại biểu HĐND cấp xã giữ một vai trò quan trọng trong việc là

người thay mặt nhân dân địa phương thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
trong chức trách là người thực hiện chức năng quyền lực trực tiếp giám sát
mọi hoạt động của UBND và các cơ quan, đơn vị chuyên môn trực thuộc
UBND cùng cấp, bảo vệ mọi quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân
dân trên địa bàn dân cư của người đại biểu. Đại biểu HĐND cấp xã là người
vừa quyết định những biện pháp cụ thể, vừa phải trực tiếp xử lý những vấn đề
nẩy sinh từ thực tiễn quá trình thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương,
kiểm nghiệm tính đúng đắn, phù hợp trong những quyết định của cơ quan cấp
trên cũng như kịp thời phát hiện những vấn đề mới nẩy sinh tại cơ sở.
Trong cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm chăm lo việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, xây dựng nhà nước
Việt Nam thật sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng xuyên suốt
của Người luôn yêu cầu các cơ quan nhà nước phải lấy dân làm gốc, xem
nhân dân là người chủ thực sự của đất nước và đảm bảo để nhân dân thực
hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Từ cuộc bầu
cử HĐND cấp xã khoá đầu tiên vào tháng 4 năm 1946 cho đến nay, tổ chức
và hoạt động của HĐND xã luôn được củng cố, hoàn thiện theo hướng ngày
càng phát triển để đảm bảo đúng đặc trưng là một cơ quan quyền lực, đại diện
chân chính cho nguyện vọng, ý chí của tất cả nhân dân trên địa bàn xã. Thực
tiễn trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: nếu đảm bảo
vị trí, vai trò của đại biểu HĐND trong chính quyền cấp xã thì sẽ hạn chế
được rất nhiều những tiêu cực phát sinh trong đời sống xã hội và trong quản
21
lý nhà nước, giảm bớt những vụ việc khiếu kiện lên cấp trên và sẽ tiết kiệm
được thời gian, tiền bạc, công sức của nhân dân.
Hơn 7 thập kỷ qua, từ khi nhà nước dân chủ cộng hoà Việt Nam ra đời
đến nay, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của HĐND cấp xã là nền tảng
cấu trúc chiến lược trong xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Do vậy, cho
đến nay vị trí, vai trò của đại biểu HĐND cấp xã luôn được tăng cường thông

qua quá trình hoàn thiện và nâng cao vị thế thực quyền của cơ quan quyền lực
nhà nước cấp cơ sở. Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước, đại biểu
HĐND cấp xã đã và đang phát huy vai trò của mình trong thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước ở từng
địa bàn dân cư. Điều đó cho thấy đã có sự lớn mạnh và biến đổi sâu sắc về số
lượng và nâng lên chất lượng cả phẩm chất, năng lực, nhận thức của người đại
biểu theo yêu cầu, nhiệm vụ ở cấp cơ sở.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.2.1. Các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân
Trước khi phân tích các yếu tố cấu thành chất lượng đại biểu HĐND
cấp xã, nhất thiết cần làm rõ khái niệm “chất lượng”.
Theo từ điển Tiếng việt thì “chất lượng” hiểu theo nghĩa chung nhất là:
"cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc" [59, tr.28].
Như vậy, nói đến chất lượng của một cá nhân là nói đến khả năng đạt
được kết quả trong hoạt động nào đó của chính cá nhân đó. Muốn hoạt động
có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với
yêu cầu của hoạt động. Nếu những thuộc tính tâm lý cá nhân không phù hợp
với yêu cầu của hoạt động thì coi như không có chất lượng. Chất lượng không
phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là một tổ hợp các thuộc tính cá
nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Tổ hợp không có nghĩa là các thuộc
22
tính đó tồn tại song song mà chúng có quan hệ và tác động lẫn nhau, thống
nhất với nhau theo yêu cầu nhất định.
Chất lượng của con người vừa là cái “tự nhiên” có sẵn, vừa là kết quả của
quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người. Có thể nói
rằng, chất lượng không phải là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con
người, tự động đảm bảo cho con người đạt kết quả trong hoạt động nào đó mà
nó là kết quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện,

tu dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Người cán bộ nói chung và người đại biểu HĐND nói riêng phải có phẩm
chất, đạo đức, trình độ, năng lực nhất định mới có thể hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình. Chất lượng của người đại biểu HĐND trong việc tư
duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn là hai nhân tố quan trọng
nhất tạo nên tài năng của mỗi người. Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với
nhau, không thể tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển. Nếu người đại
biểu HĐND không có khả năng tư duy lý luận thì không thể nào có khả năng
khái quát, sáng tạo và vận dụng đúng đắn, linh hoạt. Trái lại, chỉ có năng lực
tư duy lý luận mà không có năng lực tổ chức thực tiễn thì năng lực tư duy lý
luận dần dần bị xơ cứng, giáo điều, thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, dễ
rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí.
Người đại biểu HĐND luôn gần gũi với nhân dân địa phương bầu ra
mình, lắng nghe và truyền tải ý chí, nguyện vọng của cử tri đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, biến ý chí của nhân dân địa phương thành các quyết định
quản lý nhà nước. Điều đó đòi hỏi đại biểu HĐND xã phải là người có trình
độ, năng lực mới có thể hoạt động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực thì mới có
thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bởi vậy, ngoài các yếu tố trên,
người đại biểu HĐND còn cần phải có tính sáng tạo, tính quyết đoán, khả
năng làm việc độc lập cũng như khả năng làm việc tập thể cao.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu, chất lượng của đại biểu HĐND là một
tổ hợp các khả năng của đại biểu giúp cho họ đạt được kết quả cao nhất khi
23

×