Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường tiểu học 146 huyện mộc châu sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 60 trang )

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


HS : Học sinh
GV : Giáo viên
TH : Tiểu học
HSTH : Học sinh tiểu học
GVTH : Giáo viên tiểu học
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
TBDH : Thiết bị dạy học


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 3
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 5
5.2. Phương pháp quan sát sư phạm 5
6. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 5
6.1. Đối tượng nghiên cứu 5
6.2. Phạm vi nghiên cứu 5
7. Cấu trúc đề tài 6
8. Giả thuyết khoa học và đóng góp của đề tài 6
NỘI DUNG 7
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7
1.1. Cơ sở lý luận 7


1.1.1. Vai trò, tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện đối với học sinh tiểu
học 7
1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học 11
1.1.3. Quan niệm đổi mới trong dạy học kể chuyện ở tiểu học 12
1.2. Cơ sở thực tiễn 16
1.2.1. Khảo sát chương trình sách giáo khoa phân môn Kể chuyện lớp 5 ở tiểu
học 16
1.2.3. Khảo sát thực trạng dạy - học kể chuyện lớp 5 trường Tiểu học 14/6
Huyện Mộc Châu - Sơn La 20
TIỂU KẾT 26
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
VÀO DẠY HỌC KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƢỜNG TIỂU
HỌC 14/6 HUYỆN MỘC CHÂU - SƠN LA 28
2.1. Sử dụng tranh minh họa vào dạy học kể chuyện 28
2.1.1. Vai trò của tranh minh họa 28
2.1.2. Yêu cầu khi sử dụng tranh minh họa 29
2.1.3. Các hình thức sử dụng tranh minh họa 32
2.1.4. Sử dụng tranh minh họa vào các phần bài học 35
2.2. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học kể chuyện 36
2.2.1. Vai trò của công nghệ thông tin 36
2.2.2. Cách thức sử dụng công nghệ thông tin 36
2.3. Một số đồ dùng trực quan khác 38
2.3.1. Vai trò 39
2.3.2. Yêu cầu 39
2.3.3. Cách sử dụng 39
TIỂU KẾT 40
CHƢƠNG 3. THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM 41
3.1. Mục đích thể nghiệm 41
3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thể nghiệm 41
3.3. Phương pháp thể nghiệm 42

3.4. Nội dung thể nghiệm 42
3.5. Kết quả thể nghiệm 43
KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC





1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
1. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đào tạo ở bậc tiểu học cơ sở, đặc biệt
theo tinh thần Nghị quyết TW2 khóa 8 đào tạo những học sinh thành những con
người năng động, sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, công nghệ
hiện đại vận dụng vào thực tiễn cuộc sống phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Các bộ môn nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng cần phải thực
hiện đổi mới chương trình, nội dung phương pháp và những phương tiện phục
vụ cho dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Uyliam BatơDit từng nói:
“Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức, mà đó là công việc của
người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”. Trước đây, một giờ dạy học được xem
như là một buổi “biểu diễn nghệ thuật” của giáo viên. Vai trò chủ thể của học
sinh chưa được phát huy, các đồ dùng dạy học minh họa cho bài học còn hạn
chế. Học sinh là người bị động tiếp thu kiến thức còn giáo viên đóng vai trò chủ
thể của hoạt động dạy - học với nhiệm vụ là truyền thụ kiến thức. Hiện nay, với
sự đổi mới trong dạy - học thì vai trò chủ thể của học sinh đã được phát huy.
Giờ dạy - học không còn là “buổi biểu diễn nghệ thuật” của giáo viên nữa và

việc vận dụng các phương tiện, thiết bị dạy học đã được giáo viên ở các nhà
trường phổ thông quan tâm và đầu tư.
2. Đối với người giáo viên nói chung và người giáo viên tiểu học nói riêng,
việc dạy không chỉ đơn giản là đem kiến thức sẵn có đến cho học trò, mà đó còn
là việc tìm và khơi dậy trong lòng học trò những khả năng tiềm ẩn vốn có trong
tâm hồn chúng, đúng như lời của Galile vẫn nói: “Chúng ta không thể dạy bảo
cho ai bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ phát hiện ra những gì còn tiềm
ẩn trong họ”. Và có lẽ, sẽ chẳng có ai tự nhiên trở thành thiên tài, sẽ chẳng có ai
tự nhiên trở thành bậc vĩ nhân và cũng sẽ chẳng có ai tự nhiên trở nên tài giỏi
nếu mỗi người không biết khai thác chính khả năng tiềm ẩn của mình hoặc nhờ
một động lực nào đó thúc đẩy khả năng tiềm ẩn đó bùng phát.
2
Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ của những người làm nghề giáo càng trở nên gian
nan khi: “Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi
dạy trẻ với chút ít nhiệt tình”.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, phương pháp dạy học ở bậc tiểu học vẫn
còn tồn tại dạy phương pháp cũ, chưa tận dụng và khai thác hết các phương tiện
dạy học đặc biệt là đồ dùng trực quan, thậm chí còn dạy chay hoặc sử dụng đồ
dùng qua loa chiếu lệ, công tác chỉ đạo của các nhà quản lý giáo dục, quản lý
chuyên môn chưa triệt để. Xuất phát từ đó, đòi hỏi ngành giáo dục phải cải tiến
phương pháp - quản lý xây dựng sử dụng triệt để các thiết bị dạy học nhất là đồ
dùng trực quan để phát triển đạo đức, trí tuệ, hình thành nhân cách con người
trong xã hội mới.
3. Trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong những môn
chính có vai trò rất quan trọng. Dạy tiếng Việt ở tiểu học tạo cho học sinh kỹ
năng sử dụng tiếng Việt thành thạo để vận dụng trong học tập, giao tiếp. Môn
Tiếng Việt gồm có bảy phân môn, mỗi phân môn có một vai trò và nhiệm vụ
khác nhau nhưng giữa các phân môn có mối quan hệ chặt chẽ, tích hợp với
nhau. Cũng như các phân môn khác, phân môn Kể chuyện có vị trí quan trọng,
đặc biệt trong việc dạy học tiếng mẹ đẻ vì hành động kể là một hành động “nói”

đặc biệt trong hoạt động giao tiếp. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể
chuyện có sức mạnh của cả văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ
thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ
nghèo đi biết bao nhiêu nếu không có môn Kể chuyện trong trường học. Phân
môn Kể chuyện có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu được nghe kể chuyện ở trẻ em,
phát triển ngôn ngữ đặc biệt là kỹ năng nghe - nói, đồng thời phát triển tư duy
và bồi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống, vốn văn học cho học sinh.
Môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học có nhiệm vụ hoàn thành năng
lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện
trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó,
các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập, lứa tuổi và giúp học
sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các bậc học trên.
3
Trong các phân môn Tiếng Việt (Tập đọc, Học vần, Tập viết, Chính tả,
Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và câu) mỗi phân môn chứa đựng một bộ
phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để học sinh học tốt môn Tiếng
Việt. Trong đó phân môn Kể chuyện giúp học sinh nhận thức thế giới xung
quanh, hình thành những khái niệm và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em.
Qua các câu chuyện giúp học sinh xác lập một thái độ đối với các hiện tượng
của đời sống xung quanh, trẻ em không chỉ có nhận thức mà còn đáp ứng lại sự
kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh, tỏ thái độ của mình với các điều
thiện, điều ác. Truyện cung cấp những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi
nghĩa. Giai đoạn đầu tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ những câu
chuyện. Đặc biệt những câu chuyện cổ tích là ngọn nguồn phong phú và không
gì thay thế được để giáo dục tình yêu tổ quốc, con người. Xuất phát từ mục đích
nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Việt nói chung và phân môn Kể
chuyện nói riêng, em mạnh dạn tìm hiểu nghiên cứu đề tài: “Sử dụng đồ dùng
trực quan vào dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học 14/6
Huyện Mộc Châu - Sơn La” giúp cho học sinh phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong việc nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả

dạy học phân môn Kể chuyện cho học sinh tiểu học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nhu cầu hiểu biết và khám phá thế giới là nhu cầu rất lớn của con người.
Con người không những chỉ muốn biết những gì đang xảy ra hoặc sắp xảy ra,
mà còn muốn biết những gì đã xảy ra trong quá khứ (rất gần, rất xa trong lịch
sử). Hằng ngày, do vô tình hay cố ý ta có đủ thông tin về mọi chuyện trong nhà,
ngoài ngõ và rộng hơn là trong nước, trong vùng, trên thế giới, ngày nay hay
ngày xưa. Từ những chuyện lớn, chuyện nhỏ ta nghe kể từ tuổi ấu thơ bên bếp
lửa của bà, đến những điều nghe thầy cô, bạn bè kể, bình giảng ở trường, nhờ đó
sự hiểu biết về thế giới và con người cứ tăng dần lên theo năm tháng. Kể chuyện
là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Phân môn Kể
chuyện ở tiểu học được chia thành nhiều kiểu bài khác nhau, mỗi kiểu bài có vị
trí và vai trò nhất định trong quá trình hoàn thiện nhân cách cho các em. Trong
4
đó, phân môn Kể chuyện ở lớp 5 có vị trí quan trọng hơn cả. Chính vì vậy, hiện
nay có rất nhiều nhà giáo dục đã tiến hành các công trình nghiên cứu rèn kĩ năng
để các em có thể có được những tri thức cho bản thân các em tốt nhất. Nghiên
cứu chung các vấn đề dạy học, trong các tài liệu Cuốn “Phương pháp dạy học
tiếng Việt ở tiểu học” (tài liệu đào tạo giáo viên - 2007 của Bộ GD và ĐT), dự
án phát triển giáo viên tiểu học đã tổ chức biên soạn các môđun đào tạo giáo dục
trong đó có nêu ra các phương pháp dạy học cũng như quy trình dạy học phân
môn Kể chuyện theo chương trình sách giáo khoa ở tiểu học. Cuốn “Hướng dẫn
sử dụng và tự làm thiết bị dạy học môn tiếng Việt bậc tiểu học” (Tài liệu đào tạo
giáo viên - 2005 của Bộ GD và ĐT) đã nêu lên một số công thức giảng dạy
các phân môn bằng các thiết bị dạy học sẵn có hoặc các thiết bị dạy học tự
làm. Cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học” (Lê Phương Nga -
NXB Đại học sư phạm). Sách gồm 5 chương trình bày về phương pháp dạy
học của 4 phân môn và phương pháp tổ chức các hoạt động ngoại khóa, trong
đó có một chương đi sâu về phương pháp dạy học kể chuyện. Cuốn sách cung
cấp những hiểu biết về vị trí, nhiệm vụ, cở sở khoa học và các nguyên tắc dạy

học kể chuyện.
Cuốn “Dạy học kể chuyện ở trường tiểu học” (Chu Huy) đã nêu ra vị trí,
nhiệm vụ và vai trò của phân môn Kể chuyện trong trường tiểu học. Cuốn sách
còn đưa ra một số cách thức tổ chức dạy học kể chuyện ở tiểu học.
Trong quá trình tìm hiểu về các biện pháp dạy học, em thấy rằng: Tìm hiểu
và nghiên cứu về các phương pháp dạy học ứng dụng các đồ dùng dạy học thì đã
có nhiều, tuy nhiên trong phân môn Kể chuyện ứng dụng các thiết bị dạy học và
cụ thể hơn là đồ dùng trực quan thì đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên
cứu nào. Qua việc tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học
phân môn Kể chuyện, cụ thể Kể chuyện lớp 5 là những cơ sở để em lựa chọn đề
tài nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lí luận cũng như cở sở thực tiễn thông qua việc tìm
hiểu về chương trình sách giáo khoa, quan niệm đổi mới dạy học về phân môn
5
Kể chuyện lớp 5 ở tiểu học hiện nay, về thực trạng dạy và học phân môn Kể
chuyện của học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu – Sơn La.
Nhằm đề xuất các biện pháp dạy học và thể nghiệm các biện pháp dạy học
đó để khẳng định tính khả thi kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học môn Kể chuyện ở nhà trường tiểu học
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn.
- Đề xuất biện pháp dạy học.
- Vận dụng các biện pháp được đề xuất đó vào dạy thể nghiệm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung kể chuyện trong chương trình sách giáo khoa tiếng
Việt lớp 5.

5.2. Phương pháp quan sát sư phạm
- Điều tra thực trạng cơ sở vật chất - thiết bị dạy học phân môn Kể chuyện -
khảo sát nó qua quan sát, phỏng vấn, dự giờ.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong quá trình học phân môn Kể
chuyện của học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La.
6. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học kể chuyện cho
học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc châu - Sơn La.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tác dụng của đồ dùng trực quan cho phân môn kể chuyện lớp 5 .
- Thực trạng dạy - học các kiểu bài kể chuyện của học sinh lớp 5 trường
Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La.


6
7. Cấu trúc đề tài
Cấu trúc đề tài: Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo nội
dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
Chương 2 : Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong phân môn
Kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc châu - Sơn La.
Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm.
8. Giả thuyết khoa học và đóng góp của đề tài
Tìm hiểu biện pháp trực quan để rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 5
là một vấn đề còn nhiều khó khăn được giáo viên tiểu học quan tâm. Nếu các
biện pháp em đề xuất chứng minh được tính khả thi, thì sẽ góp phần rèn luyện
kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ tốt các tiết kể chuyện cho học sinh lớp 5 nói riêng và
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh
tiểu học trên địa bàn miền núi.

Đề tài là tài liệu cho sinh viên khoa Tiểu học - Mầm non trường Đại học
Tây Bắc trong quá trình học tập, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Nếu đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả giảng dạy phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6
Huyện Mộc Châu - Sơn La.
Đồng thời đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên Khoa Tiểu học -
Mầm non trường Đại học Tây Bắc trong quá trình học tập, rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm và ra trường công tác sau này.


7
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Vai trò, tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện đối với học
sinh tiểu học
Như chúng ta đã biết, kể chuyện là môn học mang tính tổng hợp. Nó dựa
trên kết quả nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau như: Tâm lý học, ngôn
ngữ học, lý luận văn học…
Đối với học sinh tiểu học phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng được
xếp liền ngay sau phân môn Tập đọc, Học thuộc lòng của bộ môn Tiếng Việt.
Phân môn Kể chuyện bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn
sống và vốn văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Xuất phát từ chỗ
truyện là những sáng tác mang tính chất văn học nên tác dụng của truyện đối với
trẻ em cũng là tác dụng của văn học nói chung. Hơn bất kỳ loại hình nào khác,
truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn con người đặc biệt đối với trẻ em. Suốt
những năm học ở tiểu học, nếu các em được nghe và học kể chuyện thì phân
môn kể chuyện sẽ góp phần làm cho tâm hồn các em giàu có thêm bằng biết bao
câu chuyện bổ ích và lý thú, những hình tượng quen thuộc của truyện sẽ trở

thành vốn văn học tích lũy đầu tiên và sau này khi có điều kiện gặp lại qua bộ
môn văn học ở các lớp cấp THCS và THPT. Đó sẽ là những khuôn mẫu ngôn
ngữ đầu tiên giúp học sinh phát triển tư duy. Mặt khác, nhiều từ ngữ ban đầu
thực ra chỉ xuất hiện trong truyện cổ và chỉ có trong truyện cổ. Các em khi tiếp
xúc với truyện cổ sẽ không quên những từ ngữ đó. Khi tập kể lại, các em học
sinh có điều kiện sử dụng vốn ngôn ngữ của mình để kể lại, do đó cùng với tư
duy, ngôn ngữ cũng phát triển. Như vậy nhiệm vụ giáo dục của phân môn Kể
chuyện lại trở nên đa dạng, phong phú. Dạy tốt tiết kể chuyện, giáo viên sẽ tạo
điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở nhiều học sinh, tạo điều kiện ươm
mầm cho những nhân tài mai sau. Đó cũng là một mặt trong việc xây dựng nhân
cách con người mới, con người của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Lịch sử luôn là những câu chuyện, khi đi học các em không những chỉ học
8
những thứ có trong sách vở, những câu chuyện được sáng tác bởi các nhà thơ, nhà
văn mà các em còn được tiếp xúc với nhiều các thể loại truyện khác nhau. Có
những câu chuyện diễn ra trong đời sống hằng ngày mà được trực tiếp các em
chứng kiến nó, trực tiếp tham gia vào câu chuyện đó. Điều đó đã góp phần tạo
nên ở các em tính sáng tạo, cách ghi chép các sự kiện một cách lôgic, có hệ thống.
Sau đây, em đi vào phân tích một số cơ sở khoa học chi phối một cách trực
tiếp đến dạy học kể chuyện.
1.1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành
viên trong cộng đồng người, đồng thời cũng là phương tiện để phát triển tư duy.
Khi có ngôn ngữ phong phú thì lời văn khi viết mới hay. Nói cách khác, muốn
viết đúng, viết hay thì cần phải nói đúng, nói hay. Do vậy, trong quá trình dạy
học, giáo viên phải coi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng trong quá
trình giáo dục trẻ thơ thành con người phát triển toàn diện.
Trong giao tiếp, diễn ra hoạt động trau dồi các ngôn bản. Sự trau dồi này
bao gồm hai loại hành động luôn gắn bó vào nhau: Hành động sản sinh ngôn
bản (bao gồm hành động nói ra hoặc viết ra các nội dung giao tiếp) và hành

động lĩnh hội văn bản tiếp nhận được (bao gồm hành động hiểu ngôn bản, đọc
được, nghe được). Các hành động sản sinh và lĩnh hội ngôn bản đó được coi là
hành động ngôn ngữ. Trong xã hội loài người, phần lớn nhất và trọng yếu nhất
của thông tin được tàng trữ và lưu hành nhờ ngôn ngữ. Chính nhờ ngôn ngữ mà
con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh hoạt và lao động, có thể diễn đạt
và làm cho người khác hiểu được tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng
của mình. Cũng nhờ đó, con người có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên
nhiên, chinh phục xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ có bản chất xã hội vì nó sinh ra do nhu cầu xã hội, nó quay lại
phục vụ xã hội và trở thành động lực giúp cho xã hội phát triển. Mặt khác chính
chức năng giao tiếp được mở rộng nhờ sự phát triển của xã hội. Từ chức năng là
phương tiện giao tiếp, là công cụ tư duy quan trọng nhất của loài người, ngôn
ngữ cũng là công cụ của văn hóa, của biểu cảm thẩm mỹ. Bản sắc văn hóa của
9
mỗi dân tộc thể hiện, lưu trữ trong ngôn ngữ. Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân
môn Kể chuyện giúp cho học sinh có thể diễn đạt ngôn ngữ của bản thân một
cách tự nhiên thông qua sự phân vai kể chuyện. Trong quá trình học tập, phân
môn Kể chuyện rèn luyện khả năng nói tiếng Việt trực tiếp giúp học sinh mạnh
dạn, tự tin bộc lộ khả năng ngôn ngữ của bản thân một cách hiệu quả, góp phần
hình thành các kỹ năng tiếng Việt một cách đầy đủ nhất.
1.1.1.2. Cơ sở văn học
Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ.
Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng hiện tại như ti vi, đài
phát thanh, rađiô catset, người ta vẫn thích nghe nói chuyện bằng miệng. Theo
định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ ngôn ngữ nói
sinh hoạt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Tiếng nói là thứ của
cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ
gìn nó, phát triển nó”. Nhờ có tiếng nói và lao động con người mà thoát hẳn
khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ
thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy quây quanh đám lửa trại nướng thịt thú

rừng, nướng quả hạt thường kể những chuyện săn, bắt, hái, lượm cho nhau nghe.
Đó cũng là khởi đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và kể chuyện ở đây mang
chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển, số lượng từ cơ bản tăng
lên, đời sống vật chất và tinh thần ngày một phong phú thì kể chuyện không chỉ
dừng ở mức độ thông tin nữa mà mang thêm chức năng giải trí, hay cao hơn nữa
là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức
giàu có, hết sức đa dạng được truyền lại đến ngày nay bằng hình thức kể.
Trải qua 10 thế kỉ Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn bản lĩnh và
bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến phương Bắc xâm lược, đồng hóa
thôn tính, một phần là nhờ ở hùng khí những câu chuyện cổ. Chùm truyền
thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy
Tinh, An Dương Vương, bánh chưng bánh giầy, An Tiêm đã nhen nhóm niềm
tin tất thắng về một tương lai của cả một dân tộc bị ngoại bang thống trị.
10
Cho đến năm 939, với chiến thắng của Ngô Quyền, dân tộc ta đã bẻ gãy cái
vòng xiềng xích “quận huyện” của bọn phong kiến nhà Hán. Ta lại là ta, ta là dân
tộc Việt Nam chứ không thể là ai khác. Chùm truyện cổ về háo khí dân tộc ấy nhờ
vậy mà được bảo tồn và phát triển mãi mãi bằng hình thức truyền miệng. Trong
một thời gian lịch sử lâu dài, khi đã có văn tự để ghi chép, in ấn rồi thì kể chuyện
vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển song song với sự phát triển của văn tự.
(Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 12-13)
Trong chương trình học, phân môn Kể chuyện lớp 5 không chỉ có những
câu chuyện được truyền lại mà còn có các câu chuyện về đời sống hằng ngày,
những câu chuyện mà các em được tiếp xúc trực tiếp, được chứng kiến hoặc
tham gia. Tất cả những cốt truyện với nhiều thể loại truyện khác nhau sẽ giúp
cho các em có được sự hiểu biết về nhiều phong cách khác nhau, là nền tảng ban
đầu cho sự hình thành các thao tác tư duy, phân loại tác phẩm văn học.
1.1.1.3. Cơ sở tâm lý học
Cơ sở lý luận của sự nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định trí tuệ
nhân loại điểm xuất phát từ thực tiễn, từ đó xây dựng nên những khái niệm,

lý luận và quay trở lại thực tiễn kiểm nghiệm. Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường nhận thức
của nhân loại. Phương tiện trực quan, kể cả ngôn ngữ lời nói sinh động làm
cho người học cảm giác, tri giác được và sự khai thác gợi mở của người dạy
thông qua quan sát các sự vật hiện tượng từ riêng lẻ đến bộ phận, học sinh sẽ
nắm bắt, nhận thức nhanh chóng.
Về cơ sở phương pháp dạy học kết hợp với trực quan sinh động: Trước hết
ta hiểu phương pháp dạy học là một hệ thống tác động liên tục của người dạy
nhằm tổ chức cho hoạt động nhận thức của học sinh để người học lĩnh hội các
thành phần của nội dung giáo dục để đạt được mục tiêu đã định.
Phương pháp dạy học quan hệ với các thành tố khác của quá trình dạy học
như mục tiêu - nội dung - phương pháp - phương tiện và người chỉ huy.
Nếu ta coi mục tiêu là cái đích cần đạt đến, nội dung cần truyền tải; phương
pháp là con đường thì phương tiện phải tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
11
Song, người “chỉ huy” đó là người dạy cần phải biết sử dụng triệt để mới có
hiệu quả. Trong thời kỳ đổi mới, giáo dục đào tạo con người toàn diện, đáp ứng
yêu cầu mới. Nội dung kiến thức có chỉnh lý cho phù hợp thì yêu cầu phương
pháp cần được đổi mới. Phương tiện phục vụ nó càng được coi trọng để nâng
cao chất lượng.
Trong hoạt động dạy và học: phương pháp - phương tiện có vị trí hết sức
quan trọng, nó là loại công cụ và công việc có tổ chức, có trật tự, hệ thống, kế
hoạch. Nó tuân theo những quy luật tâm lý: nhu cầu, hứng thú, năng lực của
người học, được coi như là công cụ hữu hiệu tiết kiệm thời gian giúp cho người
dạy và người học thuận lợi.
Các phương pháp dạy học tổ chức và thực tiễn được phân thành các nhóm
lôgíc truyền thụ và tri giác thông tin (quy nạp - suy diễn).
Nhóm theo nguồn tri thức và đặc điểm tri giác thông tin (đàm thoại - diễn
giảng trực quan, minh họa, biểu diễn, thực hành).
Nhóm theo mức độ tư duy độc lập, tích cực độc lập của học sinh (tái tạo,

sáng tạo).
Các phương pháp khác như xây dựng động cơ học tập, phương pháp kiểm tra.
Cùng với phương pháp là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ sảo. Như vậy hệ
thống này phản ánh cấu trúc văn hoá như một hệ thống kinh nghiệm xã hội cần
truyền lại cho thế hệ sau. Để chiếm lĩnh tri thức, nhà giáo dục phải cùng với
phương pháp, phương tiện giúp học sinh thực hiện hoạt động, nhận thức được dễ
dàng dưới 2 dạng cơ bản: tái tạo và sáng tạo. Nói một cách dễ hiểu là tâm lý học
có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng các phương pháp dạy
học, hay nói cách khác là tâm lý chi phối trực tiếp vào các hoạt động nhận thức
của con người vì vậy ta phải đặt chúng trong cùng một mối quan hệ để có thể
thấy rõ được điều đó.
1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học
Ở giai đoạn học mầm non, hoạt động chủ đạo của các em là vui chơi, các
hoạt động học được đan xen giữa các hoạt động vui chơi như các trò chơi, các
bài hát, các bài múa, bài vè, bài thể dục. Qua các hoạt động vui chơi đó các em
12
dần hình thành các biểu tượng, khái niệm một cách sơ giản làm nền móng đầu
tiên cho các cấp học tập sau này. Bước sang giai đoạn tiểu học tuy là sự chuyển
tiếp nhưng hoạt động chủ đạo không còn là vui chơi nữa mà thay vào đó là hoạt
động học tập. Các em đã được học một cách bài bản theo hệ thống các kiến thức
trong sách giáo khoa, hoạt động vui chơi vẫn còn nhưng chiếm tỷ lệ ít hơn rất
nhiều. Tuy vậy, lứa tuổi tiểu học vẫn mang nặng tư duy trực quan cụ thể và khái
quát. Bậc học tiểu học là giai đoạn đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân
cách. Ở giai đoạn này tri giác của các em còn mang tính đại thể, chưa có khả
năng phân tích, tách các dấu hiệu các chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Tri
giác thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn, trẻ chỉ cảm nhận được
những cái nó cầm, nắm. Đặc biệt những cái trực quan, rực rỡ, sinh động được
các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tốt hơn. Tư duy của của học sinh tiểu
học là tư duy trực quan, cụ thể. Chính vì những đặc điểm tâm lý đặc trưng đó
nên trong giảng dạy cần kết hợp sử dụng các phương tiện, đồ dùng, thiết bị dạy

học để các em có thể tiếp thu bài học một cách hiệu quả. Người giáo viên tiểu học
phải nắm được những đặc điểm này người dạy sẽ có những phương pháp, cách
thức tổ chức dạy học đạt hiệu quả tốt. Lớp 5 là lớp học cuối cấp I, ở giai đoạn này
các em đã có sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, hệ thống các kiến thức có trong
sách giáo khoa ít kênh hình hơn thay vào đó là hệ thống các kênh chữ. Điều đó đòi
hỏi ở các em sự nhận thức tốt hơn, tuy nhiên dù có sự thay đổi lớn đó các em vẫn
sẽ học tốt hơn nếu có các thiết bị trực quan trong các giờ dạy học.
1.1.3. Quan niệm đổi mới trong dạy học kể chuyện ở tiểu học
Trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt đổi mới hiện hành (năm
2000), hệ thống kiến thức vẫn không khác so với chương trình cũ nhiều nhưng
có điểm mới so với chương trình cũ đó là: Kiến thức được trình bày ở hệ thống
kênh hình nhiều hơn trước, tranh ảnh minh họa cho bài học mang đầy đủ kiến
thức chúng có chức năng minh họa cho lời giảng của giáo viên, kích thích tính
tò mò ham học hỏi của học sinh.
Mặt khác, trong đổi mới phương pháp dạy học kể chuyện hiện nay khi
giảng dạy giáo viên cần sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau
13
để đạt được hiệu quả cao. Trong đó phương pháp trực quan được coi là phương
pháp dạy học chủ yếu và có hiệu quả.
1.1.3.1. Phương pháp trực quan
Trước hết, phương pháp dạy học nói chung, là con đường, cách thức mà
người giáo viên sử dụng nhằm chiếm lĩnh hoặc biến đổi đối tượng theo mục
đích đã định, nếu nói phương pháp làm việc là phương cách, phương sách,
phương thức để giải quyết một vấn đề, một công việc đạt hiệu qủa cao nhất.
1.1.3.2. Khái niệm phương pháp dạy học trực quan
Có rất nhiều khái niệm về phương pháp trực quan, nhưng phương pháp trực
quan được hiểu là phương pháp dạy học mà trong đó giáo viên sử dụng các phương
tiện, thiết bị dạy học để hình thành kiến thức, củng cố kiến thức cho học sinh.
Phương pháp trực quan có vị trí rất quan trọng trong dạy học ở tiểu học. Nó
giúp học sinh tích lũy được những tài liệu cụ thể của các đối tượng quan sát để

tạo cho quá trình trừu tượng hóa.
1.1.3.3. Hình thức thể hiện
Phương pháp trực quan được thể hiện dưới hai hình thức: Minh họa và
trình bày.
Minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan như bản mẫu, bản
đồ, tranh vẽ, hình ảnh…
Trình bày gắn liền với thiết bị kĩ thuật, chiếu phim, trình bày đồ dùng trực
quan. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường sử dụng các phương tiện trực
quan khác nhau như:
Vật thật: Thực vật, động vật tươi sống, các hiện tượng tự nhiên giúp các em
gần gũi với đời sống thực tế, gây ấn tượng sâu sắc, gây hứng thú học tập cho
học sinh.
Vật tượng trưng: Bản đồ, sơ đồ, bảng biểu giúp học sinh thấy được một cách
trực quan các sự vật, hiện tượng được biểu diễn dưới dạng khái quát và đơn giản.
Vật tạo hình: Tranh ảnh, hình vẽ, phim…ngoài khả năng quan sát trực tiếp
các sự vật, hiện tượng không thể trông thấy được.
14
Khi sử dụng các phương tiện này giáo viên cần chú ý về số lượng, hình
thức, cách trình bày của chúng đảm bảo phát triển năng lực quan sát, hình thành
tư duy trực quan cho học sinh và hoàn thành tốt mục tiêu của bài học.
1.1.3.4. Vai trò, chức năng của các phương tiện trực quan (đồ dùng dạy học)
Phương tiện trực quan, đồ dùng trực quan là những thứ nằm trong các thiết
bị dạy học.
TBDH chúng ta hiểu là công cụ của giáo viên và học sinh, TBDH gồm
nhiều loại hình khác nhau: tranh ảnh, bản đồ, biểu bảng, mô hình, mẫu vật, hóa
chất, dụng cụ thí nghiệm, băng ghi âm, băng ghi hình, phim, đèn chiếu, phim xi
nê, đĩa mềm vi tính Mỗi loại hình này phát huy tính năng, tác dụng khác nhau
trong quá trình dạy học nói chung và từng môn học nói riêng.
Ở đây em lựa chọn những loại hình thiết bị dạy học tiêu biểu làm đồ dùng
trực quan nhằm nghiên cứu, vận dụng những đồ dùng ấy trong phân môn kể

chuyện cho học sinh lớp 5. Ở nhà trường tiểu học, những đồ dùng trực quan mà
em lựa chọn là những thiết bị có thể ứng dụng rất nhiều và phù hợp với đặc
điểm của phân môn kể chuyện như: tranh ảnh, băng ghi âm, băng ghi hình, phim
đèn chiếu, đĩa mềm vi tính…
Thực tiễn sư phạm cho thấy, các phương pháp dạy học chỉ được thực hiện
nhờ có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học nhất định, trong những hình thức dạy
học nhất định.
Nói chung, trong quá trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ
công việc của giáo viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận
lợi. Có được đồ dùng thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng
tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học
sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm
tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến
thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm
được (những gì nghe được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn
thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa các phương tiện dạy học
vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập
15
của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức
và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em.
Đồ dùng dạy học bao gồm các chức năng sau:
- Truyền thụ tri thức.
- Hình thành kỹ năng.
- Phát triển hứng thú học tập.
- Tổ chức điều khiển quá trình dạy học.
1.1.3.5. Sự cần thiết của việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy
học kể chuyện
Ở tiểu học, dù học sinh có thể tiếp thu tài liệu, nắm được một số khái niệm
hay tính chất trừu tượng bằng lời giải thích của giáo viên nhưng hiệu quả thường
thấp, nếu sự giải thích bằng lời không kết hợp với tổ chức cho học sinh tự mình

phân tích - tổng hợp lời giải thích, cụ thể hóa nó bằng các ví dụ cụ thể hoặc bằng
cách diễn đạt của chính mình. Chính vì vậy việc vận dụng phương pháp trực
quan vào dạy học là cần thiết.
Trong quá trình dạy - học kể chuyện, học sinh tự nhận thức bằng hình ảnh
thị giác, bằng tưởng tượng để tái hiện lại hình tượng tác phẩm, cụ thể hóa hình
ảnh làm cho các nhân vật, sự vật, quang cảnh thiên nhiên, xã hội muôn màu
muôn vẻ như đang hiện ra trước mắt mình có thể nhập vai, nhân hóa nói lên
những ý nghĩ thầm kín, bộc lộ tính cách của họ, liên tưởng để thấy rõ hơn vẻ
đẹp của hình tượng tác phẩm.
Các nhà tâm lý đã khẳng định: “Tưởng tượng là quá trình tạo ra những biểu
tượng mới (hình ảnh mới) dựa trên biểu tượng đã có. Tri giác đem lại, nhờ vào
những khái niệm đã hình thành trong ý thức thông qua các quá trình tư duy”.
Các hình ảnh tưởng tượng được hình thành không chỉ bằng con đường các
yếu tố hình ảnh trí nhớ, mà còn bằng con đường cải biến các yếu tố đó và bổ
sung vào những yếu tố mới. Chính vì vậy, hình ảnh trong tưởng tượng của mỗi
học sinh không phải chỉ là những hình ảnh sao chép, nguyên mẫu những gì đã
quan sát được, mà là những hình ảnh đã được cải biến, sáng tạo thêm cho phù
hợp với cuộc sống, sự hiểu biết của mỗi em.
16
Việc bồi dưỡng trí tưởng tưởng còn góp phần giúp cho đạo đức, tình
thương được nảy nở trong tâm hồn các em. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nhận
định: “Một tâm hồn không có trí tưởng tượng thì không có đạo đức. Văn học
nghệ thuật nuôi đạo đức trong lòng người bằng nhiều cách nhưng có một cách
rất quan trọng là làm cho trí tưởng hoạt động lên, phong phú lên”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát chƣơng trình sách giáo khoa phân môn Kể chuyện lớp
5 ở tiểu học
Chương trình kể chuyện ở tiểu học được phân bố theo các lớp như sau:
- Ở lớp 1, trong phần Học vần chưa có giờ kể chuyện riêng, nhưng từ phần
luyện tập tổng hợp (bắt đầu từ tuần 23) 1 tiết/tuần

- Ở lớp 2, mỗi tuần có 1 tiết/tuần.
- Ở lớp 3, 5 tiết kể chuyện/tuần, học chung trong 1 tiết với bài tập đọc đầu tuần.
- Ở lớp 4, 5 phân môn Kể chuyện học 1 tiết/tuần.
* Yêu cầu về kĩ năng kể chuyện:
Ở lớp 1 là sau khi nghe giáo viên kể mẫu 2, 3 lần một câu chuyện đơn giản,
phù hợp với trình độ và đặc điểm lứa tuổi, học sinh phải nắm được nội dung
chính của câu chuyện và dựa vào trí nhớ, vào các tranh minh họa trong SGK,
các câu hỏi dưới tranh, kể lại được từng đoạn của câu chuyện.
Ở các lớp 2, 3 kĩ năng nghe kể chuyện vẫn tiếp tục được rèn luyện. Đó là
các kĩ năng độc thoại và hội thoại nhưng với yêu cầu cao hơn so với lớp 1. Ở lớp
2, 3, trong độc thoại có thêm yêu cầu HS kể bằng lời của mình, kể có thêm một
hai chi tiết sáng tạo. Trong hội thoại có thêm yêu cầu dựng lại câu chuyện đã
học theo vai, bước đầu sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp (nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ ).
Ở lớp 3, khi rèn kĩ năng độc thoại có thêm yêu cầu học sinh kể lại chuyện
theo lời một nhân vật. Ở lớp 4, 5, HS vẫn tiếp tục được củng cố kĩ năng kể
chuyện đã được hình thành từ lớp dưới, đồng thời được hình thành những kĩ
năng mới. Nội dung các câu chuyện được kể ở lớp 4, 5 đã phong phú hơn, độ
dài lớn hơn. So với lớp 2, 3, có thêm yêu cầu mới là HS kể lại các chuyện đã
17
nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện. Ngoài ra, HS còn phải kể lại được các chuyện
đã chứng kiến hoặc tham gia.
2.1.2. Các dạng bài học Kể chuyện ở lớp 5
Ở lớp 5, cũng có ba dạng bài học kể chuyện: kể chuyện đã nghe thầy cô
kể trên lớp, kể chuyện đã nghe, đã đọc, kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia.
Kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp được thực hiện ở
tuần thứ nhất trong một chủ điểm 3 tuần học. Trong trường hợp này, câu chuyện
(có độ dài khoảng trên dưới 500 chữ) được in trong SGV, trình bày thành tranh
hoặc tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong SGK.
Câu chuyện được thầy, cô kể cho HS nghe, rồi HS kể lại. Bên cạnh mục

đích chung là rèn kĩ năng cho HS, kiểu bài này còn có mục đích rèn kĩ năng
nghe. Ở nhiều bài có thêm điểm tựa để nhớ truyện là tranh minh họa và gợi ý
dưới tranh. Kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện yêu
cầu HS phải tự sưu tầm trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe
người thân hoặc ai đó kể) để kể lại. Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ
TLV. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho HS, kiểu bài kể lại câu
chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện còn có mục đích kích thích HS ham
đọc sách.
Kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia yêu cầu HS
kể những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà các
em đã biết, đã thấy, cũng có khi chính các em là nhân vật của câu chuyện. Kiểu
bài này trước đây chỉ có trong giờ TLV. Các bài kể chuyện được chứng kiến
hoặc tham gia rất đa dạngvì chúng gắn với các chủ điểm của sách.
Bên cạnh mục đích rèn luyện kĩ năng nói,kiểu bài kể chuyện được chứng
kiến, tham gia còn có mục đích rèn cho HS thói quen quan sát, ghi nhớ. So với
các câu chuyện ở lớp 2, 3 thì các chuyện ở lớp 5 có độ dài lớn hơn, tình tiết
phức tạp hơn, nội dung sâu sắc hơn. Những câu chuyện này nói về những phẩm
chất tốt đẹp mà con người cần phải rèn luyện gắn với các chủ điểm học tập.
Các bài học kể chuyện lớp 5 được phân bố theo các tuần học như sau:
Học kì I:
18
1. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lí Tự Trọng)
2. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về các anh hùng, danh nhân
của nước ta)
3. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể việc làm tốt góp phần xây
dựng quê hương đất nước của một người mà em biết)
4. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Tiếng vĩ cầm ở Mĩ Lai)
5. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện ca ngợi hòa bình chống chiến
tranh)
6. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề: Kể một

câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình hữu nghị
giữa nhân dân ta với nhân dân các nước/Nói về một nước mà em được biết qua
truyền hình phim ảnh)
7. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Cây cỏ nước Nam)
8. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về quan hệ giữa con
người với thiên nhiên)
9. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một câu chuyện về một lần em
đi thăm cảnh đẹp ở địa phương em hoặc ở nơi khác)
10. Ôn tập
11. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Người đi săn và con nai)
12. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện có nội dung bảo vệ môi
trường)
13. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề: Kể một
việc làm tốt của em hoặc một người xung quanh để bảo vệ môi trường/ Kể về
một hành động dũng cảm bảo vệ môi trường)
14. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Pastơ và em bé)
15. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về những người đã góp
sức mình chống lại đói nghèo, lạc hậu vì hạnh phúc của nhân dân)
16. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một buổi sum họp đầm ấm
trong gia đình)
19
17. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những người biết sống
đẹp, biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh)
18. Ôn tập
Học kì II:
19. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Chiếc đồng hồ)
20. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những tấm gương sống và
làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh)
21. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong các đề bài sau:
Kể một việc làm của những công dân nhỏ thể hiện ý thức bảo vệ các công trình

công cộng, các di tích lịch sử, văn hóa / Kể một việc làm thể hiện ý thức chấp
hành luật giao thông/ Kể một việc làm thể hiện lòng biết ơn các thương binh,
liệt sĩ)
22. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Ông Nguyễn Khoa Đăng)
23. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện về những người đã góp sức
mình bảo vệ trật tự an ninh)
24. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể một việc làm tốt góp phần
bảo vệ trật tự an ninh nơi làng xóm, phố phường)
25. Kể chuyện đã nghe thấy cô kể trên lớp (Vì muôn dân)
26. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về truyền thống hiếu học
hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam)
27. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề bài sau:
Kể một câu chuyện trong cuộc sống nói lên truyền thống tôn sư trọng đạo của
người Việt Nam/ Kể một kỉ niệm về thầy giáo hoặc cô giáo của em, qua đó thể
hiện lòng biết ơn của em với thầy cô)
28. Ôn tập
29. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Lớp trưởng lớp tôi)
30. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể về một phụ nữ anh hùng hoặc một phụ nữ
có tài)
31. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Kể về một việc làm tốt của
bạn em)
20
32. Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp (Nhà vô địch)
33. Kể chuyện đã nghe, đã đọc (Kể một câu chuyện nói về gia đình, nhà trường
và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ em thực hiện bổn phận với gia
đình, nhà trường và xã hội)
34. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (Chọn một trong hai đề bài sau:
Kể một câu chuyện em biết về gia đình, nhà trường hoặc xã hội chăm sóc, bảo
vệ thiếu nhi/ Kể về một lần em cùng các bạn trong lớp hoặc trong chi đội tham
gia công tác xã hội)

35. Ôn tập
Tóm lại: Các bài học kể chuyện giúp học sinh tiếp xúc với tác phẩm văn
học. Trong suốt bậc tiểu học học sinh được nghe và tham gia kể rất nhiều câu
chuyện với đủ thể loại. Đó là những tác phẩm có giá trị của văn học cổ, văn học
đương đại Việt Nam và thế giới. Trong chương trình phân môn kể chuyện lớp 5
các bài học kể chuyện không giới hạn ở một phạm vi nào mà các mẩu chuyện
được xây dựng từ rất nhiều những đề tài khác nhau trong cuộc sống, những câu
chuyện đó muôn màu muôn vẻ và luôn hấp dẫn đối với học sinh.
1.2.3. Khảo sát thực trạng dạy - học kể chuyện lớp 5 trƣờng Tiểu học
14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La
1.2.3.1. Tiến hành khảo sát
Em tiến hành khảo sát ứng dụng đồ dùng trực quan trong về vấn đề dạy học
phân môn Kể chuyện lớp 5 theo chương trình mới. Từ đó xác định những khó
khăn mà giáo viên gặp phải khi dạy học ứng dụng đồ dùng trực quan và các
biện pháp khắc phục.
Mặt khác, em tìm hiểu tâm lý của học sinh lớp 5 và khảo sát thực trạng học
tập để thấy được những hạn chế còn tồn tại. Trên cơ sở đó, đưa ra một số biện
pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học kể chuyện ứng dụng đồ dùng trực
quan cho học sinh lớp 5.
* Nội dung khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát trên những nội dung sau:
21
- Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên và các đồ dùng dạy học trực
quan trong phân môn Kể chuyện.
- Hoạt động dạy và học kể chuyện của học sinh lớp 5.
- Thái độ của học sinh khi tham gia học phân môn Kể chuyện.
* Phương pháp khảo sát
- Phương pháp dự giờ trực tiếp.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh.
- Phương pháp trắc nghiệm.

* Thời gian và địa bàn khảo sát
Thời gian tiến hành khảo sát từ 15- 12- 2013 đến 25- 12- 2013.
Địa bàn khảo sát tại: Trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La.
* Kết quả khảo sát
Trường Tiểu học 14/6 là ngôi trường được xây dựng từ khá lâu, trường có
đội ngũ cán bộ giáo viên giàu kinh nghiệm. Qua khảo sát em được biết tất cả các
các bộ giáo viên đều có trình độ từ Trung cấp trở lên, nhiều thầy cô giáo dạy lâu
năm đã được nhà trường cử đi học thêm các lớp nâng cao, các lớp bồi dưỡng.
Trao đổi với cô giáo Đỗ Thị Liên hiện đang là Hiệu trưởng trường Tiểu học
14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La cho biết: Các cán bộ giáo viên trong nhà
trường luôn thi đua dạy tốt. Năm nào trường cũng có những thầy, cô giáo tiêu
biểu được cử đi thi giáo viên dạy giỏi ở các cấp và đều đạt được những thành
tích đáng tự hào.
Các thầy, cô giáo trong trường chủ yếu là thầy cô người dân tộc Kinh, chỉ có
3 thầy, cô là người dân tộc thiểu số. Mỗi thầy, cô được trang bị những phương
pháp dạy học khác nhau, phù hợp với lớp chủ nhiệm và bộ môn giảng dạy.
Trường nằm trên quốc lộ 43 thuộc địa bàn thị trấn Nông Trường Huyện
Mộc Châu. Đây là ngôi trường có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, trường đã gặt hái được nhiều thành công
trong công tác giáo dục. Trường đã có hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ
để phục vụ cho quá trình dạy học.

22
1.2.3.2. Hoạt động dạy học của giáo viên
Hiện nay, sách giáo khoa mới, sách giáo viên, vở bài tập tiếng Việt là
những phương tiện thuận lợi giúp cho giáo viên và học sinh đổi mới cách dạy và
học môn Tiếng Việt theo hướng thực hành giao tiếp, chú trọng vào các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết và thực tế trong những năm gần đây, chất lượng dạy và học
môn tiếng việt đã được nâng cao rõ rệt, kỹ năng thực hành tiếng Việt của học
sinh đã có nhiều tiến bộ.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, thực trạng việc dạy học kể
chuyện vẫn biểu hiện những tồn tại cơ bản sau:
Hầu hết giáo viên tiểu học đều nhận thức được vai trò quan trọng của trực
quan trong việc nâng cao hiệu quả dạy học, nhưng quan niệm như thế nào là đảm
bảo nguyên tắc trực quan, như thế nào là một tài liệu trực quan có chất lượng và sử
dụng ra sao trong giờ dạy kể chuyện vẫn còn là vấn đề cần làm sáng tỏ hơn.
Trên thực tế (Ở trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La) mặc dù
được trang bị khá đầy đủ về các phương tiện và đồ dùng dạy học, nhưng trong
các tiết học kể chuyện thì đồ dùng trực quan vẫn chưa được vận dụng một cách
hiệu quả. Rất nhiều đồ dùng trực quan được trang bị chỉ mang tính hình thức
còn học sinh thì không được tiếp xúc trong quá trình giảng dạy dẫn đến hiệu quả
dạy học chưa cao. Khi có cán bộ quản lý dự giờ của giáo viên, hoặc giáo viên
dự giờ đồng nghiệp các giờ dạy thường được góp ý là không có đồ dùng dạy
học, không sử dụng trực quan và xem đó là một điểm hạn chế của giờ dạy. Từ lý
do đó dẫn đến một ứng xử thông thường là: Hễ biết có người dự giờ thì việc đầu
tiên là người dạy phải lo cho được các bức vẽ phóng to, các bảng phụ, thu thập
tranh ảnh, mà những việc làm đó, những đồ vật đó nhiều khi thiên về tính hình
thức có khi không thật sự cần thiết.
Khi dạy phần tìm hiểu bài của bài tập đọc, không ít giáo viên đã sử dụng
một hệ thống các bảng phụ bằng giấy, cái to, cái nhỏ để ghi các ý chính và đại ý
(nội dung) của bài rồi dán lên hầu như kín bảng để cho học sinh quan sát nhưng
giáo viên chưa thực sự chú trọng đến việc học sinh tiếp thu được những gì.

×