Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

phân tích tài chính tại công ty cổ phần xây dựng công trình giao thông 419

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.41 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU 3
CHƯƠNG 1: 1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: 1
1.2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN TỚI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 2
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 3
1.4. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 3
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
1.7. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 5
1.8. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI 6
CHƯƠNG 2 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 7
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP 7
2.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp 7
2.1.2. Các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp 7
2.1.3. Khái niệm phân tích tài chính trong doanh nghiệp 10
2.1.4. Mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp 11
2.1.5. Sự cần thiết của phân tích tài chính trong doanh nghiệp 11
2.2. Tổ chức phân tích tài chính trong doanh nghiệp 13
2.2.1. Chuẩn bị phân tích: 14
2.2.2. Tiến hành phân tích 15
2.2.3. Kết thúc phân tích: 16
2.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 17
2.3.1. Phương pháp so sánh: 17
2.3.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích 20
2.3.3. Phương pháp loại trừ: 21


2.3.4. Phương pháp liên hệ cân đối: 23
2.3.5. Phương pháp xác định theo giá trị thời gian của tiền 23
2.3.6. Phương pháp kết hợp: 24
2.4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP
24
2.4.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính trong doanh nghiệp 24
2.4.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh 34
CHƯƠNG 3 41
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CPXD CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG 419 41
3.1. Tổng quan về Công ty CPXD công trình giao thông 419 41
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty CPXD công trình
giao thông 419 41
3.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty CPXD
CTGT 419 43
3.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động SXKD: 44
3.2. Tổ chức phân tích tài chính tại Công ty cổ phần xây dựng công
trình giao thông 419 46
3.2.1. Hệ thống tài liệu phục vụ cho phân tích tài chính Công ty CPXD
công trình giao thông 419 46
3.2.2.Phương pháp phân tích tài chính Công ty CPXD công trình giao
thông 419 46
3.3. Nội dung phân tích tài chính Công ty CPXD công trình giao thông
419 47
3.3.2. Phân tích biến động các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh 60
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên cơ sở Báo cáo tài chính Công ty
CPXD công trình giao thông 419 năm 2009,2010 61
3.3.3. Phân tích biến động của các chỉ tiêu trên báo cáo lưu chuyển tiền
tệ 61

3.3.4. Phân tích tình hình công nợ và tính thanh khoản của Công ty 64
3.3.5.Phân tích hiệu quả hoạt đông kinh doanh của Công ty 69
3.3.6. Phân tích nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời 71
CHƯƠNG 4 76
THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
VÀ KẾT LUẬN 76
4.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu 76
4.4.1. Những kết quả đạt được: 76
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại Công ty
CPXD công trình giao thông 419 84
4.2.1. Nâng cao năng lực tài chính 84
4.2.2. Nâng cao chất lượng khả năng thanh toán 86
4.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản 86
4.2.4. Nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cổ phần 88
4.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro 89
4.3. Đóng góp của đề tài nghiên cứu 89
4.3.1. Về mặt lý luận 89
4.3.2. Về mặt thực tiễn 90
4.4. Những hạn chế của đề tài nghiên cứu và một số gợi ý cho các nghiên
cứu trong tương lai 90
4.4.1. Hạn chế của đề tài nghiên cứu 90
4.4.2. Gợi ý cho đề tài nghiên cứu trong tương lai 91
Kết luận KẾT LUẬN 92
Tài liệu tham khảo 93
DANH MỤC BẢNG BIỂU
2.4.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh 34
BẢNG 3.1: PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT CẤU TRÚC TÀI SẢN CÔNG TY
CTGT 419 48
BẢNG 3.2: PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN CÔNG TY CPXD CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG 419 49

BANG 3.3: BẢNG TÀI SẢN VÀ TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG TÀI SẢN
CỦA CÔNG TY CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 52
BẢNG 3.4: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN 54
BẢNG 3.5: PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT CẤU TRÚC NGUỒN VỐN CÔNG
TY CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 55
BẢNG 3.6: PHÂN TÍCH CƠ CẤU NGUỒN VỐN CÔNG TY CPXD
CÔNG TRÌNH 57
GIAO THÔNG 419 57
BẢNG 3.7: PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN CỦA
CÔNG TY CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 58
BẢNG 3.78: PHÂN TÍCH RỦI RO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CPXD
CÔNG TRÌNH 59
GIAO THÔNG 419 59
BẢNG 3.9: PHÂN TÍCH TỶ TRỌNG CÁC KHOẢN MỤC TRÊN BÁO
CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH 60
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên cơ sở Báo cáo tài chính Công ty
CPXD công trình giao thông 419 năm 2009,2010 61
BẢNG 3.10. PHÂN TÍCH BÁO CÁO LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ 62
BẢNG 3.11: PHÂN TÍCH CÁC KHOẢN PHẢI THU CỦA CÔNG TY
CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 65
BẢNG 3.12: PHÂN TÍCH CÁC KHOẢN PHẢI TRẢ CỦA CÔNG TY
CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 66
BẢNG 3.13: PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG THANH TOÁN CỦA CÔNG TY
CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 69
BẢNG 3.14: KHÁI QUÁT HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY
CPXD CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 419 70
BẢNG 3.15: TÍNH TOÁN CÁC CHỈ TIÊU TRONG MÔ HÌNH
DUPONT TẠI CÔNG TY CPXD CÔNG TRÌNH 419 72
BẢNG 3.16: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSNH TẠI CÔNG TY
CPXD CÔNG TRÌNH 419 86


CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Cùng với tiến trình phát triển hệ thống kế toán Việt Nam, hệ thống tài
chính cũng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với các
chuẩn mực chung của kế toán quốc tế, thu hẹp sự khác nhau giữa kế toán
Việt Nam với các chuẩn mực chung của kế toán quốc tế. Tuy nhiên, do môi
trường kinh tế xã hội luôn luôn biến động nên hệ thống tài chính không
ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc
tế đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng.
Công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp nói chung và phân
tích tình hình tài chính tại các công ty xây dựng nói riêng đã đóng một vai
trò hết sức quan trọng và đòi hỏi ngày càng phải hoàn thiện hơn nữa.
Sản phẩm của các công ty xây dựng là các công trình giao thông hoàn
thiện, nguồn cơ sở hạ tầng vững mạnh tạo nền tảng vững chắc cho sự phát
triển đất nước, bởi vậy việc nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động tài chính thông qua phân tích tài chính công ty xây dựng
công trình là việc làm không thể thiếu trong công tác quản lý tài chính
nhằm đưa ra những quyết định quan trọng về chiến lược sản xuất và kinh
doanh kịp thời và hiệu quả. Xu hướng phát triển, hội nhập toàn cầu và tính
cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường mang lại cho các công ty
này những cơ hội mới và những thách thức chưa từng có. Để tồn tại và phát
triển trong nền kinh tế biến động và cạnh tranh cao, bắt buộc các Công ty trước
hết phải ý thức được thực trạng tài chính của chính Doanh nghiệp mình.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của công tác phân tích tài
chính trong các doanh nghiệp, công ty và thực trạng phân tích tài chính tại
các Công ty xây dựng công trình, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ là "Phân tích tài chính tại Công ty CPXD công trình giao
thông 419".

1

1.2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN TỚI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Phân tích tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích
và giải thích các tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải
thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc
ra quyết định.
Đề tài nghiên cứu "Phân tích tài chính tại Công ty CPXD công trình
giao thông 419" với mục đích hệ thống những vấn đề lý luận và phân tích,
đánh giá thực trạng tài chính từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực tài chính của Công ty CPXD công trình giao thông 419.
Xét về nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp đã có các đề tài nghiên
cứu sát với nội dung của luận văn thạc sỹ này như đề tài nghiên cứu “Phân tích
tài chính tại công ty TNHH liên doanh công nghiệp thực phẩm” của tác giả
Trần Thị Thanh Hương (năm 2008), đề tài “Phân tích tài chính của công ty
Vinamilk” của thạc sỹ Nguyễn Tấn Minh (năm 2010) và một số công trình
nghiên cứu về phân tích tài chính của công ty thực hiện lĩnh vực xây dựng cơ
bản như đề tài “phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần Sao Việt” của tác
giả Lương Hồng Thái (năm 2010). Nhìn chung các công trình nghiên cứu này
đã hệ thống đầy đủ lý luận về phân tích tài chính và đưa ra những giải pháp để
khắc phục các mặt tồn tại trong vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
đối với các đề tài nghiên cứu tại công ty CPXD công trình giao thông 419 từ
trước đến nay chủ yếu là đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và hoạt động tài
chính – kế toán của công ty nhưng chưa có đề tài nào phân tích tài chính của
công ty với mục đích giúp doanh nghiệp có cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý.
Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc
nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy
trình mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có
chất lượng. Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích tài chính,

đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh, đó là:
Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích tài chính là nhằm để "hiểu
được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ
phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài
2

chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích
khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông
tin từ các dữ liệu ban đầu.
Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc
ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý
cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định,
phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương
lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích tài chính nhằm
cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty,
dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước
tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Đề tài nghiên cứu "Phân tích tài chính tại Công ty CPXD công trình giao
thông 419" khác với các đề tài nghiên cứu khác là hướng tới thực hiện các mục
tiêu trên để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của
công ty.
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
* Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tài chính doanh nghiệp.
* Phân tích tài chính của công ty CPXD công trình giao thông 419 qua các
năm 2009 – 2010.
* Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Công ty
CPXD công trình giao thông 419.
1.4. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Câu hỏi 1: Lý luận chung về phân tích Tài chính Doanh nghiệp đã được
vận dụng như thế nào?

Câu hỏi 2: Thực trạng phân tích Tài chính tại Công ty CPXD công trình
giao thông 419 như thế nào?
Câu hỏi 3: Các kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh tại Công ty CPXD công trình giao thông 419?
3

1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu điển hình tại Công ty CPXD công
trình giao thông 419.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu và phân tích tài chính của Công ty
CPXD công trình giao thông 419 trong hai năm 2009 - 2010.
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình tài chính trực
tiếp tại Công ty CPXD công trình giao thông 419.
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Về phương pháp luận, trong quá trình phân tích tài chính, việc phân tích
được dựa trên quan điểm toàn diện, biện chứng và logic. Tài chính doanh
nghiệp là một khái niệm tương đối với phạm vi nghiên cứu rộng, do đó để
phản ánh được một cách toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp, nội
dung phân tích phải bám sát mục tiêu phân tích, hệ thống các chỉ tiêu phân
tích phải được quy định thống nhất, đảm bảo dễ tính, dễ hiểu, dễ phân tích
đánh giá, so sánh để từ đó có thể đưa ra các nhận xét xác thực về tình hình
tài chính của doanh nghiệp, qua đó có cơ sở đưa ra các quyết định kinh
doanh đúng đắn. Bên cạnh đó, cần có quan điểm biện chứng trên cơ sở
phương pháp biện chứng của triết học vận dụng vào luận văn thể hiện ở nghiên
cứu cơ sở lý luận đến quan sát nhận thức thực tiễn tài chính tại công ty sau đó
đưa ra đánh giá nhận định về tài chính của công ty. Quan điểm logic thể hiện ở
chỗ tất cả các phân tích đặt chung trong tổng thể tài chính của công ty, mọi vấn
đề trước khi đưa ra nhận định đều được xem xét.
- Thu thập số liệu: Luận văn sử dụng các số liệu thứ cấp là các báo cáo tài
chính của Công ty CPXD công trình giao thông 419.

- Phương pháp phân tích số liệu được sử dụng trong luận văn thạc sỹ là
các phương pháp phân tích tài chính gồm:
+ Phương pháp Dupont
Phương pháp Dupont nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các tỷ số
tài chính bằng cách biến một chỉ tiêu tổng hợp thành hàm số của một loạt các
biến số. Ví dụ như tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh
4

nghiệp như suất sinh lợi của tài sản (thu nhập trên tài sản - ROA), suất sinh lợi
của vốn chủ sở hữu (thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu - ROE) thành tích
số của chuỗi tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân
tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp.
+ Phương pháp chỉ số: Đây là phương pháo truyền thống được áp dụng
phổ biến trong phân tích tài chính, là phương pháp sử dụng các tỷ số để phân
tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao so với các điều kiện áp dụng ngày
cạng được bổ sung và hoàn thiện do: Thứ nhất, nguồn thông tin kế toán và tài
chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành
những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một số tỷ số của doanh nghiệp
hay một nhóm doanh nghiệp; Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép
tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số; Thứ
ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những
số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian
liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Phương pháp so sánh: Là một phần của phương pháp chỉ số, về nguyên
tắc, với phương pháp tỷ sốm cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham
chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ
số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh
luôn được kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích,
nhà phân tích thường so sánh theo thời gian (so sánh kỳ này với kỳ trước) để

nhận biết xu hướng thay đổi theo tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo
không gian (so sánh mức trung bình của ngành) để đánh giá vị thế của doanh
nghiệp trong ngành.
1.7. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
- Về lý luận, đề tài đã hệ thống hóa lý luận về phân tích tài chính trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam. Qua đó, các nội dung và phương pháp phân tích tài
chính được trình bày logic, khoa học và cụ thể ở chương 2 của luận văn.
5

- Về thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích tình hình tài chính của Công ty
CPXD công trình giao thông 419, từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng tài
chính của công ty, đồng thời đề xuất các phương hướng, giải pháp chủ yếu để
cải thiện tình hình tài chính tại Công ty này.
1.8. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài gồm các chương sau:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 3: Phân tích thực trạng tài chính tại Công ty CPXD công trình
giao thông 419.
Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu, giải pháp đề xuất và kết luận.
6

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
2.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân
doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của
mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh: Đầu tư, tiêu thụ

và phân phối, trong đó sự tru chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của
vật tư hàng hoá.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền
tệ. Nói cách khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là những
quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và
quản lý vốn một cách có hiệu quả.
Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình
hình tài chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tài chính là rất
quan trọng. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người ta có thể sử
dụng thông tin đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong
tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm đối tượng khác nhau
như Ban giám đốc (Hội đồng quản trị) các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ,
các nhà cho vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và kể cả cơ
quan Nhà nước cũng như người lao động. Mỗi nhóm người này có nhu cầu
thông tin khác nhau, do vậy mỗi nhóm có những xu hướng tập trung vào các
khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một doanh nghiệp.
2.1.2. Các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp
chủ yếu bao gồm:
7

- Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh
khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp
vốn vào doanh nghiệp.
- Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể
hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường

tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn,
có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược
lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ.
Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số
tiền tạm thời chưa sử dụng.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế,
doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường
hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường mà tại đó
doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao
động, Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định
nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị thoả mãn nhu cầu của
thị trường.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện
thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân
phối thu nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn và chi phí vốn,
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần
phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu
như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữa được đánh giá tại một thời điểm
nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể
xác định tại một thời điểm nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả
kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về
quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc
điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù vậy, người ta
8

vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá
dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu vào.

Một hàng hoá dịch vụ đầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay
dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất-
kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra hàng hoá
dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích được tiêu dùng
hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá. Như vậy trong một
thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá dịch vụ đầu vào
thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và
hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra (tức quan hệ giữa bảng cân
đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả như sau:
Hàng hoá dịch vụ sản xuất-chuyển hoá Hàng hoá dịch vụ
(mua vào) (bán ra)
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt
- đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng hoá
dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục đích
trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện qua trung gian là tiền và
khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch chuyền hàng
hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức kinh tế.
Như vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng
tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu
ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả theo sơ đồ sau:
Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)


Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (xuất quỹ)
9
Sản xuất
chuyển hoá

Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được đặc trưng
bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc trưng bởi yếu tố cần

thiết cho sự vận hành - đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công nghệ
này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá dịch
vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đầu ra và tuỳ
thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ
tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình
này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh
nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái
niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi
hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối
lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền
được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ
sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của các
dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập.
2.1.3. Khái niệm phân tích tài chính trong doanh nghiệp
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Vì vậy, khi tiến hành bất kỳ
hoạt động nào dù đơn giản hay phức tạp, dù cá nhân tiến hành hay đó là hành vi của
một tổ chức thì xuất phát điểm của việc đưa ra các quyết định và tổ chức thực hiện
các quyết định bao giờ cũng từ nhận thức về mục tiêu, tính chất, xu hướng và hình
thức phát triển của sự vật và hiện tượng. Trong quản lý kinh tế, nhận thức, quyết
định và hành động là bộ ba biện chứng của quản lý khoa học, trong đó nhận thức là
cơ sở, là tiền đề của việc đưa ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định. Nhận
thức như thế nào sẽ đưa ra quyết định như thế, nhận thức đúng sẽ đưa ra quyết định
đúng và dẫn tới hành động có kết quả như mong đợi và ngược lại nhận thức sai sẽ
đưa ra quyết định sai lầm.
Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là sự đánh giá xem xét, nghiên cứu các
sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa các sự vật cấu thành
sự vật, hiện tượng đó. Với ý nghĩa đó, phân tích là công cụ quan trọng để nhận thức
bản chất, tính chất và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu.
10


Phân tích tài chính là tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá tình
hình tài chính đã qua và hiện nay, giúp cho nhà quản lý đưa ra được quyết định
quản lý chuẩn xác và đánh giá được doanh nghiệp, đồng thời giúp các đối tượng
quan tâm đưa ra những dự đoán chính xác về mặt tài chính của doanh nghiệp và có
những quyết định đầu tư sáng suốt.
Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp là công cụ nhận thức các vấn đề
liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, có rất nhiều đối tượng quan tâm và
sử dụng các thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp trên các giác độ và mục
tiêu khác nhau.
2.1.4. Mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp
Mục đích của phân tích tài chính doanh nghiệp là để trả lời các câu hỏi chính
sau đây:
- Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn,
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần đầu tư.
- Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt được cơ
cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?
- Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ tối ưu
thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng như thế nào?,
Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên
đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn
như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù hợp?
Nghiên cứu, phân tích tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên.
2.1.5. Sự cần thiết của phân tích tài chính trong doanh nghiệp.
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền
kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được
thì phải bảo đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định. Muốn vậy phải phân
tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là nghiên cứu
khám phá hoạt động tài chính đã được biểu hiện bằng con số. Cụ thể hơn, phân tích
tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài

chính hiện hành với quá khứ mà nếu không phân tích thì các con số đó chưa có ý
nghĩa lớn đối với những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
11

Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là sử dụng các công
cụ, phương pháp và kỹ thuật để làm các con số nói lên thực chất của tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ chính xác hơn nếu
như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng thông tin
của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của một nhóm
người trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài chính cũng nhằm
thoả mãn một cách duy nhất cho các đối tương quan tâm, cụ thể là:
- Đối với bản thân doanh nghiệp: Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp
cho các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình tài
chính của đơn vị mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các
kết quả đúng đắn kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà lãnh đạo doanh
nghiệp thấy được một cách toàn diện tình hình tài chính trong doanh nghiệp trong
mối quan hệ nội bộ với mục đích lợi nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó
dẫn dắt doanh nghiệp theo một chiều hướng sao cho chỉ số của chỉ tiêu tài chính
thoả mãn yêu cầu của chủ nợ cũng như của các chủ sở hữu.
- Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Phân tích tình hình
tài chính cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản nợ và lãi.
Đồng thời, họ quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời của
doanh nghiệp để đánh giá đơn vị có trả nợ được hay không trước khi quyết định cho
vay.
- Đối với nhà cung cấp: Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và
tương lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của doanh nghiệp
đối với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu dài đối với doanh
nghiệp hay từ chối quan hệ kinh doanh .
- Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy khả
năng sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh nghiệp để

quyết định xem có nên đầu tư hay không.
- Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp: Nhóm người này cũng muốn
biết về thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
- Đối với Nhà nước: Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản lý vĩ
mô, để điều tiết nền kinh tế.
12

Như vậy, hoạt động tài chính tập trung vào việc mô tả mối quan hệ mật thiết
giữa các khoản mục và nhóm các khoản mục nhằm đạt được mục tiêu cần thiết
phục vụ cho chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhằm đưa ra quyết
định hợp lý, hiệu quả phù hợp với mục tiêu của đối tượng này. Mục đích tối cao và
quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính là giúp cho nhà quản trị lựa chọn
được phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác tiềm năng của doanh
nghiệp. Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thì hệ thống tài chính kế
toán của doanh nghiệp chính là cơ sở tài liệu hết sức quan trọng.
2.2. Tổ chức phân tích tài chính trong doanh nghiệp.
Tổ chức phân tích tài chính trong doanh nghiệp là việc thiết lập trình tự các
bước công việc cần tiến hành trong quá trình phân tích tài chính. Để phân tích tài
chính trong các doanh nghiệp thực sự phát huy tác dụng trong quá trình ra quyết
định, phân tích tài chính phải được tổ chức khoa học, hợp lý, phù hợp với đặc điểm
kinh doanh, cơ chế hoạt động, cơ chế quản lý kinh tế tài chính của DN phù hợp với
mục tiêu quan tâm của từng đối tượng. Mỗi đối tượng quan tâm với những mục
đích khác nhau, nên việc phân tích đối với mỗi đối tượng cũng có những nét riêng.
Có thể khái quát quá trình tổ chức phân tích theo quy trình sau:
13
CHUẨN BỊ
PHÂN TÍCH
Xác định mục tiêu phân tích
Xây dựng chương trình
Sưu tầm tài liệu xử lý số liệu

Tính toán, xác định, dự toán
Lập báo cáo phân tích
Hoàn chỉnh hồ sơ phân tích
Tổng hợp kết quả, rút ra
nhận xét
TIẾN HÀNH
PHÂN TÍCH
KẾT THÚC
PHÂN TÍCH

Công tác tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp thường phụ thuộc vào
đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm và điều
kiện kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp không giống nhau, do đó công tác tổ chức
phân tích cũng phải được tiến hành phù hợp với hình thức tổ chức kinh doanh
của doanh nghiệp. Về cơ bản bao gồm những công việc sau:
2.2.1. Chuẩn bị phân tích:
Đây là công việc đầu tiên trước khi tiến hành phân tích nhằm tạo ra các
tiền đề và điều kiện cụ thể cho quá trình phân tích bao gốm lập kế hoạch phân
tích và thu thập, xử lý dữ liệu phân tích.
2.2.1.1. Lập kế hoạch phân tích:
Lập kế hoạch phân tích nhằm xác định được mục tiêu, phạm vi, nội dung,
thời gian và bố trí nhân lực phân tích.
Mục tiêu phân tích là cái đích cuối cùng cần đạt tới của quá trình phân tích
gắn chặt với mục tiêu, yêu cầu quản lý. Để đáp ứng được yêu cầu phân tích
hiệu quả kinh doanh, mục tiêu phân tích phải cụ thể, rõ ràng, bám sát với thực
tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phạm vi phân tích là sự giới hạn về không gian, thời gian của đối
tượng phân tích. Phạm vi phân tích thường được xác định đồng thời với
mục tiêu phân tích. Phạm vi phân tích có thể là toàn đơn vị hoặc một số bộ
phận tùy thuộc vào mục tiêu phân tích.

Nội dung phân tích cần xác định rõ các vấn đề được phân tích: có thể
phân tích toàn bộ tình hình tài chính hoặc chỉ phân tích một số vấn đề cụ
thể được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính như: tốc độ luân chuyển
vốn lưu động, hệ số lãi ròng, hệ số khả năng thanh toán nhanh…Ngoài việc
đánh giá biến động của các chỉ tài chính, phân tích tài chính còn xem xét
các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của chúng.
Thời gian phân tích là thời gian chuẩn bị và thời gian tiến hành công tác
phân tích, cần được phân định cụ thể cho từng nội dung công việc.
Trong kế hoạch phân tích cần nêu cụ thể các nguồn lực sử dụng trong quá
trình phân tích, phân công trách nhiệm đối với từng bộ phận được lựa chọn tiến
hành công tác phân tích. Yêu cầu chung của việc bố trí nhân sự là phải lựa chọn
14

và giao việc cho bộ phận, cho cán bộ có trình độ tương xứng với mục tiêu,
phạm vi cũng như nội dung phân tích và phải đảm bảo đúng tiến độ đề ra.
2.2.1.2. Nguồn dữ liệu và xử lý dữ liệu phân tích
Công tác thu thập và xử lý dữ liệu phân tích cần được tiến hành trên cơ
sở mục tiêu, phạm vi và mục tiêu phân tích. Để có được những nhận định
chính xác, toàn diện thì khi tiến hành phân tích phải sử dụng tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau bao gồm các tài liệu có tính chất định hướng như: các văn
kiện của các cấp bộ Đảng có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, các nghị quyết, chỉ thị của chính quyền các cấp có liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp, các chiến lược sản xuất kinh doanh, các tài liệu kế
hoạch, dự toán, định mức, các dữ liệu tài chính kế toán trong đó quan trọng
hơn cả là hệ thống báo cáo tài chính, báo cáo kế toán bao gồm: Bảng cân đối
kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
thuyết minh báo cáo tài chính… là những nguồn số liệu được sử dụng trực
tiếp trong công tác tính toán chỉ tiêu và phân tích. Các tài liệu thu thập cần
đảm bảo tính hợp pháp, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho công tác
phân tích.

2.2.2. Tiến hành phân tích
Tiến hành phân tích là quá trình thực hiện đồng bộ các nội dung công việc
đã được đề cập trong kế hoạch phân tích.
Để đạt được mục tiêu phân tích, các nhà phân tích cần thu thập tài liệu, lựa
chọn các phương pháp phân tích thích hợp và tính toán các chỉ tiêu liên quan.
Qua đó, đánh giá khái quát về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi
có được cái nhìn tổng quan về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhà phân
tích cần xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích nói riêng và đối
tượng phân tích nói chung.
Phân tích tài chính không chỉ là giới hạn ở việc nghiên cứu tài chính mà
phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp như các thông tin chung về giá cả, tiền tệ, thuế, các thông tin về pháp lý
và kinh tế của doanh nghiệp,….
15

Thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Một số
thông tin công khai, một số chỉ dành cho những người có lợi ích gắn liền với sự
sống còn của doanh nghiệp. Có những thông tin được báo chí hoặc các tổ chức
tài chính công bố, có những thông tin chỉ trong nội bộ doanh nghiệp được biết.
Do vậy, để có những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình phân tích tài
chính, người làm công tác phân tích phải sưu tầm đầy đủ và thích hợp những
thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Tính đầy đủ phản ánh số
lượng thông tin, sự thích hợp phản ánh chất lượng thông tin.
Để tiến hành phân tích tình hình tài chính, nhà phân tích thường sử dụng
rất nhiều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các tài chính và báo cáo kế
toán quản trị của doanh nghiệp. Tài liệu công ty làm căn cứ phân tích thường
bao gồm: Tất cả số liệu trên tài chính (Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh tài chính). Để
đạt được hiệu quả cao trong phân tích tài chính của doanh nghiệp, việc thu thập
và xử lý số liệu cần đảm bảo ba yêu cầu là: chính xác, toàn diện, khách quan.

Số liệu khong chỉ thu thập ở kỳ thực tế mà còn thi thập ở các kỳ kinh doanh
trước, hoặc nhiều kỳ kinh doanh trước để đánh giá chung tình hình hoàn thành
kế hoạch hoặc tốc độ tăng trưởng về tài chính của doanh nghiệp. Số liệu thu
thập càng chính xác thì chất lượng của việc phân tích càng tốt. Do đó, sau khi
thu thập được tài liệu cần tiến hàn kiểm tra độ tin cậy của số liệu trên nhiều
phương diện như: tính hợp pháp của tài liệu, nội dung và phương pháp tính các
chỉ tiêu có đảm bảo đầy đủ hay không, tính chính xác của việc tính và ghi các
con số trên bảng biểu, cách đánh giá đối với chỉ tiêu giá trị.
Tính toán các chỉ tiêu phân tích dựa trên các tài liệu đã thu thập được với
phương pháp phù hợp có thể được trình bày dưới dạng biểu mãu, sơ đồ hay đố
thị hoặc có thể bằng các phương trình kinh tế,…. Qua đó, có thể vận dụng các
phương pháp thích hợp, giúp cho việc đánh giá sâu sắc thực trạng tài chính của
doanh nghiệp. Đồng thời cũng là cơ sở để dự báo, dự đoán xu thế phát triển tài
chính của doanh nghiệp.
2.2.3. Kết thúc phân tích:
Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân tích tài chính là báo cáo kết quả
phân tích. Báo cáo kết quả phân tích là bản tổng hợp những đánh giá cơ bản
16

cùng những tài liệu chọn lọc để minh họa, rút ra từ quá trình phân tích. Việc
đánh giá cùng những số liệu minh họa cần nêu rõ thực trạng và tiềm năng cần
khai thác. Từ đó, cần nêu rõ phương hướng, biện pháp trong kỳ kinh doanh tới.
Cuối bản báo cáo phân tích cần đề xuất những kiến nghị và chỉ kiến nghị
những vấn đề có liên quan đến việc phân tích. Những kiến nghị đề xuất phải rõ
ràng, thiết thực và cụ thể kèm theo các điều kiện thực hiện được, góp phần thúc
đẩy quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, cũng như thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng của hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Sau khi đã hoàn thiệc báo cáo phân tích hệ thống tài chính, doanh nghiệp
cần cung cấp những thông tin cho đối tượng sử dụng và phải hoàn thiện hồ sơ
phân tích để đưa vào lưu trữ. Hồ sơ phân tích thường bao gồm: Báo cáo phân

tích; hệ thống tài chính; tài liệu thu thập được qua hệ thống tài chính của những
năm trước; Báo cáo của các cấp đảng bộ,chính quyền, đoàn thể.
Tùy theo vị trí và mục đích sử dụng thông tin của người phân tích mà nội
dung phân tích Tài chính có thể không giống nhau giữa các nhóm phân
tích và sử dụng Tài chính khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phân tích Tài
chính đi sâu phân tích nội dung của từng tài chính và phân tích kết hợp
các báo cáo sinh lời , cấu trúc tài chính và tốc độ luân chuyển của tài sản
ngắn hạn.
2.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp là cách thức nghiên cứu hoặc nhận thức thực tế trên cơ sở
lý thuyết khoa học đã được công nhận để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó.
Khi sử dụng phương pháp phải vận dụng đúng đối tượng, phải biết ưu
nhược điểm của từng phương pháp để kết hợp một cách hợp lý nhằm đạt
hiệu quả cao nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp rất phức tạp nên đòi
hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho phù hợp với đặc
điểm của từng đối tượng phân tích và đạt được mục tiêu của nhà phân
tích.
2.3.1. Phương pháp so sánh:
17

So sánh là phương pháp lâu đời nhất và được áp dụng rộng rãi nhất trong
phân tích, đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng
hóa có cùng một nội dung, một tính chất tương tự nhau.
Phương pháp so sánh có nhiều dạng:
- So sánh các số liệu thực hiện với các số liệu định mức hay kế hoạch.
- So sánh số liệu thực tế giữa các kỳ, các năm;
- So sánh số liệu thực hiện với các thông số kỹ thuật – kinh tế trung bình
hoặc tiên tiến
- So sánh số liệu của doanh nghiệp mình với số liệu của doanh nghiệp
tương đương hoặc đối thủ cạnh tranh.

- So sánh các thông số kỹ thuật - kinh tế của các phương án kinh tế khác.
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân
tích nhằm đánh giá kết quả, xác định mức độ và xu hướng biến động của
chỉ tiêu phân tích. Khi áp dụng phương pháp này phải chú ý xác định
điều kiện so sánh, gốc so sánh và kỹ thuật so sánh.
Khi áp dụng phương pháp so sánh, cần lưu ý những yếu tố sau:
2.3.1.1. Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh và xem xét điều kiện so sánh:
Tiêu chuẩn để so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm căn cứ
để so sánh (gốc so sánh). Tùy theo mục đích của nghiên cứu mà lựa chọn
gốc so sánh thích hợp:
- Nhằm đánh giá xu hướng phát triển của các chỉ tiêu thì lấy gốc so sánh
là tài liệu năm trước ( kỳ trước).
- Nhằm đánh giá tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức…
thì chọn gốc so sánh là các mục tiêu đã dư kiến ( kế hoạch, dự toán, định
mức ).
- Nhằm khẳng định vị trí của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng nhu
cầu… thì lựa chọn gốc so sánh các chỉ tiêu trung bình của ngành, khu
vực kinh doanh, nhu cầu, đơn đặt hàng…
18

Khi so sánh mức đạt được trên các chỉ tiêu ở các đơn vị khác nhau ngoài
các điều kiện trên đã nêu cần đảm bảo điều kiện khác như cùng phương
hướng kinh doanh và điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Để có thể so sánh được, các chỉ tiêu phân tích phải đảm bảo các điều
kiện sau: Theo cách hiểu thông thường, hiệu quả kinh doanh biểu hiện
mối tương quan giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của
một quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, khi xác định
các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cũng như khi thực hiện so sánh giữa các
chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh với nhau, các nhà phân tích thường vấp phải
khó khăn là giữa hai yếu tố này có thể không có cùng một đơn vị đo

lường, giữa các chỉ tiêu có thể không thống nhất về nội dung phản ánh…
Chính vì vậy, để có
Các số liệu cùng phản ánh một nội dung kinh tế
Các số liệu phải có cùng một phương pháp tính toán
Các số liệu phải được tính theo cùng một đơn vị đo lường
- Số lượng thu thập được phải trong cùng một khoảng thời gian tương ứng.
- Các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về cùng quy mô và điều kiện kinh
doanh tương tự nhau.
2.3.1.2. Gốc so sánh và kỹ thuật so sánh:
Gốc so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được chọn làm căn cứ để so sánh. Việc
xác định gốc so sánh phụ thuộc vào mục đích cụ thể của phân tích, xét theo thời
gian và không gian.
- Về mặt thời gian: có thể lựa chọn tài liệu kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ
năm trước… nhằm đánh giá mức độ biến động của các chỉ tiêu.
- Về mặt không gian: có thể lựa chọn tổng thể hay lựa chọn các bộ
phận của cùng tổng thể, lựa chọn các chỉ tiêu trung bình của ngành, thị
trường kinh doanh…nhằm đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của doanh nghiệp trên thị trường.
Trong phân tích, kỳ hoặc điểm được chọn làm gốc so sánh được gọi là kỳ
gốc hoặc điểm gốc, còn kỳ hoặc điểm được chọn để phân tích được gọi là kỳ hoặc
19

điểm phân tích. Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời kỳ hoặc điểm tương ứng
sẽ là trị số chỉ tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích hoặc điểm gốc, điểm phân tích.
Mục tiêu so sánh trong phân tích hiệu quả kinh doanh là xác định mức
biến động cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Tùy theo yêu cầu
của phân tích mà có những kỹ thuật so sánh sau:
a. So sánh số tuyệt đối
Số tuyệt đối là số tập hợp trực tiếp từ các yếu tố cấu thành hiện tượng kinh
tế được phản ánh, như: tổng giá trị sản xuất, tổng chi phí kinh doanh, tổng lợi

nhuận… Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy được khối lượng quy mô của
hiện tượng kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung
phản ánh, cách tính toán xác định, phạm vi, kết cấu là đơn vị đo lường.
So sánh số tuyệt đối là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích so
với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện khối lượng quy
mô của các hiện tượng kinh tế.
b. So sánh bằng số tương đối.
Số tương đối là số biểu thị dưới dạng phần trăm số tỉ lệ hoặc hệ số. Số
tương đối đánh giá được sự thay đổi kết cấu các hiện tượng kinh tế, đặc biệt
cho phép liên kết các chỉ tiêu không tương đương để phân tích. Tuy nhiên, số
tương đối không phản ánh được chất lượng bên trong cũng như qui mô của
hiện tượng kinh tế.
So sánh bằng số tương đối là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện kết cấu,mối
quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế. Đơn vị
tính là ( %).
Có nhiều loại số tương đối, tùy theo nhiệm vụ và yêu cầu của phân tích
mà yêu cầu sử dụng thích hợp.
2.3.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích
Các chỉ tiêu kinh tế - tài chính trong quá trình kinh doanh thường đa dạng,
phong phú. Do vậy có thể nắm bắt được bản chất của các chỉ tiêu phân tích, các
20

nhà phân tích thường phải phân chia các chỉ tiêu đó theo bộ phận cấu thành,
theo thời gian và theo địa điểm.
- Chi tiết các chỉ tiêu kinh tế theo bộ phận cấu thành của chỉ tiêu nhằm biết
được vai trò của từng bộ phận trong việc hợp thành chỉ tiêu tổng hợp. Phương
pháp này xác định mức biến động của chỉ tiêu do sự ảnh hưởng của các nhân tố.
- Chi tiết các chỉ tiêu kinh tế theo thời gian cho biết nhịp điệu phát triển,
tính thời vụ, khả năng mất cân đối trong quá trình sản xuất kinh doanh của các

chỉ tiêu. Tùy theo đặc điểm của hoạt động kinh doanh, mục đích của việc phân
tích, nội dung kinh tế của chỉ tiêu có thể chi tiết hóa các đối tượng theo tháng,
quý, năm…
- Chi tiết các chỉ tiêu kinh tế theo không gian có ý nghĩa đánh giá kết quả
thực hiện của các đơn vị, bộ phận theo địa điểm phát sinh công việc nhằm tăng
cường công tác quản lý và hạch toán trong nội bộ.
- Chi tiết theo thời gian và không gian thường bổ sung cho nhau trong quá
trình nghiên cứu, một chỉ tiêu vừa được chi tiết theo thời gian vừa được chi tiết
theo không gian sẽ đem lại kết quả phân tích càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
2.3.3. Phương pháp loại trừ:
Phương pháp loại trừ nhằm xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích. Theo đó, khi xác định
ảnh hưởng của một nhân tố nào đó thì loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Đặc trưng của phương pháp này là luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường
hợp giả định khác nhau để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến
động của các chỉ tiêu phân tích. Muốn vậy, điều này có thể thực hiện bằng hai
cách: dựa vào phép thay thế sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố (phương pháp
thay thế liên hoàn) hoặc dựa trực tiếp vào mức biến động của từng nhân tố
(phương pháp số chênh lệch)
2.3.3.1. Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác địn ảnh hưởng của
từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu bằng cách thay thế lần
lượt các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ
tiêu nghiên cứu khi trị số của nhân tố thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu
21

×