Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã – qua thực tiễn ở tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.14 KB, 19 trang )

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp xã – qua thực tiễn ở tỉnh Thừa Thiên - Huế

Nguyễn Thị Nữ

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS Nguyễn Duy Phương
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của
hội đồng nhân dân (HĐND) cấp xã. Làm rõ vị trí, vai trò của HĐND cấp xã trong tổ chức
bộ máy nhà nước (BMNN) và trong hệ thống chính quyền cơ sở. Phân tích, đánh giá thực
trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại ba loại hình đơn vị hành chính là
xã, phường và thị trấn tại tỉnh Thừa Thiên - Huế. Từ đó đánh giá đúng thực trạng để đưa
ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng, HĐND cấp xã nói
chung trên phạm vi cả nước.

Keywords: Lịch sử nhà nước; Pháp luật Việt Nam; Hội đồng Nhân dân; Thừa Thiên -
Huế; Bộ máy nhà nước


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp xã, là chính quyền cấp thấp nhất ở cơ sở có lịch sử lâu
dài ở nước ta. Đây là cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp đến từng người dân là cầu nối chuyển
tải mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền


lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước
cấp trên. HĐND xã, phường, thị trấn gọi chung là HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực Nhà nước
ở cấp xã.
Từ trước đến nay qua thực tiễn hoạt động vị trí, vai trò của HĐND trong hệ thống tổ chức bộ
máy nhà nước ta ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, trong thời gian những năm gần đây thì
hoạt động của HĐND các cấp đã thể hiện nhiều bất cập, hoạt động còn mang tính hình thức,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong đó có HĐND cấp xã.
Tỉnh Thừa Thiên - Huế là tỉnh có tốc độ đô thị hóa khá cao, tiềm năng phát triển kinh tế - xã
hội khá lớn. Hiện nay tỉnh có 152 đơn vị hành chính cấp xã trong đó có 105 xã và 39 phường và
8 thị trấn. Nhìn chung HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế trong những năm qua đã đạt
được những thành tựu nhất định như ban hành các cơ chế cải cách hành chính, thực hiện giao
dịch một cửa liên thông…góp phần đưa tỉnh Thừa Thiên - Huế từng bước phát triển đi lên. Tuy
nhiên HĐND cấp xã tại đây vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong tổ chức và hoạt động, chưa đáp
ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Chất lượng hoạt động của HĐND chưa phản
ánh rõ nét qua các kỳ họp, năng lực, trình độ và nhận thức của đại biểu HĐND chưa xứng tầm
với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và nguyện vọng của cử tri.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương thức tổ chức và hoạt động của HĐND nói
chung cũng như HĐND cấp xã nói riêng qua đó đưa ra một số giải pháp hy vọng có thể góp một
phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện bộ máy cơ quan quyền lực mà Nhà nước ta đang đặt ra
trong giai đoạn hiện nay nên tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã – qua thực tiễn ở tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
* Tiến sỹ Văn Tất Thu, Thứ trưởng Bộ Nội vụ bàn về “chủ trương, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta” đăng trên Tổ chức nhà nước số
12/2008 xây dựng chính quyền địa phương ở nước ta
* TS. Văn Tất Thu khi bàn về “Cơ sở lý luận tổ chức hợp lý chính quyền địa phương (không
tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường) ở nước ta hiện nay” đăng trên Tổ chức Nhà
nước số 3/2009.

* PGS.TS. Trương Đắc Linh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Từ hai sắc
lệnh số 63/SL và số 77/SL năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đến các bản Hiến
pháp, pháp luật về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và vấn đề đổi mới hiện nay, Hội thảo
chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* PGS. TS. Bùi Xuân Đức, Tổ chức chính quyền địa phương giai đoạn các Hiến pháp năm
1946, 1959 và 1980 và những bài học kinh nghiệm, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam
– Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học
kinh nghiệm.
* GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam theo Hiến pháp
1992, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS. Trương Đắc Linh, Tổ chức chính quyền địa phương
của một số nước trên thế giới, của Việt Nam qua các bản Hiến pháp và vấn đề đổi mới tổ chức
chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự
hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh
nghiệm.
* Th.S. Phan Văn Ngọc, Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ
sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* Lê Tư Duyến, Chính quyền điạ phương ở Việt Nam và vấn đề đổi mới hiện nay, Hội thảo
chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* Đặng Đình Luyến, Một số vấn đề về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển
trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* Đoàn Nhuận, Đánh giá thực trạng các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân hiện hành, phương hướng hoàn thiện luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội
thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp

luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
* TS. Vũ Đức Khiển, Một số giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy toàn
diện vai trò của chính quyền địa phương trong giai đoạn mới, Hội thảo chính quyền địa phương
Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số
bài học kinh nghiệm.
* Th.S. Phạm Thị Bích Thủy, Giải pháp xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước ở địa
phương theo xu hướng tinh gọn và hiệu quả, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự
hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh
nghiệm.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Luận văn có mục đính nghiên cứu một cách hệ thống tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.
Đồng thời đi sâu nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Từ đó đánh giá đúng thực trạng để đưa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới
tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng, HĐND
cấp xã nói chung trên phạm vi cả nước.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp xã. Làm rõ vị trí, vai trò của HĐND cấp xã trong tổ chức BMNN và trong hệ thống
chính quyền cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại ba loại
hình đơn vị hành chính là xã, phường và thị trấn tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Đề tài sẽ khai thác trong thực tiễn để cung cấp những số liệu chính xác về vấn đề tổ chức và
hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế qua đó có sự đối chiếu với quy định của pháp
luật, tìm ra các nguyên nhân và các giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND cấp xã tại địa phương này. Đề tài sẽ cũng cố thêm cơ sở lý luận và kinh nghiêm thực tiễn
trong vấn đề đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại các địa phương
khác trong phạm vi cả nước.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
Thông qua việc trình bày một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp xã luận văn góp phần làm rõ về khái niệm, vị trí, vai trò của HĐND cấp xã, tổ chức và hoạt

động của HĐND cấp xã.
Đồng thời, luận văn phân tích những điểm tích cực và hạn chế về cách thức tổ chức và hoạt
động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên Huế - trong giai đoạn hiện nay. Qua đó rút ra những
hạt nhân hợp lý trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã để tiếp tục hoàn thiện thêm cũng
như khắc phục những điểm hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của HĐND cấp xã.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa
Thiên - Huế trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Không gian: Đề tài nghiên cứu về HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
+ Thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh
Thừa Thiên - Huế trong nhiệm kỳ 2004 - 2011.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của luận văn là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: mô tả luật, phân tích, phân tích quy
phạm, diễn giải và quy nạp, hệ thống hóa, mô hình hóa, tư duy lôgic và phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.
Phương pháp diễn giải và quy nạp được áp dụng nhằm lý giải và rút ra những kết luận cần thiết
sau mỗi lần nghiên cứu, phương pháp lịch sử nhằm xem xét các vấn đề trong luận văn theo
nguồn gốc xuất xứ và quá trình phát triển của nó. Các phương pháp hệ thống hóa, mô hình hóa,
tư duy lôgic nhằm hỗ trợ các phương pháp nói trên để trình bày các vấn đề có hệ thống, lôgic và
dễ hiểu.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa
Thiên – Huế.

Chương 3: Những giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÈ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN DÂN
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ quan đại diện của nhân dân
Cơ quan đại diện là một bộ phận không thể thiếu trong tổ chức chính quyền của Nhà nước
vô sản. Việc nghiên cứu về cơ quan đại diện có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây
dựng chính quyền.
Công xã Pari là một thực tiễn sinh động làm sáng tỏ quan điểm Mác - Lênin về Nhà nước và
pháp luật.
Công xã Pari, lần đầu tiên đã xoá bỏ chế độ đại nghị tư sản, thành lập ra hệ thống cơ quan đại diện
mới, cơ quan đại diện này theo nghĩa của nó vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan hành pháp. Việc
xuất hiện hình thức công xã Pari có ý nghĩa rất lớn, làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin nói chung
và lý luận về Nhà nước và pháp luật nói riêng, đặc biệt là để xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về
hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Và một lần nữa, khi nghiên cứu về phong trào công nhân, Lênin đã phát hiện ra hình thức
nhà nước Xô Viết và coi đó là mầm mống của một hình thức có thể sử dụng để tổ chức nhà nước
vô sản ở Nga. Hình thức nhà nước Xô viết là hình thức được sử dụng để tổ chức và thực hiện
chính quyền của giai cấp vô sản Nga và các nước Cộng hoà khác ở Cap-ca-zơ, vùng Ban tích;
sau này trở thành hình thức của Nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Xô
Viết xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành phố Petrograt năm
1905, với tư cách là hội đồng đại biểu công nhân để đấu tranh đòi lợi ích chính trị và kinh tế cho
giai cấp. Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng chính quyền Xô viết, Lênin đặc biệt nhấn mạnh
quyền tham gia quản lý nhà nước của người lao động, coi:
“Sự tham gia của người lao động vào chính quyền như là mục đích của chính quyền Xô
viết. Và theo Người, việc thu hút được mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong

những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa v.v Vì rằng, một thiểu số người tức
là Đảng không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội”[33].
Tóm lại, xuất phát từ bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là một Nhà nước dân chủ nên việc tổ
chức và hoạt động của BMNN xã hội chủ nghĩa luôn đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực.
Chính vì lẽ đó, V.I.Lênin khi nói về cơ quan đại diện đã khẳng định: “Chúng ta không thể quan niệm
một nền dân chủ, dẫu là dân chủ vô sản, mà lại không có cơ quan đại diện”[33].
1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơ quan đại diện của nhân dân.
Năm 1911 Nguyễn Ái Quốc đã rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Người đã
đi nhiều nơi trên thế giới như châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á; tìm hiểu và nghiên cứu kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới. Trong khi tìm hiểu, nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
chú ý xem xét những vấn đề về chính quyền nhà nước, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, để thực thi quyền làm chủ của nhân
dân trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Dân chủ Cộng hoà, ngày 3/9/1945,
trong cuộc họp Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tiến hành tổ chức “càng sớm càng
hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bộ máy chính quyền địa phương cũng thể hiện rất rõ trong Hiến pháp
1946, đó là thiết chế HĐND, cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. HĐND được thành lập ở cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp xã. HĐND quyết định những vấn đề thuộc địa phương mình, những kiến nghị
ấy không được trái với chỉ thị cấp trên. Có thể nói, tổ chức chính quyền địa phương với hình ảnh rõ
nhất là thiết chế cơ quan đại diện - HĐND một cơ quan quyết định những vấn đề có tính địa phương,
do nhân dân địa phương bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TRONG LỊCH SỬ LẬP PHÁP CỦA NƢỚC TA
Văn bản pháp luật đầu tiên về HĐND là Sắc lệnh số 63 - SL ngày 22 tháng 11 năm 1945 về
tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của HĐND và UBHC có hiệu lực thi hành ngày 8 tháng 12
năm 1945.
Sau đó là các Sắc lệnh sửa đổi Sắc lệnh số 63: Sắc lệnh số 22A - SL ban hành ngày 18
tháng 02 năm 1946 về việc tổ chức các HĐND và UBHC do Chính phủ lâm thời ban hành, để
sửa đổi điều thứ 65 Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 tổ chức các HĐND và UBHC;

Sắc lệnh số 10 về tổ chức HĐND và UBHC ở các xã, huyện, tỉnh và kỳ do Chủ tịch Chính phủ
ban hành để sửa đổi Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 tổ chức HĐND và UBHC ở các
xã, huyện, tỉnh và kỳ.
Tiếp đến là Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946. Hiến pháp 1946 tuy
chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về HĐND nhưng vai trò quan trọng của HĐND, mối quan hệ
giữa HĐND với cấp trên cũng đã được xác định trong Điều thứ 59 “Hội đồng nhân dân quyết
nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị
của các cấp trên”.
Ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lần đầu tiên
ban hành một đạo luật quy định về cách thức tổ chức HĐND, đó là Luật tổ chức Chính quyền địa
phương. Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức chính quyền địa phương thì “Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra. Số lượng đại biểu
Hội đồng nhân dân mỗi cấp và cách thức bầu cử do luật bầu cử quy định”.
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, hoà bình được lập lại ở miền Bắc, miền Nam
còn nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc Mỹ.
Để đáp ứng và phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới Quốc hội
đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946. Sau một thời gian dài nghiên cứu, soạn thảo công phu,
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Hiến pháp 1959 để thay thế Hiến pháp
1946. Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBHC các cấp
tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ngày 27 tháng 10 năm 1962 (hiệu lực thi hành từ 11/11/1962
đến 09/7/1983).
Ngày 30/12/1980 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1980 làm cơ sở cho việc xây dựng xã hội
chủ nghĩa trong phạm vi cả nước, xây dựng và cũng cố BMNN thống nhất trong đó có tổ chức
chính quyền địa phương. Thiết chế HĐND được quy định tại chương IX, Hiến pháp 1980.
Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1980 về thiết chế
HĐND, ngày 30 tháng 6 năm 1983, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
VII, kỳ họp thứ 5, đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND 1983, thay thế Luật tổ chức
HĐND và UBHC các cấp ngày 27 tháng 10 năm 1962. Những quy định trước đây trái với Luật
này đều bãi bỏ.
Để phát huy hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của cơ quan nhà

nước ở địa phương tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Luật tổ chức HĐND và
UBND ngày 30 tháng 6 năm 1989 (thay thế Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983).
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã được đề xướng thực hiện. Công cuộc đổi
mới đã đặt ra yêu cầu phải “đổi mới” pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đổi mới toàn
diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của BMNN là hết
sức cần thiết. Hiến pháp 1992 được xây dựng để đáp ứng nhu cầu đó. Cũng như Hiến pháp 1980, thiết
chế HĐND được quy định tại chương IX. Việc chia đơn vị hành chính vẫn giữ như trong Hiến pháp
1980.
Đến ngày 26/11/2003 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ
4 đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND 2003. Trong văn bản này thì tổ chức và hoạt động cũng
như nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp đã được quy định một cách cụ thể và rõ ràng.1
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.3.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được quy định trong Điều 119, Điều 120 Hiến
pháp 1992 và cụ thể hoá trong Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì:
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.
1.3.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã
Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức HĐND và

UBND năm 2003. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND từng cấp được quy định khá cụ thể trong Luật tổ chức
HĐND và UBND, trong đó nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã cũng được đề cập đến một cách rõ
ràng trong từng lĩnh vực, trong đó có sự phân biệt giữa nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn và
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND phường.
1.3.2.1 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn được quy định rõ trong các lĩnh
vực đó là: trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội và đời sống, văn hoá, thông tin,
thể dục thể thao, bảo vệ tài nguyên, môi trường, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, lĩnh vực thi hành pháp luật và
trong việc xây dựng chính quyền địa phương.
1.3.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phƣờng
Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn như của HĐND xã, thị trấn đã nêu ở trên, HĐND
phường còn có thêm những nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
- Quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch đô thị; thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng; bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự
xây dựng trên địa bàn phường;
- Quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; biện pháp phòng, chống cháy,
nổ, giữ gìn vệ sinh; bảo vệ môi trường, trật tự công cộng và cảnh quan đô thị trong phạm vi quản
lý;
- Quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân trên địa bàn phường.
1.3.3. Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp xã
Thường trực HĐND cấp xã do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp HĐND trong số các đại biểu HĐND.
Thường trực của HĐND cấp xã bao gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Các thành viên của UBND cấp xã
không thể đồng thời là thành viên của Thường trực HĐND cấp xã. Kết quả bầu các thành viên của Thường trực
HĐND cấp xã phải được Thường trực HĐND cấp huyện phê chuẩn.
1.3.4. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã
Kỳ họp của HĐND chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của HĐND. Bởi vì đây
là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của HĐND. HĐND làm việc tập trung và có
hiệu quả nhất trong các kỳ họp của mình. Tại kỳ họp HĐND thảo luận dân chủ và quyết định
theo đa số các công việc quan trọng của địa phương; bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,

UBND, Thường trực HĐND. Các quyết định của HĐND được thể hiện dưới hình thức nghị
quyết.
HĐND thường lệ mỗi năm họp hai kỳ. Ngoài kỳ họp thường lệ, HĐND tổ chức các kỳ họp
chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp
hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu. Thường trực HĐND
quyết định triệu tập kỳ họp thường lệ của HĐND chậm nhất là hai mươi ngày, kỳ họp chuyên đề
hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp.
HĐND họp công khai. Khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín theo đề nghị của Chủ tọa
cuộc họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp.
Ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp HĐND phải được thông báo cho nhân dân
biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu HĐND tham gia.
Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên đã được bầu ở địa phương, Chủ tịch Uỷ ban
MTTQ Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương và đại diện cử tri được
mời tham dự kỳ họp HĐND, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.
Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là năm
ngày trước ngày khai mạc kỳ họp.
1.3.5. Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Đại biểu HĐND cấp xã được nhân dân ở cấp xã tín nhiệm bầu ra là người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân ở cấp xã. Vì vậy, đại biểu HĐND phải gương mẫu chấp hành
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính
sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ VỚI ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP XÃ VÀ VỚI CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở
ĐỊA PHƢƠNG
1.4.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cấp xã
Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cấp xã được quy định tại
Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND quy
định: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân

cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
UBND cấp xã chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn”.
1.4.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Đảng ủy cấp xã
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến
pháp 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo Chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
1.4.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, MTTQ Việt Nam có
vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Được quy định tại Điều 9 Hiến Pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ
chức HĐND và UBND 2003.
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
viên chức Nhà nước”.
Điều 9 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 cũng quy định:
“Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân phối hợp chặt chẽ với Ban thường
trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác
chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và thực
hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước”[9].
Mối quan hệ giữa HĐND cấp xã và MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên ở xã là
quan hệ phối hợp. HĐND cấp xã phối hợp chặt chẽ với MTTQ và các tổ chức thành viên của
Mặt trận ở địa phương xây dựng mối quan hệ làm việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Mỗi năm hai lần vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND cấp xã thông báo bằng văn bản đến

Uỷ ban MTTQ xã về tình hình hoạt động của HĐND cấp mình và nêu những kiến nghị của
HĐND với MTTQ. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Uỷ ban MTTQ báo cáo về hoạt động
của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền, về những ý kiến, kiến nghị, kiến nghị đối với
HĐND và với đại biểu HĐND cấp xã.
Mối quan hệ phối hợp HĐND và MTTQ đã được quy định tại Điều 125 Hiến pháp 1992:
“Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa
phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân
cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông
báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến,
kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương”[12].

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ
2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH THỪA THIÊN –
HUẾ
Nằm giữa miền Trung Việt Nam, Thừa Thiên - Huế có diện tích 5.009,2km, Bắc giáp tỉnh
Quảng Trị, Nam giáp thành phố Đà Nẵng, Đông giáp biển Đông, Tây có dãy Trường Sơn hùng
vĩ và giáp nước bạn Lào.
Thừa Thiên - Huế hiện có 8 huyện và thành phố Huế, cố đô của Việt Nam, đô thị loại 2,
một trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế và du lịch quan trọng của cả nước. Về tổ chức hành chính,
Thừa Thiên - Huế có 8 huyện và thành phố Huế, với 152 xã, phường, thị trấn.
Với vị trí địa lý thuận lợi cùng với những ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú là những tiền đề quan trọng để Thừa Thiên - Huế xây dựng cho mình định hướng phát triển
riêng, phát huy hiệu quả thế và lực của địa phương để giữ vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Trên đây là vài nét về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thừa Thiên - Huế, bên cạnh những
thành tựu đạt được còn có những khó khăn, yếu kém tồn tại. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của các
cấp chính quyền cùng với sự giúp đỡ của nhân dân trong tương lai không xa tình hình kinh tế -

xã hội của tỉnh sẽ có những bước phát triển và thành quả nhất định trên con đường phấn đấu để
đưa tỉnh Thừa Thiên – Huế trở thành thành phố trục thuộc trung ương trong tương lai không xa.
2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ
2.2.1. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Theo quy định thì trong cơ cấu HĐND cấp xã không có các Ban của HĐND, văn phòng
HĐND cho nên trong cơ cấu HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng không có các ban của
HĐND, văn phòng HĐND như ở cấp tỉnh và cấp huyện mà chỉ có Thường trực HĐND.
Thường trực HĐND cấp xã gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Chủ tịch HĐND thường
kiêm nhiệm Bí thư Đảng uỷ cấp xã. Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách.
HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế bao gồm: HĐND phường, HĐND xã và HĐND thị
trấn, có 105 xã, 8 thị trấn và 39 phường với tổng số đại biểu HĐND là 3835 người. Trong số
3835 đại biểu có 3009 đại biểu trong Đảng, 826 đại biểu ngoài Đảng chiếm trên 21%, 3100 đại
biểu nam, 735 đại biểu nữ chiếm trên 19%, độ tuổi trung bình là 42. Về trình độ đại biểu được
thể hiện với những số liệu như sau:
- Về trình độ văn hóa: 144 đại biểu có trình độ tiểu học, 930 đại biểu có trình độ trung học cơ sở,
2761 đại biểu có trình độ trung học phổ thông [1, 1].
- Về trình độ chuyên môn: 1659 đại biểu chưa qua đào tạo, 196 đại biểu có trình độ sơ cấp,
1157 đại biểu có trình độ trung cấp, 820 có trình độ cao đẳng, đại học, 3 đại biểu có trình độ sau
đại học[1, 1].
- Về trình độ lý luận chính trị: 1924 đại biểu chưa qua đào tạo, 372 đại biểu có trình độ sơ
cấp, 1440 đại biểu có trình độ trung cấp, 99 đại biểu có trình độ cao cấp, cử nhân [1, 1].
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.
2.2.2.1. Hoạt động của các kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp xã.
Xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND,
trong nhiệm kỳ qua HĐND cấp xã tại 152 xã, phường, thị trấn tại tỉnh Thừa Thiên - Huế đã tiến
hành tổ chức được 2280 kỳ họp trong đó có 153 kỳ họp bất thường.
Qua tìm hiểu thực tế hoạt động của HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế cho thấy trong
nhiệm kỳ 2004 – 2011 tổng số nghị quyết được ban hành 4560 nghị quyết, chủ yếu là các nghị
quyết về phát triển kinh tế - xã hội, nghị quyết về phê chuẩn quyết toán thu chi ngân sách ngoài

ra còn có một số nghị quyết về kế hoạch sử dụng đất, phân bổ ngân sách.
2.2.2.2. Hoạt động của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp xã
Thường trực HĐND gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND cấp xã. Trong nhiệm kỳ 2004 -
2011 Thường trực HĐND cấp xã đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình như: hoạt động
thường xuyên, đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của HĐND giữa hai kỳ họp, đảm bảo sự sự
giám sát thường xuyên của HĐND và UBND, Chủ tịch HĐND cấp xã đã phối hợp với UBND
trong việc chuẩn bị các nội dung, điều kiện cho kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ chủ tọa, điều
khiển các kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ của chủ tọa, điều khiển các kỳ họp, đảm bảo để các kỳ
họp của HĐND thực hiện được các chương trình mà HĐND đề ra, phát huy tính dân chủ trong
mỗi kỳ họp.
2.2.2.3. Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Cho đến nay các đại biểu HĐND cấp xã đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, tích cực trong
hoạt động giữ gìn phẩm chất đạo đức được nhân dân tín nhiệm. Nhiều đại biểu đã thực hiện tốt
việc tiếp xúc cử tri, thu thập phản ánh đầy đủ các ý kiến, kiến nghị của cử tri đối với HĐND.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trong hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa
Thiên - Huế vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Các đại biểu dành rất ít thời gian cho nhiệm vụ
đại biểu của mình đặc biệt là trong công việc tiếp xúc cử tri vì vậy hiệu quả của công việc tiếp
xúc cử tri chưa cao. Trong kỳ họp vẫn còn tình trạng nhiều đại biểu hầu không phát biểu ý kiến
thậm chí có những đại biểu không phát biểu lần nào trong suốt nhiệm kỳ, theo thống kê thì số đại
biểu chưa phát biểu chiếm khoảng 9,86%. Hầu như đại biểu tham gia thảo luận tại các kỳ họp là
các đại biểu giữ chức vụ chủ chốt lãnh đạo các ban ngành đoàn thể, những đại biểu ít phát biểu
hoặc không phát biểu ý kiến là do hạn chế về trình độ năng lực, nghiên cứu tài liệu chưa sâu,
hoặc thiếu mạnh dạn, vẫn còn một số đại biểu HĐND cấp xã vắng mặt ở các kỳ họp và thực hiện
chức năng giám sát, kiểm tra, đôn đốc cử tri còn hạn chế.
2.2.2.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã
Nhiệm kỳ qua, thường trực HĐND đã tổ chức 5016 đợt giám sát chuyên đề trên nhiều lĩnh
vực trọng yếu. Qua giám sát đã phát hiện và kiến nghị nhiều vấn ðề quan trọng với HÐND và
các ngành chức nãng ðể ðiều chỉnh kịp thời những nhýợc ðiểm, khuyết ðiểm trong quá trình thực
hiện, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác điều hành, quản lý, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển.

Chƣơng 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó đặc biệt quan tâm tới tổ chức
và hoạt động của HĐND, với mục đích làm cho HĐND thực hiện đúng và đầy đủ những chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong những năm gần đây trong xu thế và chủ trương chung của Đảng và Nhà nước hoạt
động của HĐND các cấp có nhiều chuyển biến tích cực. Trước hết đó là vai trò kiểm tra, giám
sát của HĐND đối với UBND và các cơ quan đơn vị trên địa bàn địa phương liên quan đến nhiều
lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, an sinh xã hội.
Trong nhiều năm, khi tổng kết đánh giá hoạt động của HĐND cấp cơ sở, nhất là cấp xã thì
chúng ta đều thừa nhận tình trạng các HĐND hoạt động còn kém hiệu quả.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở, trong suốt quá trình hoạt động HĐND
cấp xã luôn đổi mới và từng bước hoàn thiện, đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong tổ
chức bộ máy nhà nước. Tuy nhiên trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay do
nhiều nguyên nhân vẫn còn nhiều tồn tại nhất định và HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế
cũng không tránh khỏi điều đó.
Trước thực tế đó HĐND các cấp cần phải kiện toàn và cũng cố để bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ và thẩm quyền đã được giao phó. Xây dựng HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ
vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao
hiệu quả hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt động của đại
biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ, quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước
và xã hội.
Vì những lý do trên đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở
tỉnh Thừa Thiên - Huế là một vấn đề hết sức cần thiết.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THỪA THIÊN – HUẾ

Chúng ta cần nhận thức rằng để nâng cao hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của HĐND
nói chung HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng cần phải có những giải pháp đổi mới
một cách thống nhất. Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND phải đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ. HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu hành chính cửa quyền, tham nhũng
lãng phí vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ công chức trong bộ máy chính
quyền địa phương. Mặt khác cần phát huy tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền địa
phương đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hôi, giáo dục, y tế, chăm lo đời sống nhân dân địa
phương đáp ứng nhu cầu bức thiết của nhân dân địa phương.
Ở nước ta hiện nay một số vấn đề về tổ chức của HĐND vẫn chưa được làm rõ và chưa có
định hướng đổi mới một cách căn bản nhất. Hiện nay HĐND cấp xã và cấp huyện hoạt động
chưa thật hiệu quả và đang đứng trước thực tế là phải xóa bỏ hình thức hoạt động của HĐND cấp
huyện và cấp xã. Chủ tịch UBND huyện do chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm còn ở cấp xã chức
danh Chủ tịch UBND xã do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Trước thực tế đó HĐND cấp xã phải được kiện toàn và củng cố để đảm bảo thực hiện tốt
nhiệm vụ và thẩm quyền đã được giao phó. Xây dựng HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ
vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao
hiệu quả hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt động của đại
biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ, quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước.
Để đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã.
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức của Hội đồng nhân dân
cấp xã.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã.
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp


* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến đại biểu Hội đồng nhân dân cấp

* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp xã
3.2.2. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
3.2.2.1. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh
Thừa Thiên - Huế
3.2.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các kỳ họp Hội đồng nhân dân
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân
dân cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế




KẾT LUẬN

. Hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển HĐND nói chung, HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên
- Huế nói riêng đã nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình, đề ra những quyết định, giải pháp
tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần vào việc phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân.

Tuy nhiên những gì mà HĐND cấp xã đã làm được chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế và và
xu hướng phát triển của thời đại. Bước sang thời đại mới trước nhu cầu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước trước sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự thay đổi phương pháp
tư duy, phương pháp luận khoa học trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội, trước sự đổi mới
một cách sâu sắc và toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, để thích ứng với
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của HĐND phải được
đổi mới một cách toàn diện, thiết thực tránh tình trạng hoạt động một cách hình thức.
Qua việc tìm hiểu thực tế cho thấy cơ cấu tổ chức của HĐND các xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Thừa Thiên - Huế nhìn chung chưa phù hợp với thực tiễn, hoạt động của HĐND cấp xã tại
tỉnh Thừa Thiên - Huế đặc biệt là kỳ họp HĐND chưa mang lại hiệu quả cao. Một số chủ trương,
nghị quyết của HĐND chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của cử tri trong xã, phường và
thị trấn của mình mà chỉ mới chú trọng vào mặt hình thức, hướng dẫn chung của chính quyền
cấp trên.
Đại biểu HĐND ở đây mặc dù đã có bước phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng với mong
mỏi của nhân dân. Năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm của đại biểu HĐND chưa tương
xứng với vai trò là người đại diện cho nhân dân ở địa phương.
Chính vì vậy đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh
Thừa Thiên - Huế là vấn đề hết sức cần thiết.
Để đúng nghĩa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND xã cần nâng cao hơn
nữa về chất lượng và hiệu quả hoạt động, góp phần cùng hệ thống chính trị cơ sở lãnh đạo nhân
dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của địa phương.
Tóm lại, HĐND cấp xã với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Tính quyền lực nhà nước
của HĐND được thể hiện rõ nét qua việc nhân dân trực tiếp trao quyền thay mặt mình bằng phổ
thông đầu phiếu bầu ra HĐND để thực hiện quyền lực nhà nước và quyết định các vấn đề quan
trọng ở địa phương.
Với đề tài “Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã – qua thực tiễn ở tỉnh
Thừa Thiên - Huế” tôi hy vọng HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế sẽ hoạt động mang lại
hiệu quả cao hơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở địa phương, làm tròn trách nhiệm để đúng nghĩa là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.




References
1. Các bảng điều tra, số liệu của Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế
nhiệm kỳ 2004 – 2011.
2. Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 63
ngày 22/11 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính.
3. Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 51
ngày 17/10 về việc ấn định thể lệ cuộc tổng tuyển cử.
4. GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam theo Hiến pháp
1992, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
5. Th.S Trần Việt Dũng (2009), Tập bài giảng chuyên đề Hoàn thiện bộ máy nhà nước,
khoa Luật, Đại học Huế.
6. Th.S Trần Việt Dũng (2007), Tập bài giảng môn Luật Hiến pháp Việt Nam, khoa Luật
Đại học Huế.
7. Lê Tư Duyến, Chính quyền điạ phương ở Việt Nam và vấn đề đổi mới hiện nay, Hội thảo
chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
9. Quốc hội nước Việt Nam (1946), Hiến pháp năm 1946, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Quốc hội nước Việt Nam (1959), Hiến pháp năm 1959, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
11. Quốc hội nước Việt Nam (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Quốc hội nước Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1958), Luật tổ chức chính quyền địa
phương.

14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Quốc hội nước Việt Nam (2002), Nghị quyết số 51/2001/QH 10 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2002), Nghị quyết số 17
– NQ/TW về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
21. TS. Vũ Đức Khiển, Một số giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy
toàn diện vai trò của chính quyền địa phương trong giai đoạn mới, Hội thảo chính quyền địa
phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và
một số bài học kinh nghiệm.
22. PGS.TS. Trương Đắc Linh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Từ hai sắc
lệnh số 63/SL và số 77/SL năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đến các bản Hiến
pháp, pháp luật về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và vấn đề đổi mới hiện nay, Hội thảo
chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
23. Đặng Đình Luyến, Một số vấn đề về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân
dân huyện, quận, phường, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát
triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
24. Mác – Ăngghen, Mác – Ăngghen tuyển tập, tập VI, năm 1984, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đoàn Nhuận, Đánh giá thực trạng các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân hiện hành, phương hướng hoàn thiện luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy

ban nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội
thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
26. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X (2007), Nghị quyết số 17
ngày 01/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách
hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
27. Th.S. Phan Văn Ngọc, Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự hình thành, phát triển trên cơ
sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm.
28. Thống kê cơ cấu, chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên -
Huế nhiệm kỳ 2004 – 2011.
29. Th.S. Phạm Thị Bích Thủy, Giải pháp xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước ở địa
phương theo xu hướng tinh gọn và hiệu quả, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam – Sự
hình thành, phát triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh
nghiệm.
30. TS. Văn Tất Thu (2008), “Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức
hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta” đăng trên Tổ chức nhà nước số 12/2008 xây dựng
chính quyền địa phương ở nước ta.
31. TS. Văn Tất Thu (2009), “Cơ sở lý luận tổ chức hợp lý chính quyền địa phương (không
tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường) ở nước ta hiện nay” đăng trên Tổ chức Nhà
nước số 3/2009
32. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Quyết định
394 – TTg về chế độ sinh hoạt phí của đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
33. V.I. Lênin, V.I. Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

×