Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

đánh giá quản lý môi trường làng nghệ lụa nha xá xã yên nam huyện duy tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.14 KB, 53 trang )

CHƯƠNG 1.LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG VÀ
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1.1.Tổng quan chung về quản lý môi trường (QLMT)
QLMT là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội ,có tác động điều chỉnh các
hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối
thông tin đối các vấn đề môi trường có liên quan đến con người ,xuất phát từ quan
điểm định lượng ,hướng tới phát triển bền vững và sử dụnh hợp lý tài nguyên
QLMT được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật pháp ,chính sách ,kinh tế
,kỹ thuật ,công nghệ ,xã hội ,văn hoá ,giáo dục …Các biện pháp có thể đan xen phối
hợp tích hợp với nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể vấn đề đặt ra .Việc quản lý môi trường
được thực hiện ở mọi quy mô .toàn cầu ,khu vực ,quốc gia ,tỉnh ,huyện ,cơ sở sản xuất,
hộ gia đình ,…
 QLMT phải hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:
- Thứ nhất: Phải khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát
sinh trong hoạt động sống của con người.
- Thứ hai là Phát triển bền vững Kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của
một xã hội bền vững do hội nghị Rio- 92 đề xuất và được tuyên bố Johannesburg- Nam
Phi về PTBV tái khẳng định. Trong đó, với nội dung cơ bản cần phải đạt được là phát
triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa
giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học.
- Thứ ba là xây dựng các công cụ có hiệu lực QLMT quốc gia và các vùng lãnh
thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân
cư.
 Đối tượng của công tác quản lý môi trường :
• Theo phạm vi quản lý có thể chia ra các loại :
-Quản lý môi trường khu vực :khu vực đô thị ,nông thôn ,
1
1
-Quản lý môi trường theo ngành kinh tế như công nghiệp ,nông nghiệp ,năng lượng
-Quản lý tài nguyên :tài nguyên nước ,tài nguyên biển ,tài nguyên khí hậu ,….
• Theo tính chất của công tác quản lý môi trường có thể phân loại :


-Quản lý chất lượng môi trường như ban hành va kiểm tra các quy chuẩn ,tiêu
chuẩn về chất lượng không khí ,nước mặt ,nước ngầm ,đất,khí thải ,nước thải,chất thải
rắn và chất thải nguy hại .
-Quản lý kỹ thuật môi trường :quản lý hệ thống quan trắc ,giám sát ,đánh giá chất
lượng các thành phần môi trường ,các trạm phân tích ,các phòng thí nghiệm phân tích
chất lượng môi trường …
-Quản lý kế hoạch môi trường :quản lý xây dựng và thực thi các kế hoạch bảo vệ
môi trường từ trung ương đến địa phương ,…
 Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm:
- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã
hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư
trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng
hợp thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc
phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và
các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm.
1.2.Các công cụ QLMT
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp, các phương tiện, các phương thức
sử dụng nhằm giúp cho việc thực hiện những nội dung của QLMT môi trường tốt hơn.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Công cụ điều
chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là luật
pháp và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động trực tiếp tới hoạt
2
2
động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt v.v và công cụ
kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường trong
công tác bảo vệ môi trường. Công cụ hỗ trợ gồm có các công cụ kỹ thuật như GIS, mô

hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi trường.
1.2.1 Công cụ luật pháp và chính sách
Công cụ luật pháp và chính sách là các quy định, quy chế, nghị định, luật pháp
được ban hành của Nhà Nước để điều khiển các hành vi và giám sát đối với những đối
tượng gây ra những ảnh hưởng đến môi trường và buộc họ phải tuân thủ theo quy định
của luật pháp
1.2.2 Công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có tác dụng làm thay đổi chi phí và
lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường nhằm mục
đích tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra huỷ hoại môi trường .
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng trên các nguyên tắc cơ
bản đã được quốc tế thừa nhận là “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và nguyên
tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP)
- Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) đề ra 1972 cho rằng: Những
tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô
nhiễm. Đồng thời nguyên tắc PPP “mở rộng” 1974 chủ trương rằng, các tác nhân ngoài
việc tuân thủ các chi phí tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm còn phải bồi thường cho
những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra.
- Nguyên tắc “Người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP) cho rằng những người
được hưởng lợi từ việc chất lượng môi trường được cải thiện cũng phải trả một khoản
tiền.
* Các công cụ kinh tế như :
- Thuế và phí môi trường
- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm".
- Ký quỹ môi trường.
3
3
- Trợ cấp môi trường và nhãn sinh thái.
1.2.3. Công cụ kĩ thuật
Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về

chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong
môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh giá môi trường,
monitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ kỹ thuật
quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào.
Công cụ kĩ thuật hỗ trợ cho việc thực hiện các công cụ pháp lý và công cụ kinh tế và
đây là công cụ không thể thiếu trong QLMT.
Tuy nhiên việc áp dụng công cụ kỹ thuật thường gặp phải trở ngại do chi phí đầu
tư tốn kém và đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao.
1.3 Quản lý môi trường làng nghề
1.3.1 Giới thiệu chung về làng nghề
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước
đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề;
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập
của làng.
Chính sách đổi mới kinh tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các ngành nghề thủ
công truyền thống Việt Nam. Sau thời gian ngừng trệ, ì ạch, bế tắc, trong vòng 10 năm
trở lại đây, từ các nguồn ngân sách hỗ trợ của Nhà nước, kết hợp với cơ chế thoáng mở
cửa của nền kinh tế thị trường và sự năng động cũng như tâm huyết với nghề của
những người dân, các làng nghề thủ công không ngừng thay da đổi thịt và đã tạo nên
một diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam. Theo số liệu gần đây nhất, hiện cả nước có
1450 làng nghề phân bố ở 58 tỉnh và thành phố trong cả nước, riêng địa bàn Đồng bằng
sông Hồng có khoảng 800 làng. Các tỉnh có số lượng làng nghề đông bao gồm: Hà Tây
4
4
có 280 làng, Thái Bình có 187 làng, Bắc Ninh có 59 làng, Nam Định có 90 làng, Thanh
Hoá có 127 làng… ,Hà Nam có hơn 40 làng nghề truyền thống
Hàng năm giá trị kinh tế từ sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề khoảng 600
triệu USD. Theo ước tính, trong vòng 10 năm qua, làng nghề nông thôn Việt nam đã có

tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 8%/năm, tính theo giá trị đầu ra. Các
ngành nghề chủ yếu được phát triển ở làng nghề như tại bảng 1.1
Bảng 1.1 Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam
Ươm
tơ, dệt
nhuộm
, đồ da
Chế biến
nông sản,
thực
phẩm
Tái chế
Thủ
công
mỹ
nghệ
Vật liệu
xây
dựng,
gốm sứ
Nghề
khác
Tái
chế
giấ
y
Tái
chế
kim
loại

Tái
chế
nhựa
Miền Bắc 138 134 4 53 4 404 17 222
Miền
Trung
24 42 0 23 1 121 9 77
Miền Nam 11 21 0 5 0 93 5 42
Tổng
cộng
173 197 4 81 5 618 31 341
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hiện nay, do điều kiện thương mại phát triển, nhu cầu ngày càng gia tăng cả trong
nước và thế giới thì quy mô sản xuất của các làng nghề ngày càng phát triển và được
mở rộng, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, sản xuất nhỏ là chủ
yếu. Trong thời gian qua, các làng nghề đã tạo ra một lượng lớn hàng hóa và đa dạng sản
phẩm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nông dân, góp phần đáng kể vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn Bên cạnh lợi
ích về kinh tế, làng nghề còn là nơi lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc trưng.
5
5
Quy mô của các cơ sở sản xuất ở các làng nghề rất linh động, từ hộ gia đình đến các tổ
hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tuy nhiên chủ yếu là quy mô hộ gia đình (chiếm 80,1%).
Trong mỗi tỉnh có thể có rất nhiều loại làng nghề.
1.3.2 Thực trạng môi trường tại các làng nghề
Do ô nhiễm môi trường, lao động không có dụng cụ bảo hiểm và sinh hoạt hàng
ngày chung với môi trường sản xuất, tình trạng sức khoẻ của người dân làng nghề bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Kết quả nghiên cứu cả nước có trên 4200 cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, nhưng việc xử lý đạt ở mức thấp, trung bình chỉ khoảng 26%.
Thực tế này đã dẫn đến tỷ lệ người dân ở các làng nghề bị mắc các bệnh thông thường và

hiểm nghèo cao gấp 2-3 lần các làng xã thuần nông. 51 làng xã thuộc 25 tỉnh thành được
cho là “làng ung thư”, với tỷ lệ người dân nghi ngờ mắc, chết do ung thư cao cũng là
những làng nghề, hoặc làng nằm gần khu công nghiệp, kho hóa chất, bãi rác bị ô nhiễm.
Trong các làng nghề, tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất liên quan đến hô hấp như viêm họng
chiếm 30,56%, viêm phế quản 25% hay đau dây thần kinh chiếm 9,72%.
Nguyên nhân của một số bệnh tật phổ biến trong nhân dân hiện nay, theo đánh giá
của Bộ Y tế là do suy thoái môi trường không khí, nước, đất, chất thải công nghiệp và
đô thị, chất thải y tế, ô nhiễm tiếng ồn
1.3.2.1 Hiện trạng môi trường nước
Theo kết quả xét nghiệm của Viện khoa học và công nghệ môi trường (trường Đại
học Bách khoa Hà Nội) thì 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều vượt quá tiêu
chuẩn cho phép, nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Ô nhiễm nước có thể
được chia ra thành ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô
nhiễm bởi các tác nhân vật lý. Ô nhiễm hữu cơ thường gặp ở các làng nghề chế biến
nông sản, thực phẩm. Nước thải của các làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu
chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học. Ví dụ như nước thải của quá trình sản xuất tinh bột
từ sắn có hàm lượng ô nhiễm rất cao (COD = 13.300 - 20.000mg/l; BOD
5
= 5.500 -
125.000 mg/l). Ô nhiễm hóa chất thường gặp ở các làng nghề dệt nhuộm. Do sản xuất
có sử dụng nhiều nước, hoá chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm trong
6
6
nước thải làng nghề dệt nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải: chất
bẩn, dầu, sáp, hợp chất chứa nitơ, pectin trong quá trình nấu tẩy, chuội tơ và các hoá
chất sử dụng trong quy trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH, H
2
SO
4
, HCl, Na

2
CO
3
,
các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 - 30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất
sử dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải.
Bảng 1.2. Đặc trưng nước thải của một số làng nghề dệt nhuộm điển hình
T
T
Tên làng nghề
Lượng
nước
thải (m
3
/
ngày)
Chỉ tiêu chất lượng nước thải
pH COD
BOD
5
SS
Độ
màu
1
Ươm tơ Cổ Chất - Nam
Định 100 - 6.076 2.400 764 4110
2
Ươm tơ Đông Yên- Quảng
Nam 20 7,2 632 241 517 69
3

Ươm tơ Bảo Lộc - Lâm
Đồng 50 7,8 1.020 780 215 466
4
Dệt nhuộm Phương La -Thái
Bình 960
8 -
9,7
320-
900
72-
410 14
77-
139
5
Dệt đũi Nam Cao - Thái
Bình - 8,2 372 212 375 260
6
Dệt nhuộm Thái Phương-Thái
Bình - 6,9 312 272 205 195
TCVN 5945 - 1995 (Nước
Loại B)
5,5 -
9 100 50 100
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Đối với các làng
nghề tái chế giấy, ô nhiễm chủ yếu từ nước thải ở các công đoạn ngâm tẩm, nấu và
nghiền nguyên liệu cũng như công đoạn xeo giấy. Lượng nước thải này còn chứa hoá
chất dư, bột giấy và có hàm lượng chất hữu cơ cao, nên hàm lượng ôxy hoà tan tại các
nguồn tiếp nhận rất thấp, gần như bằng 0. Bột giấy, xơ sợi còn sót trong nước thải gây
bồi đắp lòng mương, ao hồ. Đối với các làng nghề tái chế nhựa, do đặc thù nguyên liệu

7
7
thu gom từ nhiều nguồn và đều là nhựa phế thải có dính nhiều tạp chất, nên trong quá
trình công nghệ sử dụng rất nhiều nước để rửa phế liệu. Lượng nước này ước tính
khoảng 20 - 25m
3
/tấn nhựa phế liệu. Thành phần của nước thải này rất phức tạp, vì
chứa nhiều loại hợp chất vô cơ, hữu cơ bám dính trên nhựa trong quá trình sử dụng,
trong đó có cả các chất độc hại (từ bình chứa thuốc trừ sâu, hoá chất, ), vi sinh vật gây
bệnh. Tại các làng nghề tái chế kim loại, lượng nước sử dụng không nhiều, chỉ dùng
cho nước làm mát, vệ sinh thiết bị, nhà xưởng và nước thải từ quá trình tẩy rửa và mạ
kim loại nên có hàm lượng các chất độc hại khá cao, đặc biệt là các kim loại nặng. Ô
nhiễm nước do kim loại cũng thường gặp tại các làng nghề chạm,mạ bạc.
1.3.2.2 Hiện trạng môi trường không khí
Đặc trưng nhất của làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là mùi hôi thối do sự
phân hủy của các hợp chất hữu cơ có trong chất thải rắn và nước thải từ các cống rãnh,
kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra các khí độc rất ảnh
hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề. Đặc biệt phải kể đến các làng nghề sản xuất
nước mắm, do phơi ngoài trời nên mùi hôi, tanh khắp cả làng rất khó chịu.
Ô nhiễm từ các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng. Ô nhiễm chủ yếu ở
các làng nghề tái chế giấy là bụi, hơi kiềm, Cl
2
do dùng nước Javen để tẩy trắng và hơi
H
2
S. Tại một số vị trí sản xuất, hàm lượng Cl
2
vượt tiêu chuẩn cho phép tới ba lần, hơi
H
2

S tại các bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1 - 3 lần.Trong công nghệ tái
chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ công đoạn gia nhiệt trong quá trình tạo hạt, đùn túi
làm nhựa cháy sinh khí độc như HCl, HCN, CO, HC.
. Các tác động chủ yếu đến môi trường từ hoạt động của các làng nghề sản xuất
vật liệu xây dựng là ô nhiễm không khí do bụi và khói lò nung. Quy trình nung vôi,
gạch ở các làng nghề chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng nhiên liệu là than.
Khí thải từ các lò nung đốt than chứa bụi, các khí ô nhiễm. Đặc biệt các lò nung thường
không được thiết kế đúng quy cách, nên quá trình cháy không hết, tạo ra các sản phẩm
cháy nhiên liệu thiếu ôxy như CO, SO
2
, Bụi phát sinh từ khâu khai thác, gia công đất
nguyên liệu, vận chuyển vào lò, ra lò và bốc dỡ sản phẩm.
8
8
Bảng 1.3. Ước tính tải lượng ô nhiễm của một số làng nghề sản xuất gạch
và nung vôi
TT Tên làng nghề
Lượng
SP/năm
Bụi
tấn/nă
m
CO
tấn/nă
m
SO
2
tấn/nă
m
NO

2
tấn/nă
m
1
Khai Thái, Hà Tây 170 triệu
viên
3.774 477,7 72,93 339,16
2
Phước Lâm, Khánh Hòa 63,3 triệu
viên
1.405,3 177,9 42,55 176
3
Tân Yên, Bình Dương 967 triệu
viên
21.467 2.717 691 2.688
4
Các làng nghề Mang
Thít, Vĩnh Long
310 triệu
viên
6.822 871 221,7 861,8
5
Đồng Tân, Thanh Hóa 49.680 tấn
vôi
131 216 162,7 122
6
Kiện Khê, Hà Nam 19.000 tấn
vôi
598 985 556 556
7

Đáp Cầu, Bắc Ninh 50.000 tấn
vôi
182 300 226 170
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống
1.3.2.3 Hiện trạng môi trường đất
Cùng với sự phát triển của làng nghề là sự phát sinh một lượng chất thải lớn. Hầu
hết các chất thải này đều đổ trực tiếp các nguồn nước (sông, kênh mương) đất canh tác,
để dự phòng Điều này làm thay đổi thành phần lý hoá tính của đất, ảnh hưởng đến
mùa màng và hoa màu của nông dân tại làng nghề và cả các vùng lân cận Đồng thời
các chất ô nhiễm có trong môi trường nước đã ngấm vào môi trường đất khiến cho môi
trường đất bị ô nhiễm trầm trọng.
1.3.3 Một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề môi trường làng nghề
. Hiện nay, đã có nhiều giải pháp được áp dụng đồng thời nhằm giải quyết vấn để
môi trường làng nghề. Nhưng có thể phân ra thành hai hướng giải pháp cơ bản: Giải
pháp về công nghệ và Giải pháp về quản lý.
9
9
1.3.3.1 Giải pháp về công nghệ
Các làng nghề thường sử dụng công nghệ thủ công, lạc hậu thường gây ô nhiễm môi
trường. Vì vậy, đổi mới công nghệ là một trong những giải pháp tối ưu nhằm hướng tới sự
phát triển bền vững của làng nghề. Hiện nay, các nhà khoa học rất chú trọng vào việc áp
dụng công nghệ sản xuất sạch hơn vào sản xuất làng nghề.
*) Áp dụng các mô hình sản xuất làng nghề gắn với sản xuất sạch hơn
Mô hình này chú trọng vào các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu lượng phát
thải bằng các biện pháp cải tiến công nghệ, nhằm sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn
nguyên nhiên liệu, tài nguyên; áp dụng các biện pháp quản lý và xử lý chất thải phù hợp
(chú trọng tới biện pháp tái chế, tái sử dụng) nhằm bảo vệ môi trường hiệu quả.
Để thực hiện tốt hướng này, các cơ quan quản lý về khoa học công nghệ, tài
nguyên và môi trường các địa phương cần có kế hoạch trong việc hợp tác với các cơ
quan nghiên cứu khoa học công nghệ của Trung ương để giải quyết những nhiệm vụ cụ

thể ở địa phương mình, trong đó chú trọng tới cải tiến công nghệ sản xuất và áp dụng các
công nghệ môi trường đơn giản, rẻ tiền, phù hợp với quy mô, trình độ của các làng nghề
và chú trọng tới các biện pháp tuyên truyền và quản lý chặt chẽ, nhằm khuyến khích các
hộ sản xuất tự nguyện sử dụng. Bên cạnh đó Nhà Nước cần hỗ trợ cho các làng nghề khi
áp dụng các công nghề và tạo điều kiện để người dân tiếp cận với các công nghệ này.
Năm 2005, Liên minh HTX Việt Nam cũng đã bước đầu xây dựng mô hình thử
nghiệm về sản xuất sạch hơn cho một số làng nghề chế biến nông sản thực phẩm
1.3.3.2 Giải pháp về quản lý
Với đặc trưng của làng nghề thường sản xuất với quy mô hộ gia đình, các cơ sở
sản xuất không tập trung, thường phân bố trong khu vực làng, xã do đó đối với quản lý
làng nghề nên lấy quản lý cấp xã làm nòng cốt. Đồng thời tăng cường và tổ chức hệ
thống quản lý môi trường làng nghề từ quy mô cấp tỉnh, huyện, xã tới thôn xóm. Ở cấp
xã việc quản lý làng nghề có thể được triển khai cụ thể, phù hợp nhất đối với điều kiện
của địa phương mình. như việc quy định về đóng góp cho quỹ môi trường, chế độ
10
10
thưởng phạt, kể cả thuế môi trường đối với các hoạt động phát sinh hoặc giảm thiểu ô
nhiễm.
Trong quản lý làng nghề có thể bao gồm nhiều giải pháp như giải pháp quy hoạch
không gian làng nghề gắn bảo vệ môi trường, thực hiện quan trắc, giám sát môi trường
tại các làng nghề thường xuyên. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục môi trường giúp
người dân trong các làng nghề nhận thức môi trường, đồng thời qua đó hướng sự quan
tâm của người dân vào nhiệm vụ bảo vệ môi trường và huy động sự tham gia của cộng
đồng vào công tác QLMT.
*) Giải pháp quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường
- Chuyển đổi làng nghề thành khu du lịch
Kết hợp phát triển làng nghề với hoạt động du lịch. Đây là mô hình được nghiên cứu
và nhân rộng trong chương trình phát triển ngành du lịch ở Việt Nam. Để làng nghề
phát triển được theo hướng này, thì điều quan trọng nhất là giữ gìn bản sắc văn hoá của
làng nghề, phát triển các sản phẩm mang tính đặc trưng văn hoá và tính nghệ thuật cao.

Giá trị sản phẩm không chỉ tính bằng giá nguyên liệu và công lao động, mà chủ yếu
được đánh giá bằng tính nghệ thuật và tính văn hoá của sản phẩm. Điều thu hút khách
du lịch sẽ không chỉ là sản phẩm của làng nghề, mà chính là hoạt động sản xuất truyền
thống ở làng nghề. Với các làng nghề kết hợp với khu du lịch theo mô hình này, vấn đề
vệ sinh môi trường sẽ được đặt ra như là một tiêu chí quan trọng trong việc quy hoạch
làng nghề. Điều kiện môi trường cũng sẽ là một trong những yếu tố thu hút khách du
lịch. Việc phát triển các làng nghề theo hướng này chủ yếu nên áp dụng với các làng
nghề truyền thống lâu đời, có các mặt hàng mang tính đặc thù văn hoá Việt Nam, đặc
biệt là các làng nghề thủ công mỹ nghệ, dệt nhuộm, gốm sứ… Hiện nay, những làng
nghề truyền thống như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh),
lụa Vạn Phúc (Hà Tây),lụa Nha Xá (Hà Nam), đồ đá Non Nước (Quảng Nam), nghề
thêu ở Huế đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn.
*) Xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nông thôn:
Mô hình này sẽ thích hợp với các làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới. Mô hình
sản xuất tập trung ở khu vực gần làng xã, thuận tiện cho việc quy hoạch tổng thể mà
vẫn giữ được những lợi thế đặc trưng của sản xuất tại các làng nghề.
11
11
Nhu cầu hình thành các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hiện nay đang rất
bức xúc xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ áp lực lên môi trường sống của người dân nông
thôn và cũng phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam. Tuy nhiên, công nghiệp ở nông thôn nước ta cần phải được tổ chức lại sao
cho có hệ thống, trật tự và phát triển bền vững, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội và tránh gây ô
nhiễm đến môi trường.
Những thế mạnh của các làng nghề tiểu thủ công truyền thống được phát huy trong
bối cảnh xã hội hiện đại, vừa tạo vị thế của ngành tiểu thủ công nghiệp trong bối cảnh
công nghiệp hoá nông thôn đang được đẩy mạnh thông qua việc phát triển các khu công
nghiệp vừa và nhỏ nông thôn, vừa góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc thông qua
việc bảo tồn các làng nghề truyền thống.
Việc xây dựng các cụm điểm công nghiệp làng nghề cũng tạo thuận lợi trong việc

quy hoạch các làng nghề cách xa các khu vực tập trung dân cư, xây dựng khu xử lý tập
trung và thực hiện QLMT.
*) Giải pháp quan trắc môi trường làng nghề
Quan trắc môi trường nhằm theo dõi, đo đạc thường xuyên đối với một số chỉ
tiêu, chỉ thị thành phần môi trường có tính hệ thống, để cung cấp các thông tin cần
thiết về chất lượng của môi trường giúp cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, để thực hiện công tác quan trắc thuận lợi cần có những đầu tư vào trang thiết bị
quan trắc hiện đại. Đây là yêu cầu khó khăn đối với cơ quan quản lý cấp xã, do đó cần
huy động sự đầu tư của Nhà Nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
*) Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng
Để có thể thực hiện các biện pháp trên tốt và mang lại lợi ích cho làng nghề, góp
phần bảo vệ môi trường làng nghề cần nâng cao dân trí cho dân làng nghề để họ hiểu
được những tác hại của việc suy giảm chất lượng môi trường sống do hoạt động sản
xuất nghề. Trước tiên phải nói đến những thiệt hại do việc suy giảm chất lượng môi
trường gây ra mà chính người dân tại làng nghề phải gánh chịu, và sau đó là thiệt hại
đối với toàn xã hội, qua đó họ sẽ nhận thức được và từ đó có ý thức bảo vệ môi trường
12
12
làng nghề. Cần định hướng sự tham gia của người dân làng nghề và của toàn thể cộng
đồng vào công tác bảo vệ môi trường.
Để đảm bảo cho cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường, cần thiết phải có sự kết
hợp hiệu quả và sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa chính quyền địa phương, cộng
đồng và sự phối hợp với những nhà khoa học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong
đó cộng đồng phải tham gia đầy đủ từ khâu lập kế hoạch, thực thi, giám sát và chia sẻ
quyền lợi. Trên hết muốn huy động nguồn lực từ nhân dân phải cho người dân thấy rõ
lợi ích từ các mô hình mang lại.
CHƯƠNG 2 :THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG TẠI LÀNG NGHỀ LỤA NHA XÁ –XÃ MỘC NAM –HUYỆN DUY
TIÊN –TỈNH HÀ NAM
2.1.Giới thiệu chung về làng nghề ở huyện Duy Tiên –tỉnh Hà Nam

Duy Tiên là một huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Nam , phía bắc giáp Hà Nội
phía đông đối diện với thành phố Hưng Yên và huyện Kim Động của tỉnh Hưng
Yênqua sông Hồng và huyện Lý Nhân , phía nam giáp huyện Bình Lục và thành phố
Phủ Lý , phía tây giáp Hà Nội và huyện Kim Bảng .Diện tích chủ yếu của huyện là
đồng bằng .Huyện Duy Tiên có dân số vào khoảng 150.000 người, bao gồm 21 xã, thị
trấn.
Duy Tiên là một trong những huyện có thế mạnh về làng nghề truyền thống với
nhiều nghề thủ công đã có từ lâu đời như: ươm tơ, dệt lụa, mây giang đan, thêu ren,
bưng trống …Duy Tiên có 6 làng nghề, trong đó có 4 làng nghề truyền thống là: làng
nghề trống Đọi Tam, thêu ren Vũ Xá (Yên Bắc), dệt lụa Nha Xá (Mộc Nam), mây
giang đan Ngọc Động (Hoàng Đông) và 2 làng nghề mới là: làng nghề ươm tơ kéo kén
Từ Đài (Chuyên Ngoại) và Mây giang đan Hoà Trung (Tiên Nội). Để khuyến khích
khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống, UBND huyện đã chỉ đạo xây dựng Quỹ
13
13
Khuyến công, triển khai nhiều giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế mạnh
dạn đầu tư đẩy mạnh phát triển ngành nghề, khôi phục và nhân cấy nghề mới nhằm tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động . Nhờ đó, các nghề truyền thống của huyện
đã có bước phát triển vững chắc đạt giá trị sản xuất lớn. Tiêu biểu là nghề mây giang
đan ngày càng được nhân rộng tới từng thôn, xóm. Nhiều mặt hàng đã chinh phục được
thị trường trong nước và quốc tế , trở thành những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của
huyện như : lụa, đũi, bát đĩa mây, thêu ren, long nhãn, hạt sen … Số lượng các doanh
nghiệp sản xuất CN-TTCN tăng nhanh. Năm 2005 có 54 doanh nghiệp hoạt động trên
lĩnh vực sản xuất CN-TTCN, đến năm 2008 tăng lên 71 doanh nghiệp với tổng số vốn
chủ sở hữu lên đến 1.185.250 triệu đồng.
2.2 Đặc thù của làng lụa Nha Xá - xã Mộc Nam –huyện Duy Tiên –tỉnh Hà Nam .
2.2.1.Vị trí địa lý
Xã Mộc Nam là một xã đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng nằm ở vị trí trung
tâm huyện Duy Tiên , tỉnh Hà Nam, là địa bàn giáp ranh của 5 xã và 2 thị trấn
Làng Nha Xá thuộc xã Mộc Nam huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam có vị trí địa lý

khá thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá: nằm gần trung tâm huyện đường liên
huyện chạy dọc theo chiều dài xã, cách đường Quốc lộ 1A 2 km và thị xã Phủ Lý 5 km
về phía Nam (trung tâm tỉnh Hà Nam) , Vì vậy rất có lợi thế để phát triển kinh tế xã
hội, đặc biệt là để tiêu thụ hàng hóa tiểu thủ công nghiệp.
2.2.2 .Đặc thù tự nhiên - xã hội
Làng nghề lụa Nha Xá là một trong 2 làng nghề được công nhận làng nghề dệt
lụa truyền thống với hơn 1.500 lao động lành nghề chiếm 91% tổng số lao động trong
làng, ngoài ra còn tạo ra được hơn 2.000 việc làm cho các lao động lúc nông nhàn. Với
lực lượng lao động dồi dào như vậy là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của làng
nghề ở hiện tại cũng như trong tương lai.
2.2.3.Đặc thù kinh tế
14
14
Thôn Nha Xá là trung tâm phát triển kinh tế của xã Mộc Nam , thu nhập
bình quân cao nhất xã: 660.000 đồng /người /tháng. Thôn có đầu mối giao thông
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là tiêu thụ hàng hoá tiểu thủ công
nghiệp.
Tốc độ phát triển bình quân của ngành thương mại dịch vụ của xã trong những
năm gần đây đạt bình quân 12,5%. Lao động ngành này có thu nhập bình quân cao so
với lao động của các ngành khác
2.3. Biến động điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế -xã hội của làng nghề luạ
Nha Xá –Xã Mộc Nam .
2.3.1. Thay đổi về điều kiện tự nhiên của làng nghề
 Khí hậu
Khí hậu xã Mộc Nam nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên có đầy đủ các đặc
trưng của khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng, đó là nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa
đông lạnh.
Mùa đông lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước kết thúc vào tháng 4 năm sau, thuộc
khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, khô hanh. Hướng gió thịnh hành là gió
Đông Bắc và gió Đông Nam.

Mùa hè bắt đầu từ tháng 5 kết thúc vào tháng 10, số giờ nắng trong năm khoảng 1300 giờ
nắng. Nhiệt độ trung bình năm 24
0
C, nhiệt độ cao nhất lên đến 39,8
0
C. Chế độ mưa ở Hà
Nam thay đổi nhiều trong năm, mưa tập trung vào mùa hè (mùa mưa) bắt đầu từ tháng 5 kéo
dài đến tháng 10, tổng lượng mưa trung bình trong năm là 1582mm. Độ ẩm trung bình năm
khoảng 82,42%.
 Địa hình ,thổ nhưỡng
Xã Mộc Nam có địa hình bằng phẳng, thành phần đất chủ yếu là đất phù sa, thành
phần cơ giới nhẹ, đất tơi xốp. Nhìn chung đất đai của xã thuộc loại có độ phì nhiêu cao.
15
15
thích hợp cho trồng rau màu, cây ăn quả, có điều kiện phát triển trang trại. Vùng đồng
thích hợp cho cấy lúa và có thể phát triển một số cây ăn quả như: cam canh, nhãn, vải
2.3.2.Phát triển kinh tế xã hội
 Đặc điểm dân số và lao động
Nguồn lao động của xã tương đối dồi dào và chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, hiện nay
toàn xã có 3039 hộ, với 13007 nhân khẩu, số hộ nông nghiệp là: 937 hộ (chiếm 30,83%), lao
động nông nghiệp 2973 lao động (chiếm 24,84%). Hộ phi nông nghiệp là 2102 hộ (chiếm
69,17 %), trong đó hộ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) là 1488 hộ (chiếm 70,79% số
hộ phi nông nghiệp). Số lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động và có xu hướng tăng lên về tỷ trọng. Lao
động CN - TTCN luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng cơ cấu lao động chiếm gần một nửa
số lao động qua các năm, năm 2009 là 4585 lao động chiếm 71,81% lao động, và số lượng lao
động này liên tục tăng lên với tốc độ bình quân khoảng gần 700 lao động trên năm. Lao động
làm dịch vụ chỉ tăng lên từ 2008, tuy nhiên lực lượng lao động này chiếm tỷ trọng nhỏ nhất
trong số lao động phi nông nghiệp (khoảng 2,88% năm).
Số lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, năm 2009 là 3814 lao động nhưng đến 2011

chỉ còn 2973 lao động giảm 841 lao động. Điều này cho thấy số lao động làm nông nghiệp đã
chuyển dần sang các lĩnh vực khác, chủ yếu là TTCN. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang phi nông nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng ngành TTCN đã chiếm ưu thế cùng với
thương mại - dịch vụ. Theo chiến lược phát triển kinh tế của xã, trong những năm tới phấn đấu
ngành CN - TTCN đóng góp 60% GDP của xã, đồng thời đưa xã Mộc Nam trở thành trung tâm
TTCN của huyện Duy Tiên
16
16
Đất đai và tình hình sử dụng đất đai
Qua các năm tình hình sử dụng đất đai của xã có sự thay đổi, được thể hiện qua
bảng 2.4
BẢNG 2.1: BIẾN ĐỘNG DIỆN TÍCH ĐẤT THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
NĂM 2011 SO VỚI NĂM 2010 VÀ NĂM 2008
(Đơn vị tính: ha)
Thứ
tự
Mục đích sử dụng đất Mã
Diện
tích
năm
2008
So với năm

2010
So với năm

2008
Diện
tích
Tăng (+)

giảm (-)
Diện
tích
Tăng (+)
giảm (-)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
Tổng diện tích tự nhiên
811,11
811,11
811,
+0,04
1
Đất nông nghiệp
NN
577,3
595,0
-17,69
617,
-40,23
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
SX
531,6

547,7
-16,04
569,
-37,45
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
CH
500,3
516,3
-16,04
529,
-29,26
1.1.1.
Đất trồng lúa§
LU
475,3
491,3
-16,04
512,
-37,04
1.1.1.
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi§
CO
2,21
2,21
2,21
1.1.1.
Đất trồng cây hàng năm khác§
HN
22,79

22,79
15,0
+7,78
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
CL
31,35
31,35
39,5
-8,19
1.2
Đất nuôi trồng thuỷ sản
NT
45,64
47,29
-1,65
48,4
-2,78
2
Đất phi nông nghiệp
PN
231,7
214,0
+17,6
191,
+40,3
2.1
Đất ở
OT
60,57

60,57
61,5
-0,95
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
ON
60,57
60,57
61,5
-0,95
2.2
Đất chuyên dùng
CD
143,7
126,5
+17,2
105,
+38,5
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự
CT
1,53
2,18
-0,65
1,56
-0,03
2.2.2
Đất quốc phòng
CQ
0,28

0,28
0,28
2.2.3
Đất an ninhw
CA
N
0,35 0,35 0,35
2.2.4
Đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp
CS
K
10,74 10,74 3,39 +7,35
2.2.5
Đất có mục đích công cộng
CC
130.8
113.0
+17,8
99,7
+31,8
2.3
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
TT
2,66
2,66
2,66
2.4
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
NT

8,67
8,67
8,70
-0,03
2.5
Đất sông suối và mặt nước
SM
13,52
13,05
+0,47
13,2
+0,29
2.6
Đất phi nông nghiệp khác
PN
2,49
2,49
+2,49
3
Đất chưa sử dụng
CS
2,10
2,10
2,13
-0,03
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
BC
2,10
2,10

2,13
-0,03
(nguồn: thống kê 25-2-2011 của sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Nam)
17
17
Qua bảng 2.4 ta thấy năm 2011 so với năm 2010 cơ cấu đất tự nhiên theo mục
đích sử dụng của xã Mộc Nam như sau:
Tổng diện tích đất tự nhiên là: 811,11 ha, trong đó đất nông nghiệp là: 577, 31
ha chiếm trên 71% tổng diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp giảm so với năm 2005
là 40,23 ha (do quá trình đô thị hóa chuyển mục đích đất nông nghiệp sang đất chuyên
dùng). Đất thổ cư là 60, 57 ha chiếm 7,4% tổng diện tích đất tự nhiên.
Diện tích đất chuyên dùng tăng mạnh từ 105, 2 ha năm 2005 lên 143, 79 ha năm
2011, diện tích đất chuyên dùng tăng chủ yếu vào mục đích đất sản xuất kinh doanh phi
nông nghiệp.
Như vậy tình hình sử dụng đất của địa phương trong thời gian qua rất phù hợp
với chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp.
 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi địa phương, cơ
sở hạ tầng cũng phản ánh trình độ phát triển của mỗi địa phương.
- Đường giao thông : xã có vị trí địa lý khá thuận lợi trong việc lưu thông hàng
hoá: nằm sát trung tâm huyện, đường liên huyện chạy dọc theo chiều dài xã, xã cách
đường Quốc lộ 1A 1km , thị xã Phủ Lý khoảng 7 km về phía Nam.
Hệ thống giao thông trong xã có khoảng 35 km,; 5 Km trục liên huyện đều đã
được giải nhựa Apphan. Hệ thống giao thông nông thôn 100% được bê tông hoá. Tuy
nhiên do tốc độ công nghiệp hóa của khu vực, lưu lượng xe ô tô trọng tải lớn càng ngày
càng cao (khoảng 800 lượt xe mỗi ngày) đã gây ra tình trạng ùn tắc. Đồng thời những
đoạn đường có mật độ xe chạy qua nhiều đã bị xuống cấp nghiêm trọng.
- Năng lượng điện : hiện tại toàn xã có 4 trạm biến áp với công suất 4.790 KVA,
mỗi năm được cung cấp 15, 7 triệu KW. Hệ thống điện đã được đầu tư cải tạo liên tục

nhưng vào những thời điểm, cao điểm lượng tiêu thụ trên địa bàn lớn nên thường xảy
ra tình trạng quá tải.
- Đầu tư, phát triển đời sống dân sinh khác : Các công trình phúc lợi của xã đã
và đang góp những phần tích cực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa
18
18
phương. Các trường học đã được đầu tư mở rộng đảm bảo đầy đủ những điều kiện học
hành tốt nhất cho học sinh. Trạm y tế xã ở gần trung tâm xã tạo điều kiện tốt nhất để
mọi người dân đến khám chữa bệnh được thuận lợi nhất. Do có công ăn việc làm và
thu nhập thường xuyên nên đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân trong làng
được nâng cao. Số hộ có nhà cao tầng, nhà mái bằng chiếm tỷ lệ 56%, số hộ có điện
thoại chiếm tỷ lệ 35% số hộ dân trong thôn. 100% số hộ dân có tivi, radiocassette.
Trong làng có gần 200 xe máy. Không còn hộ đói và nhà tranh tre vách đất, số hộ
nghèo giảm còn 7%. Xã có một trạm phát thanh trung tâm, và ở mỗi xóm đều có một
loa phóng thanh. Trạm phát tranh có nhiệm vụ phát thanh các tin tức liên quan tới các
nghị quyết của đảng, chính sách của chính phủ, các quy định của tỉnh, huyện, xã và các
thông tin về tình hình sản xuất , đến nhân dân trong xã.
- Hệ thống thuỷ lợi : Hệ thống tưới tiêu của xã đã được đổ bê tông với chiều dài
là 16 km. Hệ thống thoát nước, cống rãnh được xây dựng kiên cố từ 3 năm trước đây,
nhưng hiện nay do sự phát triển quy mô sản xuất với quy mô lớn hơn nhiều nên tình
trạng ùn tắc, ứ đọng xảy ra thường xuyên, nhiều khi tràn lên mặt đường, gây ô nhiễm
môi trường. Ngoài ra việc đầu tư cho hệ thống này không được đồng bộ, mang tính
chất chắp vá đã làm cho hệ thống bị xuống cấp nhanh chóng. Đây chính là điểm cần
quan tâm giải quyết vì nó có sự ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề môi trường trong xã.
 Kết quả sản xuất kinh doanh của xã
Mộc Nam là xã đứng thứ ba về phát triển kinh tế của huyện Duy Tiên . Với bản
chất cần cù, chịu khó, không ngừng học hỏi, vươn lên của người dân, nền kinh tế xã đã
phát triển mạnh với việc duy trì và phát triển nghề lụa Nha Xá . Nền kinh tế xã đang
phát triển với sự gia tăng giá trị tất cả các ngành, cơ cấu kinh tế, thay đổi dần theo
hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần các ngành công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp và các ngành dịch vụ, được thể hiện qua bảng 4.5.
BẢNG2.2 : KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA XÃ
MỘC NAM QUA 3 NĂM 2009-2011
Ngành Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
19
19
Giá trị
(triệu đ)

cấu
(%)
Giá trị
(triệu đ)

cấu
(%)
So với
2006 tăng
(+), giảm
(-)
Giá trị
(triệu đ)

cấu
(%)
S
o

v


i
n
ă
m

2
0
0
7
t
ă
n
g
(
+
),
g
i

m
(-
)
1. Tổng thu nhập
78.787,3
8
96.884,0
0
+
18.096,62
103.043,8

3
+

6
.
1
5
9
,
8
3
- Công nghiệp -
TTCN
36.642,3
8
46,51 48.823,4
0
50,3
9
+
12.181,02
53.677,93 52,0
9
+

4
.
8
5
20

20
4
,
5
3
- Thương mại - dịch
vụ
16.540,0
0
20,99
23.453,1
0
24,2
1
+
6.913,10
27.068,40
26,2
7
+

3
.
6
1
5
,
3
0
- Nông nghiệp

25.605,0
0
32,50
24.607,5
0
25,4
0
-997,50 22.297,50
21,6
4
-
2
.
3
1
0
,
0
0
2. Thu nhập BQ
/LĐ/năm
7,73 8,53 + 0,81 8,61
+

0
,
0
7
3. Thu nhập BQ
/người /năm

6,01 7,44 + 1,43 7,92
+

0
,
4
8
4. Thu nhập BQ
/hộ/năm
29,61 33,84 + 4,23 33,91
+

0
,
0
7
(nguồn: phòng thống kê huyện Duy Tiên )
21
21
Qua bảng 2.5 ta thấy nghề dệt lụa Nha Xá của xã luôn là một thế mạnh phát
triển kinh tế. Năm 2011 giá trị ngành CN - TTCN của xã đạt trên 53, 67 tỷ đồng, tăng
4,85 Ở đồng so với năm 2010. Thu nhập bình quân một lao động CN - TTCN là 8, 428
triệu động/năm. Đã giải quyết việc làm cho 6369 lao động địa phương và 3000- 4500
lao động địa phương khác. Thu nhập bình quân một hộ CN - TTCN khoảng 33, 91 triệu
đồng/năm, đóng góp ngân sách Nhà nước hơn 36 triệu đồng (Báo cáo sở công nghiệp
năm 2011).
Ngành thương mại dịch vụ của xã trong những năm gần đây có xu hướng tăng
nhanh hơn các ngành khác cả về giá trị và tỷ trọng cơ cấu kinh tế chung.
2.2.4. NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ SẢN XUẤT CỦA LÀNG NGHỀ LỤA
NHA XÁ

2.2.4.1. Lịch sử làng nghề:
Theo các cụ già nói lại, làng nghề bắt đầu từ khi Nhân vệ Vương Trần Khánh Dư về tu ở chùa
Nha Xá. Ông đào ao, thả cá, rồi nghĩ ra cách ươm tơ để làm vợt vớt cá. Từ đó Nha Xá theo
nghề này.
Từ những năm 1954, người dân chuyên dệt tơ bóng (gia công) cho Nhà nước, tất cả được thu
gom về trạm gia công Hà Nam Ninh (nay là Hà Nam). Sau đó làng thành lập Hợp tác xã
(HTX) gia công tơ lụa từ năm 1959 đến năm 1981. Trong khoảng thời gian đó, làng nghề phát
triển mạnh.
Khi nhu cầu nhân công cho việc dệt tăng cao thì làng để cho những làng xung quanh
làm công việc ươm tơ và chuyển sang chuyên dệt. Những người như: cụ Khiển, cụ
Tiến, cụ Cựu… đặc biệt là cụ Khiển là những người có công đóng góp cho thời hoàng
kim của làng dệt này, nên công việc làm ăn thịnh vượng trong nhiều năm, nghề được
lan sang nhiều xã của huyện Duy Tiên.
Đến những năm 1981, làng nghề chùng xuống do thời thế thay đổi. Sự thịnh suy của
làng nghề phụ thuộc nhiều vào thời thế. Khi đó, người ta bỏ làm dệt vì lụa làm ra
không ai mua. Dân nghèo túng không đủ ăn, nhiều gia đình chuyển sang buôn bán, làm
thuê làm mướn. Trước thời buổi khó khăn đó, sự khủng hoảng của nghề khiến những
nghệ nhân của làng hết sức lo lắng. Nghệ nhân Lê Văn Khiển cố gắng trấn an bà con.
22
22
Nhưng trước sự khó khăn trầm trọng ấy, dù có cố gắng đến mấy thì người dân
vẫn cứ bỏ cái nghề không kiếm ra tiền. Đời sống nhân dân lâm vào tình cảnh khó khăn.
Nhiều người đã phải mang bị đi ăn xin. Mãi đến năm 1986 mở cửa, cách quản lý
thoáng phá bung cách quản lý cũ, cụ Khiển lại đi vận động bà con khôi phục làng nghề
để phát triển kinh tế.
Để làm được việc đó cụ phải lặn lội đi nhiều nơi để tìm thị trường, học hỏi kinh
nghiệm của một số làng nghề khác, rồi vận động bà con ở xã Chuyên Ngoại ươm tơ
mang về Nha Xá để bán cho bà con nơi đây. Nguy cơ mất nghề, sự đói kém của bà con
dân làng thôi thúc những nghệ nhân. Họ đoàn kết, họp thôn, quyết đưa đời sống nhân
dân đi lên, chẳng cách nào khác hơn là khôi phục nghề. Bởi làng rất ít ruộng, không có

đất màu, chẳng tiện buôn bán.
Đến năm 1989 về cơ bản những khó khăn đã được giải quyết. Bà con tìm được
thị trường cả trong nước và nước ngoài, đời sống khá dần lên. Cũng chính nghệ nhân
Lê Văn Khiển là người đã cải tiến công cụ máy móc của dân làng, để tăng năng suất
lao động, người dân đỡ vất vả hơn. Năm 2004, với sự phát triển rực rỡ của làng nghề,
Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã về thăm và nói chuyện với các nghệ nhân, khuyến
khích phát triển kinh tế làng.
2.4.2.Tình hình hoạt động sản xuất của làng nghề lụa Nha Xá
2.4.2.1. Sản phẩm làng nghề
Trải qua hàng nhiều thế kỷ, thương hiệu lụa Nha Xá ngày càng được phát triển
không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước. ngày nay
trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trương, nghề dệt lụa của Nha Xá ngày càng
có điều kiện phát triển. Hiện nay, sản lượng lụa hàng năm từ 2,5 đến 3 triệu mét lụa các
loại. Với những mặt hàng tơ tằm như: Vân, Sa, Quế, Lụa sa tanh hoa các loại đủ màu
sắc, mẫu mã phong phú được tiêu tụ rộng rãi trong cả nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu
của thị trường, tiến tới sự phát triển lâu dài Nha Xá đang đầu tư xây dựng khu vực sản
xuất tập trung trên diện tích 15ha để có cơ sở đầy tư, cải tiến đổi mới trang thiết bị kỹ
thuật, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn hơn nữa với người
tiêu dùng và tiến tới thị trường xuất khẩu, đồng thời tạo ra một mô hình cảnh quan của
một làng nghề, làng du lịch.
Xét chung về làng nghề có hai loại sản phẩm chính là lụa và sa tanh. Giá thành
sản phẩm lụa dao động từ 50.000- 80.000đồng/mét; giá sản phẩm sa tanh từ 70.000 –
100.000đồng/mét tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm.
23
23
2.4.2.2. Tình hình công nghệ sản xuất và môi trường lao động
Trước đây,lụa Nha Xá chỉ dệt bằng khung dệt thủ công với chưa đầy 40 khung
dệt, nay đã tăng lên trên 400 khung dệt và đã được cơ giới hoá 100. Khảo sát thực tế tại
các cơ sở sản xuất và tiến hành phỏng vấn 15 hộ dân cư không làm nghề hoặc làm ở
mức độ rất nhỏ của làng nghề lụa Nha Xá cho thấy toàn bộ các xưởng dệt nhuộm xen

kẽ trong khu dân cư có quy mô vừa và nhỏ (trung bình khoảng 5 đến 6 máy dệt/ hộ gia
đình), hoạt động mang tính chất kinh tế hộ gia đình liên tục suốt ngày đêm ( 10 giờ/
ngày) nên ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất về tiếng ồn trực tiếp đối với người lao
động cũng như các thành viên hộ gia đình và dân cư xung quanh.
Theo khảo sát không gian sản xuất của các hộ gia đình trong làng nghề là nhỏ so
với yêu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết các hộ gia đình đều tận dụng đất thổ cư của
mình để xây dựng nhà xưởng. Nhà xưởng được xây dựng tạm bợ, không có khu xử lý
nước thải sản xuất riêng. Toàn bộ nước thải sản xuất được đổ trực tiếp ra cùng nước
thải sinh hoạt.
Đầu tư vốn cố định ban đầu cho nhà xưởng, máy móc và thiết bị trung bình
khoảng 80 – 100 triệu đồng/hộ gia đình. Giá thành máy dệt cũng có sự giao động khá
lớn từ 7 – 20 triệu đồng. Sản lượng các máy dệt cũng khác nhau. Máy dệt Việt Nam
cho sản lượng khoảng 30m lụa/ tháng. Máy Hàn Quốc cho sản lượng 40m lụa/tháng.
Khi đầu tư vào các máy dệt người dân chỉ căn cứ vào độ bền và sản lượng, chất lượng
vải chứ không chú ý đến lượng thải mà các máy dệt thải ra. Hiện nay, khâu nhuộm vải
vẫn còn thủ công hoàn toàn khi phải dùng bếp lò than công suất rất nhỏ.
2.4.2.3. Tình hình nguyên, vật liệu đầu vào
Nguyên liệu chủ yếu là tơ sợi theo từng chủng loại vải định dệt. Cụ thể, để dệt vải
thô người ta sử dụng sợi tổng hợp Polyeste và sợi pha PE/Co, dệt khăn mặt dùng sợi
bông cotton, dệt gạc sử dụng sợi pha PE/Co có thành phần cotton cao hơn.
Mỗi năm sản lượng sản xuất của địa phương đạt 2,5 triệu mét lụa các loại. Trong
đó 1,5 triệu mét phải qua công nghệ tẩy nhuộm. Để có được 1m lụa cần qua hai giai
đoạn là nấu tẩy và tẩy nhuộm. Trung bình 1m lụa phải dùng từ 8-10 lít nước. Số lít
24
24
nước dùng cho việc tẩy nhuộm có thể sẽ lớn hơn vì còn tuỳ thuộc vào việc nhuộm đậm
hay nhạt.
Người dân sử sụng thuốc nhuộm có nguồn gốc từ Trung Quốc, được bán tràn
ngập trên thị trường. Quá trình dệt, nhuộm, in hoa có sử dụng hóa chất, thuốc nhuộm
như sút, Javen, H

2
O, CH
3
COOH, H
2
S, thuốc nhuộm axít, thuốc nhuộm lưu huỳnh (đá,
Na
2
S), thuốc nhuộm trực tiếp và rất nhiều nước trong các công đoạn sản xuất. Một
tác nhân nữa góp phần gây ô nhiễm môi trường là thành phần trong tơ tằm, bởi qua
khâu tẩy, thải ra 25% tạp chất. 1m lụa có trọng lượng 80g sẽ thải ra ngoài nước 20g tạp
chất Người lao động tại làng nghề làm việc trong môi trường chứa nhiều hóa chất
độc hại, đồng thời lại không có sự bảo hộ nên nguy cơ mắc bệnh là rất cao. Qua khảo
sát, tại các làng nghề dệt, nhuộm các bệnh thường gặp về đường hô hấp là 10- 20%,
bệnh về mắt 10- 20%, bệnh phụ khoa 10- 30%, bệnh về đường tiêu hóa 10- 20%. Ông
Hoàng Bá Chỉnh, Chủ tịch xã Mộc Nam cho biết: “Vài năm gần đây, người dân Nha
Xá chủ yếu mắc bệnh về phế quản, tỉ lệ người bị suy nhược cơ thể, suy nhược thần
kinh, điếc ngày càng tăng. Số người chết do ung thư nhiều hơn trước, trung bình mỗi
năm ở Nha Xá có 3 người chết vì ung thư – chiếm trên 60% số ca tử vong của làng”.
2.5. Thực trạng môi trường làng nghề lụa Nha Xá
2.5.1 Công nghệ sản xuất và các vấn đề môi trường liên quan
Tại Nha Xá công nghệ sản xuất cũng được cải thiện và nâng cấp để tăng năng suất
cũng như chất lượng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu khách hàng, do đó sản
phẩm dệt ra phải qua tẩy nhuộm màu với nhiều loại hoá chất hơn. Điều bày đồng nghĩa
với việc lượng hóa chất thải ra môi trường cũng ngày càng nhiều hơn nếu như không có
các biện pháp nhằm xử lý chất thải.
25
25

×