Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Khó khăn tâm lí của học sinh đầu lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố huyện Pác Nặm tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 84 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Th.S Lê
Thị Thu Hà, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm
khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Tiểu học - Mầm non những
người đã trực tiếp giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời
gian học tập tại trường, xin cảm ơn các thầy, cô giáo và các em học sinh lớp 1
Trường Tiểu học Bộc Bố và phân trường Nà Lảy đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình tìm hiểu thực trạng khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1.
Xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp K51A Đại học giáo dục Tiểu học, cũng
như gia đình, bạn bè những người luôn quan tâm, động viên và nhiệt tình giúp
đỡ em để hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Tuyết Mai

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

GV: giáo viên
HS: học sinh
KKTL: khó khăn tâm lí
GĐ: gia đình
TB: thứ bậc
SGK: sách giáo khoa






MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
5. Phạm vi nghiên cứu 2
6. Giả thuyết khoa học 3
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
8. Đóng góp của đề tài 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ
CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề 6
1.1.1. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý 6
1.1.2. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 7
1.2. Một số khái niệm công cụ 9
1.2.1. Khó khăn 9
1.2.2. Khó khăn tâm lí 9
1.2.3. Khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 10
1.2.4. Nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lí 10
1.3. Khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 10
1.4. Đặc điểm tâm lý của học sinh đầu lớp 1 16
1.4.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1 16
1.4.2. Đặc điểm nhân cách của học sinh lớp 1 18
1.4.3. Tâm lí sẵn sàng đi học của trẻ vào lớp 1 21
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH
ĐẦU LỚP 1 TRƢỜNG TIỂU HỌC BỘC BỐ - PÁC NẶM - BẮC KẠN 24
2.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu 24

2.2. Thực trạng khó khăn tâm lí của học học sinh đầu lớp 1 trƣờng tiểu học
Bộc Bố, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn 25
2.2.1. Khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 25
2.2.2. Biểu hiện khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố
huyện Pác Nặm tỉnh Bắc Kạn 30
2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 33
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 33
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan 35
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của trẻ lớp 1 39
2.2.4.1. Ảnh hưởng của môi trường sống đến khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1
39
2.2.4.2. Giới tính và khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1. 41
2.2.4.3. Độ tuổi và khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 43
2.2.4.4. Hoàn cảnh gia đình và khó khăn tâm lí 46
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CHO HỌC SINH ĐẦU LỚP 1 TRƢỜNG TIỂU HỌC BỘC BỐ HUYỆN
PÁC NẶM TỈNH BẮC KẠN 50
3.1. Chuẩn bị cho trẻ một thể lực tốt khi vào lớp 1 50
3. 2. Chuẩn bị về mặt trí tuệ cho trẻ 52
3.3. Tạo hứng thú sẵn sàng đi học cho trẻ 56
3.4. Chuẩn bị cho trẻ về khả năng thích ứng với hoạt động học tập và xã hội 57
3.5. Chuẩn bị tốt về mặt ngôn ngữ 59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 65
1. Kết luận 65
2. Kiến nghị 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHỤ LỤC

1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục – đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Tiểu học là bậc học nền tảng
trong hệ thống giáo dục quốc dân đặt cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục học ở
bậc học cao hơn. “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho việc phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các
kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc trung học cơ sở”.
Lớp 1 có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông
nói chung và trong bậc tiểu học nói riêng. Từ mẫu giáo lên lớp 1 là một bước
ngoặt quan trọng đối với mỗi học sinh. Quá trình chuyển đổi hoạt động chủ đạo
từ vui chơi ở mẫu giáo sang học tập ở tiểu học, trẻ phải tham gia vào một cuộc
sống mới, một môi trường mới, hoạt động mới, yêu cầu mới… điều đó sẽ gây
cho trẻ rất nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn về tâm lý. Vì vậy, nếu
hiểu được những khó khăn tâm lí của trẻ và có biện pháp giúp trẻ khắc phục thì
trẻ sẽ thích nghi với hoạt động học tập tốt hơn, tiếp thu sự giáo dục được thuận
lợi hơn. Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong hoạt động học tập và phát triển tốt
tâm lí cũng như nhân cách của trẻ.
Hiện nay ở nước ta mỗi năm có hơn 1 triệu học sinh đi học lớp 1 và thu
hút được sự quan tâm chú ý của các bậc phụ huynh cũng như của xã hội. Tuy
nhiên áp lực từ phía phụ huynh, từ nhà trường tới trẻ đi học lớp 1 vẫn đang diễn
ra dẫn đến những khó khăn cho trẻ khi đi học. Những khó khăn này có những
biểu hiện khác nhau ở học sinh đầu lớp 1 của các vùng miền khác nhau.
Qua khảo sát thử cũng như quan sát trên học sinh lớp 1, qua phỏng vấn
giáo viên đã và đang dạy lớp 1 ở trường tiểu học Bộc Bố, Pác Nặm, Bắc Kạn,
chúng tôi nhận thấy, học sinh khi đi học lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn tâm lí
và những khó khăn này cản trở hoạt động học tập và sinh hoạt của trẻ trong
nhà trường.
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về học sinh lớp 1
song những khó khăn tâm lí của trẻ ở vùng sâu vùng xa còn ít được nghiên cứu.

2
Đặc biệt là học sinh tiểu học vùng miền núi Đông Bắc - vùng còn có nhiều khó
khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu những khó khăn
tâm lý của trẻ đầu lớp 1 là cần thiết để giúp các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo -
những người làm công tác giáo dục nhận thức được các khó khăn tâm lý của trẻ khi
vào học lớp 1 và có biện pháp thích hợp nhằm khắc phục và hạn chế khó khăn tâm
lí cho trẻ khi đi học đầu lớp 1.
Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài “Khó khăn tâm lí
của học sinh đầu lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố - huyện Pác Nặm - tỉnh Bắc Kạn”.
2. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Khó khăn tâm lí của học sinh đầu lớp 1.
2.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 1 của trường tiểu học Bộc Bố - huyện Pác Nặm – tỉnh Bắc
Kạn.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài phát hiện những khó
khăn tâm lý của trẻ đầu lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố và một số nhân tố dẫn tới
những khó khăn đó. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp
tháo gỡ khó khăn tâm lí cho học sinh lớp 1.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề có liên quan đến khó khăn của học sinh lớp 1: khó
khăn tâm lý, đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 1.
- Tìm hiểu thực trạng khó khăn tâm lý, các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn
tâm lý của trẻ lớp 1 ở trường tiểu học Bộc Bố - huyện Pác Nặm - tỉnh Bắc Kạn.
- Đề xuất một số biện pháp để tháo gỡ khó khăn tâm lý cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học Bộc Bố - huyện Pác Nặm - tỉnh Bắc Kạn.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Do điều kiện thời gian và khuôn khổ đề tài có hạn mà vấn đề khó khăn tâm
lí là một vấn đề lớn. Nên xét về điều kiện của bản thân tôi chỉ tập trung nghiên

3
cứu: khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 trong hoạt động học tập, vui chơi, giao
tiếp, lao động và hoạt động xã hội.
- Chúng tôi chỉ nghiên cứu trên 22 học sinh lớp 1A trường tiểu học Bộc Bố -
huyện Pác Nặm – tỉnh Bắc Kạn và 13 học sinh lớp 1 phân trường Nà Lảy,
trường tiểu học Bộc Bố; 20 giáo viên trường tiểu học Bộc Bố - huyện Pác Nặm
– tỉnh Bắc Kạn.
6. Giả thuyết khoa học
Nhìn chung, học sinh lớp 1 còn gặp nhiều khó khăn tâm lí khi đi học. Mức
độ khó khăn tâm lí không đồng đều nhau theo giới tính, thành phần gia đình, độ
tuổi, môi trường sống. Nếu tìm ra biện pháp khắc phục phù hợp với học sinh thì
sẽ tháo gỡ được khó khăn.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Sưu tầm, phân tích các tài liệu liên quan đến khó khăn tâm lý của học sinh lớp
1 (như sách, báo, tạp chí, khóa luận, luận án) nhằm nắm bắt được nội dung cơ bản
về mặt lí luận của vấn đề nghiên cứu làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng.
7.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát cho phép nghiên cứu các hiện tượng tâm lí trung thực,
khách quan và nghiên cứu tâm lí trong trạng thái tồn tại tự nhiên của nó, đơn giản
về thiết bị và ít tốn kém về kinh phí.
Chúng tôi tiến hành quan sát những biểu hiện về khó khăn tâm lí của học
sinh lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố và phân trường Nà Lảy trong giờ học, giờ ra
chơi và ở nhà.
7.3. Phương pháp điều tra
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu thêm về khó khăn tâm
lí của học sinh lớp 1.
Phiếu điều tra được xây dựng theo quy trình hai bước:
- Bước 1: Xây dựng phiếu khảo sát sơ bộ: chúng tôi tiến hành khảo sát 20
giáo viên trường tiểu học ở huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn bằng phiếu khảo sát

có nội dung gồm các câu hỏi:
4
+ Theo thầy cô, học sinh lớp 1 có gặp khó khăn tâm lí không? Đó là
những khó khăn nào?
+ Nguyên nhân nào dẫn đến những khó khăn đó?
+ Làm thế nào để khắc phục khó khăn tâm lí cho học sinh lớp 1?
- Bước 2: Thiết kế phiếu điều tra chính thức:
Dựa trên kết quả khảo sát, chúng tôi xây dựng phiếu điều tra chính thức.
Nội dung phiếu điều tra gồm 7 vấn đề:
+ Học sinh lớp 1 có khó khăn không?
+ Đó là những khó khăn nào?
+ Biểu hiện của khó khăn đó
+ Yếu tố chủ quan gây nên khó khăn
+ Yếu tố khách quan gây nên khó khăn
+ Ảnh hưởng của khó khăn
+ Biện pháp khắc phục khó khăn
7.4. Phương pháp phỏng vấn
Đây là phương pháp chủ yếu mà chúng tôi đã sử dụng trong quá trình
nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Nhằm tìm hiểu thực trạng khó khăn tâm lí của học
sinh lớp 1.
- Nội dung: Chúng tôi thiết kế một phiếu phỏng vấn gồm 40 câu hỏi chia
thành 2 phần:
+ Phần 1: Những khó khăn
+ Phần 2: Những nguyên nhân
- Cách tiến hành: Tiến hành phỏng vấn trực tiếp từng học sinh trong một
phòng học chỉ gồm người phỏng vấn và người được phỏng vấn nhằm nâng cao
tính khách quan cho kết quả điều tra. Sau đó chúng tôi cho điểm mỗi câu theo
quy định chuẩn sau:
+ Câu trả lời a được 3 điểm: Có khó khăn tương ứng

+ Câu trả lời b được 2 điểm: Có khó khăn tương ứng nhưng không
thường xuyên.
+ Câu trả lời c được 1 điểm: Không có khó khăn tương ứng
5
Sau đó chúng tôi tính tổng số điểm và phân loại theo bảng chuẩn sau:
STT
Mức độ
Khó khăn
Thƣờng
xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao
giờ
SL
%
SL
%
SL
%









7.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng công thức toán học như trung bình cộng, số phần trăm, hệ số tương

quan… để xử lí kết quả nghiên cứu thu được nhằm rút ra các nhận xét khoa học
của đề tài nghiên cứu.
8. Đóng góp của đề tài
- Phát hiện khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 trường tiểu học Bộc Bố - Pác
Nặm - Bắc Kạn.
- Bước đầu tìm ra biện pháp tháo gỡ khó khăn tâm lí của học sinh, góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học.
6
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN
TÂM LÝ CỦA HỌC SINH ĐẦU LỚP 1

1.1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề
Cho đến nay, vấn đề khó khăn tâm lí (KKTL) đã được các nhà nghiên cứu
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều loại khách thể với nhiều lĩnh vực khác nhau. Do
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi không có điều kiện đề cập một cách hệ
thống toàn bộ các công trình nghiên cứu về KKTL. Chúng tôi chỉ trình bày một
cách tổng quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề tài.
1.1.1. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý
Theo hướng này có các công trình tiêu biểu:
- Trong công trình nghiên cứu của G.M.Anctrecva, tác giả đã đề cập đến
những khó khăn tâm lí trong qua trình giao tiếp. Theo tác giả, trong quá trình
giao tiếp, con người bắt gặp một số bức rào cản tâm lí. Những trở ngại tâm lí đó
có thể nảy sinh do sự bất đồng ngôn ngữ, do sự khác biệt về xã hội, chính trị tôn
giáo nghề nghiệp, do những đặc điểm tâm lí cá nhân của những người tham gia
giao tiếp.
Công trình nghiên cứu này của G.M.Anctrecva chủ yếu đi vào lí luận về
khó khăn tâm lí trong lĩnh vực giao tiếp trên khách thể nghiên cứu là người lớn.
- Tác giả V.A.Cancalic trong khi nghiên cứu giao tiếp sư phạm của giáo
viên (GV) cũng đã nêu ra một số trở ngại trong giao tiếp của sinh viên sư phạm
– những người thầy giáo tương lai đó là:

+ Không biết cách dàn xếp, tổ chức một cuộc tiếp xúc
+ Không hiểu lập trường của đối tượng giao tiếp
+ Thụ động trong giao tiếp
+ Có tâm trạng sợ hãi, lo lắng
+ Lúng túng khi điều khiển trạng thái tâm lí của bản thân trong giao tiếp.
+ Không biết cách xây dựng mối quan hệ qua lại và đổi mới quan hệ đó
tùy theo nhiệm vụ sư phạm.
+ Bắt chước máy móc cách ứng xử của giáo viên khác.
7
- Trong bài viết “Những khó khăn tâm lí trong quá trình giải toán của học
sinh tiểu học” của tác giả Nguyễn Minh Hải [7, tr.25], tác giả đã đề cập đến
những nguyên nhân khác nhau đã hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu
học trong đó có những khó khăn về mặt tâm lí.
- Trong khi nghiên cứu về một số trở ngại tâm lí trong giao tiếp của sinh
viên với học sinh khi thực tập tốt nghiệp, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình đã đưa
ra kết luận: trở ngại tâm lí trong giao tiếp là những đặc điểm tâm lí và kiểu hành
vi ứng xử không phù hợp với nội dung, đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Những
trở ngại tâm lí trong giao tiếp được biểu hiện ở 3 mặt: nhận thức, xúc cảm – tình
cảm và hành vi của chủ thể giao tiếp. Bản chất của các trở ngại tâm lí này là sự
không phù hợp giữa những đặc điểm tâm lí cá nhân và kiểu hành vi ứng xử với
nội dung, đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Ở đây, tác giả còn nêu lên những
nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên những trở ngại tâm lí và đề xuất
một số biện pháp để giải quyết trở ngại này.
Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trên đây chủ yếu
nghiên cứu trên khách thể có độ tuổi lớn với đặc trưng tâm lí và hoạt động chủ
đạo khác biệt cơ bản với học sinh lớp 1- những học sinh đang phải đối mặt với
một bước ngoặt trong cuộc đời.
1.1.2. Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
Theo hướng này có các công trình tiêu biểu:
- Bianca Zazzo cùng 12 cộng sự thuộc trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ em

thuộc Đại học Paris đã có công trình nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên
lớp 1 của trẻ em. Theo tác giả thì khó khăn lớn nhất của trẻ khi chuyển từ mẫu
giáo lên lớp 1 là sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để. Một bên là
còn vừa học vừa chơi, hoạt động đa dạng, tính tự do tùy hứng thú cá nhân còn
nặng hơn tính chỉ đạo của cô giáo. Bước sang lớp 1, HS phải tập trung học tập
theo sự chỉ đạo chặt chẽ của GV, chủ trương nguyên tắc của lớp học. Trong
chương trình này tác giả còn nghiên cứu một cách khá toàn diện quá trình thích
ứng của trẻ lớp 1 với hoạt động học tập và sinh hoạt tập thể.
8
- Trong cuốn “Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm” tác giả
A.V.Petrovxki đã đưa ra những biến đổi về mặt sinh lí trong cơ thể trẻ 6 tuổi.
Bên cạnh đó, ông còn đề cập đến những biến đổi về mặt tâm lí khi trẻ bước vào
lớp 1. Ông đã chia những khó khăn tâm lí của trẻ lớp 1 thành 3 loại:
+ Thứ nhất: Trẻ phải làm quen với chế độ học tập mới mẻ.
+ Thứ hai: Trẻ phải đối mặt với những thay đổi về tính chất của các mối
quan hệ: quan hệ với cô giáo, với gia đình và với bạn bè.
+ Thứ ba: Trẻ mất dần đi những hứng thú học tập ban đầu và uể oải, thờ ơ
với việc học. Có thể gọi là sự “vỡ mộng” của trẻ.
Trong tác phẩm này A.V.Petrovxki cũng đã đề cập đến những nguyên nhân
dẫn đến khó khăn, ảnh hưởng của những khó khăn này đến đời sống của trẻ và
đề xuất một số biện pháp để giải quyết khó khăn cho trẻ.
Việc phân tích trên cho thấy các tác phẩm và các công trình nghiên cứu của
nước ngoài về vấn đề khó khăn tâm lí của HS lớp 1 chủ yếu đi vào nghiên cứu lí
luận về khó khăn tâm lí, thực tiễn ít hoặc là chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về
khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập.
Ở Việt Nam, cũng có một số tác giả bàn về vấn đề này thông qua các tác
phẩm, các công trình nghiên cứu của họ.
- Tác giả Nguyễn Thị Nhất trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” cũng đã nêu
lên những khó khăn tâm lí mà trẻ lớp 1 phải vượt qua. Theo tác giả “trong quá
trình lớn lên của trẻ em, có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang giai

đoạn khác, trẻ em đòi hỏi phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách khá
triệt để”[9, tr.4]. “Giữa phương thức học tập ở mẫu giáo và lớp 1 có một sự biến
động đột ngột đối với trẻ em, một bước ngoặt quan trọng đòi hỏi một sự thích
nghi về nhiều mặt không dễ gì vượt qua. Đúng là một cửa ải phân chia hai cuộc
sống khác nhau”[9, tr.14].
- Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, giám đốc trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ
em thì 6 tuổi vào lớp 1, trẻ phải vượt qua một trong những “Nỗi khổ của con
em” chúng ta. Ở đây tác giả đề cập đến một số “nỗi khổ” mà học sinh lớp 1 phải
gánh chịu:
9
+ Phải tuân theo những nguyên tắc của lớp học.
+ Thường xuyên chịu sự kiểm tra, đánh giá của thầy cô, cha, mẹ.
+ Phải đáp ứng được những kì vọng quá sức của cha mẹ.
+ Phải học nhiều, chơi ít.
Qua đây tác giả cũng đã “hiến kế” để tháo gỡ khó khăn cho học sinh lớp 1
như tạo điều kiện vui chơi cho trẻ, tạo nên mối “thân tình” giữa giáo viên và học
trò, tạo hứng thú cho trẻ trong việc học tập, tạo điều kiện kết bạn cho trẻ…
Ở Việt Nam, vấn đề khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1 cũng được chú ý
nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về KKTL của HS lớp 1 ở vùng
sâu vùng xa, đặc biệt là HS lớp 1 đều là người dân tộc. Chính vì vậy chúng tôi
đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài này.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Khó khăn
- Theo từ điển tiếng Việt: Khó khăn nghĩa là có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn.
- Theo từ điển Anh - Việt thì từ “difficult” có nghĩa là khó, khó khăn,
gay go.
- Theo từ điển Pháp – Việt thì từ “difficile” có nghĩa là khó, khó khăn,
gian nan, khổ nhọc.
Như vậy, khó khăn là có nhiều trở ngại, thiếu thốn và sự khắc nghiệt…
đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua.

1.2.2. Khó khăn tâm lí
Khó khăn tâm lí là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lí cần thiết cho hoạt động
của cá nhân gây cản trở cho hoạt động của cá nhân và làm cho hoạt động kém
hiệu quả.
Khó khăn tâm lí là những nét tâm lí của cá nhân, nảy sinh ở chủ thể trong
quá trình hoạt động không phù hợp (gây cản trở) với những yêu cầu đặc trưng
của một hoạt động nhất định, làm ảnh hưởng xấu tới tiến trình và kết quả của
hoạt động đó.
10
Như vậy, khó khăn tâm lí là những khó khăn xuất hiện do các yếu tố
mang tính chất tiêu cực gây nên, làm ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động của
con người.
1.2.3. Khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1
Khó khăn tâm lí của HS đầu lớp 1 là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lí cần
thiết cho hoạt động học tập và sinh hoạt trong nhà trường của học sinh những
ngày đầu đi học tiểu học, gây cản trở cho hoạt động học tập và sinh hoạt của HS
và khiến cho các hoạt động này kém hiệu quả.
1.2.4. Nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lí
Bước vào lớp 1, trẻ gặp rất nhiều khó khăn tâm lí. Những khó khăn này
do nhiều nguyên nhân gây ra, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Sự thay đổi môi trường hoạt động
+ Sự thay đổi các mối quan hệ giao tiếp
+ Sự thay đổi nội dung hoạt động
+ Địa vị xã hội khác nhau
+ Sự chênh lệch về tuổi tác
+ Khác nhau về giới tính
+ Khác biệt về lối sống, ngôn ngữ
+ Khác nhau về mục đích hoạt động

- Nguyên nhân chủ quan
+ Chủ thể không có sự chuẩn bị trước môi trường hoạt động mới
+ Có sự không phù hợp về tính cách của chủ thể
+ Chủ thể chưa sẵn sàng trước môi trường hoạt động mới
+ Do chủ thể gặp khó khăn về mặt sinh lí
1.3. Khó khăn tâm lí của học sinh lớp 1
Giai đoạn lớp 1 là giai đoạn đầy những chông gai và thử thách trong cuộc
đời HS của mỗi con người. Tác giả Maurice Debesse [14, tr.133] đã coi lớp 1 như
là “một trang sử mới của cuộc đời trẻ”. Còn tác giả Nguyễn Thị Nhất [9, tr.14] thì
11
coi đây là “cửa ải phân chia hai cuộc sống khác nhau”. Bác sĩ Nguyễn Khắc
Việt thì gọi những khó khăn của HS lớp 1 là một trong những “nỗi khổ của con
em” chúng ta.
Vậy ở “cửa ải” lớp 1 trẻ gặp phải những khó khăn gì? Những khó khăn đó
biểu hiện ra sao? Nguyên nhân nào gây nên những khó khăn đó? Dưới đây là
quan điểm của một số tác giả về vấn đề này:
- Theo tác giả A.V.Petrovxki thì HS lớp 1 có 3 khó khăn thường gặp nhất :
+ Thứ nhất: Những khó khăn có liên quan tới những đặc điểm của chế độ
học tập mới mẻ. Theo tác giả, vào lớp 1, trẻ phải làm quen với những chế độ học
tập mới như: phải thức dậy đúng giờ, không được bỏ học, phải giữ yên lặng
trong giờ học, phải thực hiện đúng hạn những bài tập về nhà… nếu không làm
quen được với những đòi hỏi mới này trẻ sẽ rất dễ mệt mỏi, kết quả học tập
không cao, vắng mặt trong những giờ quy định trong chế độ học tập…
Theo tác giả, để khắc phục khó khăn này cho trẻ thì cha mẹ và GV cần
phải giải thích rõ ràng và dễ hiểu những yêu cầu mới đối với đời sống của trẻ,
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện những yêu cầu đó của trẻ và có biện pháp
khích lệ và trừng phạt phù hợp.
+ Thứ hai: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ với thầy cô, bạn bè và sự
thay đổi trong quan hệ với gia đình.
Theo A.V.Petrovxki, đối với trẻ lớp 1, dù giáo viên có niềm nở và nhân từ

thì họ cũng vẫn là người dạy dỗ có uy tín và nghiêm khắc, đưa ra những nguyên
tắc nhất định và ngăn chặn mọi lệch lạc vi phạm những nguyên tắc đó. Mặt
khác, GV thường xuyên đánh giá công việc của trẻ. Chính vì vậy, đứng trước
GV trẻ thường rụt rè, ngượng nghịu và đôi lúc mất bình tĩnh.
Một trong những trở ngại của HS lớp 1 là việc kết bạn. Nhiều khi HS lớp
1 bối rối trong môi trường mới, không thể ngay một lúc làm quen được với
những trẻ khác nên các em cảm thấy cô độc.
Theo A.V.Petrovxki, để giải quyết khó khăn này cho trẻ thì người GV
phải lưu ý một số điểm sau:
12
+ Phải tìm hiểu được các đặc điểm cá nhân của từng HS, hiểu những
phẩm chất tâm lí thực sự của chúng.
+ Phải giáo dục cho trẻ lòng tin vào GV, vào những hành động của họ.
+ Phải đối xử công bằng và yêu cầu như nhau đối với mọi HS.
+ Phải ủng hộ tình bạn của những trẻ có chung hứng thú, tình bạn của
những trẻ có điều kiện bên ngoài của cuộc sống giống nhau.
A.V.Petrovxki cho rằng “trong những tháng đầu tiên của trẻ ở trường
mục đích quan trọng của công tác giáo dục là làm cho trẻ cảm thấy lớp học và
sau đó là trường học không phải là một nhóm người xa lạ với nó, mà là một tập
thể thiện ý và chu đáo của những người bạn cùng học, của những người bạn nhỏ
và lớn”[15, tr.89].
Đó là trong nhà trường, trong gia đình vị trí của trẻ cũng có sự thay đổi.
Trẻ có những trách nhiệm và quyền hạn mới. Nhiều gia đình sẵn sàng thỏa mãn
quá đầy đủ những đòi hỏi của trẻ làm cho một số trẻ bắt đầu “chiếm đoạt” vị thế
của mình, đưa mình vào trung tâm. Vì đây là nguồn nảy sinh tính vị kỉ riêng của
trẻ. Một số gia đình khác lại thờ ơ, không quan tâm đến “vai” này của trẻ trong
gia đình, không thỏa mãn được những quyền hạn tối thiểu của trẻ dẫn đến kết
quả là việc học của trẻ đạt kết quả không cao.
+ Thứ 3: Loại khó khăn này nhiều HS lớp 1 bắt đầu gặp phải vào giữa
năm học. Theo A.V.Petrovxki, biểu hiện của khó khăn này là ban đầu trẻ thích

thú, vui vẻ đến trường, sẵn sàng tuân theo mọi quy định, hứng thú tiếp thu tri
thức nhưng đến khoảng giữa năm học, trẻ mất dần đi khát vọng học tập ban đầu.
Nguyên nhân của khó khăn này là do quá trình học tập ở lớp 1 thường
được tổ chức theo cách đưa HS vào thế bị động, phải tiếp thu những tri thức có
sẵn. Do vậy phạm vi tìm tòi trí tuệ của trẻ không nhiều, tính độc lập nhận thức
của trẻ bị hạn chế, hứng thú với bản thân nội dung dạy học được hình thành một
cách yếu ớt. Kết quả là trẻ uể oải, thờ ơ với việc học.
A.V.Petrovxki đã đưa ra biện pháp mà theo ông là đúng đắn nhất để
ngăn ngừa “sự bão hòa” học tập là trong giờ học GV phải đưa ra các nhiệm
13
vụ học tập nhận thức phức tạp đúng mức để trẻ phải suy nghĩ, tìm tòi cách
giải quyết vấn đề.
Qua việc trình bày trên đây, chúng ta thấy Petrovxki đã phân tích khá kĩ
càng KKTL trong hoạt động học của HS lớp 1. Còn khó khăn trong hoạt động
khác của HS lớp 1 thì không thấy tác giả đề cập đến.
- Trong cuốn “6 tuổi vào lớp 1”, tác giả Nguyễn Thị Nhất cũng đã liệt kê
những KKTL của HS lớp 1. Trong đó tác giả đặc biệt chú ý miêu tả những biểu
hiện của những khó khăn đó. Theo tác giả, HS lớp 1 có những khó khăn chủ yếu là:
+ Trẻ phải từ bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tùy
hứng ở mẫu giáo và bước mình vào kỉ luật nghiêm khắc của lớp học phổ thông.
Theo tác giả, “cố gắng ngồi yên cả buổi, tập trung nghe cô giảng, cố gắng điều
khiển con mắt và đôi tay, cố gắng nhớ cho hết những điều phải học tập, cố gắng
thực hiện những thao tác tư duy trừu tượng, học tập quả là gian khổ”[9, tr.10].
Theo tác giả, nguyên nhân của khó khăn này là do yêu cầu đòi hỏi của nhà
trường là các em phải ngồi yên cả tiết, phải tập trung nghe cô giảng bài song khả
năng tự kiềm chế, không cựa quậy đối với trẻ em không phải là một đức tính sẵn
có, nó phụ thuộc vào sự thành thục, chín muồi của hệ thần kinh. Mặt khác, cuộc
sống gia đình không êm ả, hoàn cảnh gia đình khó khăn cũng ảnh hưởng đến sự
tập trung chú ý học tập của trẻ. Theo tác giả, hàng ngày trẻ phải đối mặt với
những thực tế phũ phàng như: gia đình bất hòa, bố mẹ thua lỗ trong buôn bán…

và để thoát khỏi thực tế phũ phàng ấy, trẻ trốn vào thế giới mơ tưởng hoặc cùng
bạn bè đùa nghịch. Vậy là trẻ lại bị kỉ luật.
Theo tác giả, HS lớp 1 có khả năng thích nghi vượt qua gian khổ rất lớn
nếu ta biết khuấy động ở trẻ những tình cảm tích cực. Mặt khác, mỗi GV lớp 1
cần nhận thức được rằng mỗi HS có đặc điểm tâm lí riêng cần quan tâm đặc biệt
đến những đặc điểm riêng đó ở các em.
+ Trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với thầy cô giáo. Ở nhà hay ở lớp mẫu
giáo đôi khi trẻ còn được bố mẹ, cô giáo có những hành động vuốt ve, quan tâm
đặc biệt. Nhưng bước vào lớp 1 là một thế giới hoàn toàn “vô hình”. Ở đây thầy
14
cô không quan tâm riêng đến ai, không hề chăm sóc vuốt ve ai. Kết quả là trẻ
vừa sợ thầy cô, vừa sợ đến trường.
+ Ở lớp 1 trẻ bắt đầu “vỡ mộng”. Bước vào lớp 1, ở trẻ có biết bao cảm
giác hân hoan, tự hào, với sự hồi hộp đón chờ một thế giới đầy hấp dẫn. Nhưng
rồi trẻ được học những điều khác xa với tưởng tượng của các em: Đó là những
chữ cái, vần, rồi dấu hỏi, dấu sắc, số 1, số 2, dấu cộng, dấu trừ… chứ không phải
là những cuộc phiêu lưu đầy kì thú của các nhân vật cổ tích. Và thế là trẻ chán.
Có những em có những biểu hiện như lơ đãng, quấy phá, từ chối đến trường
hoặc có những biểu hiện sinh lí như nhức đầu, đau bụng, nôn ọe.
Qua việc phân tích trên đây cho thấy trong tác phẩm này, tác giả đã tập
trung nêu lên những biểu hiện khó khăn của HS lớp 1 nhưng ít đề cập đến
nguyên nhân cũng như biện pháp để giải quyết khó khăn cho trẻ.
- Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em”, tác giả Nguyễn Khắc Viện cũng
đã đề cập đến những KKTL mà HS lớp 1 gặp phải, đó là:
+ Thử thách đầu tiên đối với trẻ lớp 1 đó là giữ kỉ luật lớp học, là ngồi yên
cả tiết, cả buổi. Biểu hiện là hết giờ học, trẻ ùa ra sân, la ó, chạy tán loạn, xô đẩy
nhau bởi các em đã phải ngồi yên đến tê cả chân.
+ Trẻ phải học một chương trình học quá nặng so với sức của chúng. Thời
gian học chiếm hầu hết thời gian của trẻ. Chúng không được chơi nên lại càng
“thèm” chơi.

+ Trẻ ít được bố mẹ vỗ về, âu yếm hơn trước. Trẻ luôn chịu sự kiểm tra,
đánh giá của bố mẹ. Bố mẹ đặt quá nhiều kì vọng vào con cái, buộc chúng phải
đạt kết quả học tập vượt quá sức của chúng. Nếu trẻ không đạt được như vậy thì
bố mẹ không những không động viên mà còn quay ra la mắng, đánh đập trẻ. Kết
quả là trẻ phải chịu một áp lực rất lớn đối với bố mẹ và càng xa lánh bố mẹ hơn.
+ Cũng như tác giả A.V.Petrovxki và tác giả Nguyễn Thị Nhất, bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện cũng đề cập đến sự “vỡ mộng” của trẻ trong hoạt động học
tập. Điều này được thể hiện ở chỗ: ban đầu trẻ thích thú đến trường, ao ước được
biết đọc, biết viết. Nhưng trẻ thấy việc học thất là gian khổ, nhàm chán. Bố mẹ
15
động viên trẻ là cố học để trở thành bác sĩ, kĩ sư. Nhưng với một em bé 6 tuổi thì
điều đó thật là xa vời và rõ ràng đây không phải là một giải pháp đúng đắn.
+ Học sinh lớp 1 không chỉ gặp khó khăn trong hoạt động học tập mà còn
trong các hoạt động khác. Ví dụ trong hoạt động vui chơi, như trên đã nói, HS
lớp 1 rất “thèm” chơi, nhu cầu vui chơi của các em còn rất lớn, thậm chí chiếm
ưu thế. Vậy mà theo tác giả, đại đa số trẻ phải ngồi yên suốt buổi để học, lâu lâu
mới được bố mẹ cho đi chơi công viên một lần, thỉnh thoảng được đi bơi lội, tập
võ, đá bóng. Hàng ngày nếu có được chơi thì trẻ lại chơi điện tử, thần kinh bị
kích thích nhưng chân tay lại không được vận động. Theo tác giả, đáng thương
nhất là những HS nam hiếu động bẩm sinh, quanh năm bị khiển trách trừng phạt.
Trẻ bị phạt ngồi yên cả buổi, ngồi yên không chịu nổi, lại quấy phá, lại bị phạt,
các em bị đẩy vào một vòng luẩn quẩn không gỡ ra được. Hoặc như trong hoạt
động văn nghệ, theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, trẻ cũng gặp khó khăn. Những
trẻ có năng khiếu thì gia công luyện tập, khi biểu diễn thì nét mặt căng thẳng,
biểu lộ lo âu, sợ làm hỏng, làm sai. Những em khác không được tham gia thì lại
thấy thờ ơ, chán nản vì chẳng liên quan gì đến mình.
Cũng trong cuốn sách này, tác giả Nguyễn Khắc Viện đã đề xuất một số
biện pháp giải quyết “nỗi khổ” cho trẻ như: tạo điều kiện cho trẻ được chơi
nhiều hơn, GV cần thân tình với HS, hiểu được những diễn biến tâm lí đang diễn
ra ở các em, tạo điều kiện kết bạn cho trẻ.

Như vậy, mỗi tác giả đưa ra những KKTL của HS lớp 1 khác nhau nhưng
có thể phân thành các loại như sau:
- Khó khăn thích ứng với cuộc sống nhà trường.
- Khó khăn khi chuyển dạng hoạt động chủ đạo.
- Khó khăn trong giao tiếp
- Khó khăn trong khi tham gia các hoạt động tập thể.
- Khó khăn khi tham gia các hoạt động lao động.
- Khó khăn khi tham gia các hoạt động vui chơi.
Đây chính là cơ sở của việc nghiên cứu thực trạng của đề tài.

16
1.4. Đặc điểm tâm lý của học sinh đầu lớp 1
Sáu tuổi vào lớp 1, trong cơ thể của trẻ diễn ra nhiều sự biến đổi cả về mặt
tâm lý và sinh lý. Theo tác giả A.V.Petrovxki thì những biến đổi về mặt sinh lý
của trẻ 6 tuổi là “diễn ra sự kiện toàn đáng kể trong hệ thống cơ – xương, hoạt
động tim mạch trở nên tương đối ổn định, các quá trình thần kinh hưng phấn và
ức chế cân bằng nhiều hơn. Tất cả điều đó cực kỳ quan trọng vì rằng, khởi đầu
của hoạt động học tập đặc biệt phải đòi hỏi trẻ phải có sức chịu đựng lớn về thể
lực” [15, tr.87]. Có thể nói đây là những cơ sở sinh lí để trẻ sẵn sàng vào lớp 1.
1.4.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1
a. Tri giác
- Tri giác của HS lớp 1 mang tính tổng thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang
tính không chủ động. Mặc dù trẻ em đến trường đã có quá trình tri giác khá phát
triển song tri giác trong hoạt động học tập chỉ diễn ra ở mức nhận biết và gọi tên
hình dạng, màu sắc.
- Tri giác của HS lớp 1 gắn với hành động và hoạt động thực tiễn của trẻ.
Những gì trẻ được sờ mó, cầm nắm trực tiếp thì các em sẽ tri giác tốt hơn.
- Trẻ tri giác về thời gian, không gian còn hạn chế. Trẻ lớp 1 có khuynh
hướng kéo dài thời gian ngắn và rút ngắn thời gian dài. Những thời gian dài như
ngày xưa, thế kỷ… trẻ không tri giác được.

- Tri giác của trẻ em còn mang tính xúc cảm, những đặc điểm, dấu hiệu
của sự vật nào trực tiếp gây cho các em những xúc cảm thì các em tri giác tốt
hơn. Những gì trẻ thích, những gì mới lạ, sống động thì trẻ tri giác tốt hơn
những gì mà các em không thích, những gì cũ kỹ quen thuộc, tĩnh lặng.
- Ở HS lớp 1 hình thành một dạng hoạt động phức tạp hơn so với cảm
giác và sự phân chia những đặc tính riêng biệt của đồ vật – hoạt động quan sát.
Nhờ có hoạt động này mà tri giác của trẻ trở nên có mục đích.
b. Trí nhớ
- Tính không chủ định chiếm ưu thế trong trí nhớ của HS lớp 1. Trẻ không
xác định được mục đích, nội dung, cách thức nhớ. Vì vậy trẻ thường ghi nhớ
những gì mà chúng thích.
17
- Do đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ nhất nên HS 6 tuổi có trí nhớ hình
tượng trực quan tốt hơn trí nhớ logic. Điều này được biểu hiện ở chỗ học sinh
nhớ nhanh và tốt những sự vật, hiện tượng mà các em trực tiếp được nhìn thấy,
sờ mó thấy hơn những sự vật, hiện tượng mà các em được đọc, được mô tả bằng
những lời giải thích dài dòng.
- Khả năng ghi nhớ máy móc ở trẻ lớp 1 tốt hơn khả năng ghi nhớ ý nghĩa
logic. Nguyên nhân là do trẻ chưa nhận ra mục đích, nội dung cần ghi nhớ, vốn
ngôn ngữ của trẻ lại hạn chế do đó việc ghi nhớ từng câu từng chữ dễ dàng hơn
việc sử dụng ngôn ngữ của mình để diễn đạt lại.
- Đối với HS lớp 1, tình cảm ảnh hưởng khá lớn đến tốc độ cũng như độ
bền vững của trí nhớ.
c. Tư duy
- Tư duy của trẻ mới đến trường thường là tư duy cụ thể, mang tính hình
thức bằng cách dựa vào việc phân tích những đặc điểm trực quan, cụ thể của đối
tượng. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Kĩ năng phân biệt và chỉ ra các thuộc tính bản chất của sự vật, hiện
tượng không dễ gì trẻ thực hiện ngay được.
+ Trẻ gặp phải một số khó khăn nhất định khi phải xác định và hiểu mối

quan hệ nhân quả. Từ nguyên nhân trẻ có thể suy ra được kết quả song từ kết
quả trẻ khó hoặc không suy ra được nguyên nhân.
+ Khi phân loại và phân hạng các sự vật, hiện tượng, học sinh lớp 1
thường dựa vào các dấu hiệu bên ngoài như màu sắc, hình dáng, kích thước…
mà chưa biết dựa vào các dấu hiệu bên trong.
+ Trong phán đoán và suy luận trẻ thường chỉ dựa vào những dấu hiệu
duy nhất nên phán đoán của các em mang tính khẳng định. Trong suy luận, các
em thường khó chấp nhận giả thuyết “nếu”.
+ Các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, trừu tượng hoá, khái quát
hoá… được trẻ tiến hành chủ yếu bằng hành động thực tế, bằng việc dựa vào các
dấu hiệu bên ngoài.

18
d. Tưởng tượng
- Tưởng tượng của trẻ lớp 1 chủ yếu là tưởng tượng tái tạo. Những hình
ảnh được tái tại lại gần đúng đối tượng thực nhưng chi tiết trong các hình ảnh
thường nghèo nàn, tản mạn và chưa hợp lý.
- Tưởng tượng của HS lớp 1 còn chủ yếu dựa vào hình ảnh các sự vật,
hiện tượng cụ thể, chưa biết sáng tạo và khái quát trong tưởng tượng.
e. Ngôn ngữ
- Ngôn ngữ của HS tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, từ vựng và
ngữ pháp. Vốn từ của trẻ được tăng lên rõ rệt do học nhiều môn học, giao tiếp
nhiều hơn. Tuy nhiên khả năng hiểu nghĩa từ của HS còn hạn chế.
- Ở HS lớp 1, một loại ngôn ngữ mới dược hình thành tuy nó còn nghèo
nàn hơn ngôn ngữ nói. Đó là ngôn ngữ Việt.
- Kĩ năng đọc của trẻ được hoàn thiện dần. Tuy nhiên, ở HS lớp 1, khả
năng đọc diễn cảm còn hạn chế, đọc hiểu vẫn là điều khó đối với trẻ.
g. Chú ý
- Khi đến trường trẻ em còn chưa có sự chú ý có mục đích. Chúng chủ
yếu chú ý đến những gì mà chúng trực tiếp thấy thú vị, đến cái gì nổi bật nhờ

tính chất rực rỡ và khác thường (chú ý không chủ định).
- Chú ý của HS lớp 1 còn chưa bền vững. Trẻ chỉ có thể duy trì chú ý
trong khoảng 30 đến 35 phút. Sự tập trung chú ý của trẻ chỉ khoảng 10 phút tuy
nhiên còn phụ thuộc vào nhịp độ học tập. Nhịp độ học tập quá nhanh hay quá
chậm, bài học quá dễ hay quá khó đều không gợi được sự chú ý của học sinh.
- Khối lượng chú ý của HS lớp 1 là hẹp, cùng một lúc học sinh không thể
tập trung vào nhiều đối tượng.
- Chú ý có chủ định của HS lớp 1 mặc dù còn yếu nhưng khả năng phát triển
lại rất lớn. Sự phát triển của nó đi đôi với sự phát triển của hoạt động học tập.
1.4.2. Đặc điểm nhân cách của học sinh lớp 1
a) Nhu cầu
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu cần được thoả mãn để con người tồn tại
và phát triển. Đặc điểm về nhu cầu của HS lớp 1:
19
Vào lớp 1 là trẻ phải thực hiện một “bước ngoặt” rất lớn trong cuộc đời
là chuyển từ cuộc sống ở nhà trường mẫu giáo lên cuộc sống của nhà trường
phổ thông. Chính vì vậy ở học sinh lớp 1 vẫn tồn tại những nhu cầu từng là đặc
trưng của tuổi mẫu giáo như nhu cầu vui chơi, vận động, nhu cầu tìm hiểu thế
giới bên ngoài.
Theo nghiên cứu của tác giả Trịnh Quốc Thái về “nhu cầu của học sinh
lớp 1 những ngày đầu đi học” [10, tr.24-25] thì “nhu cầu vui chơi của trẻ vẫn
còn chiếm ưu thế (90%) trong khi nhu cầu nhận thức lại ở vị trí thấp hơn (63%)
trong hệ thống các nhu cầu”. Bên cạnh đó, ở học sinh tiểu học xuất hiện một
loạt những nhu cầu gắn liền với nhu cầu cuộc sống nhà trường như: Nhu cầu
thực hiện chính xác mọi yêu cầu của GV, nhu cầu được điểm tốt, nhu cầu làm
hài lòng thầy cô, nhu cầu trở thành học sinh giỏi.
b. Tính cách
Học sinh lớp 1 có một số tính cách sau:
- Tính xung động trong hành vi của HS lớp 1: Trẻ sẵn sàng hành động
ngay lập tức dưới ảnh hưởng của các kích thích bên trong và bên ngoài. Chính vì

vậy mà hành vi của trẻ lớp 1 thường mang tính tự phát.
- Học sinh lớp 1 rất cả tin: Các em tin vào sách vở, vào người lớn, vào bản
thân mình. Niềm tin này còn cảm tính, chưa có lý trí soi sáng.
- Một nét tính cách khác của HS lớp 1 là các em rất hồn nhiên: hồn nhiên
trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, với người lớn. Các em nghĩ rằng mọi cái đều
dễ dàng và đơn giản, nhìn cuộc sống với thái độ lạc quan,
- Học sinh lớp 1 còn có rất nhiều đức tính tốt như ham hiểu biết, lòng
thương người, vị tha…
- Một đặc điểm nữa cần lưu ý trong tính cách của HS lớp 1 đó là tính bắt
chước. Các em dễ dàng bắt chước người lớn, thầy cô, bạn bè, các nhân vật trong
phim… Đây thực sự là “một con dao hai lưỡi” bởi các em bắt chước cái tốt cũng
lắm mà cái xấu cũng không phải là ít.


20
c. Tự ý thức – tự đánh giá
- Ở học sinh lớp 1 các biểu tượng về bản thân thường không đầy đủ,
không ổn định và dựa theo nhận xét của người ngoài.
- Trong học tập, muốn cho công việc hoàn hảo thì phải thực hiện một kiểu
hành động là hành động kiểm tra. Thoạt đầu, việc kiểm tra thuộc về giáo viên.
Dần dần trẻ tự mình đối chiếu kết quả của những hành động của mình với mẫu,
phát hiện và điều chỉnh những sai lệch. Ở trẻ xuất hiện năng lực tự kiểm tra.
Cùng với việc hình thành sự tự kiểm tra, khả năng tự đánh giá cũng hình thành ở
học sinh. Trẻ thường đánh giá hành vi của mình thông qua các tình huống cụ
thể, đánh giá dựa vào nhận xét của cô giáo.
d. Mối quan hệ liên nhân cách
- Trong quan hệ với bạn bè: Đối với HS lớp 1, mỗi quan hệ giữa các em
phần lớn được giải quyết bởi giáo viên thông qua việc tổ chức các hoạt động cho
trẻ. Ở tuổi này đã hình thành các nhóm bạn trong tập thể HS. Cơ sở để thành lập
nhóm chủ yếu dựa trên các dấu hiệu bề ngoài như ở gần nhà nhau, cùng học mẫu

giáo, ngồi cùng bàn…
- Trong quan hệ với cô giáo: Đối với HS lớp 1, sự mến phục và uy quyền
của giáo viên là tất cả cuộc sống của trẻ và của tập thể lớp. Giáo viên như là chất
kết dính liên kết các học sinh trong tập thể lại với nhau. Mọi HS đều cố gắng
thiết lập được mỗi quan hệ thiện cảm từ phía cô giáo.
Ở học sinh lớp 1, mối quan hệ HS – GV chiếm vị trí chủ đạo song càng
lên lớp lớn mối quan hệ HS – HS lại chiếm ưu thế dần.
e. Đời sống tình cảm
Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý nói chung và
nhân cách nói riêng của HS lớp 1.
Ở HS lớp 1 vẫn tồn tại một loạt những đặc điểm tình cảm đặc trưng của
lứa tuổi mẫu giáo như:
+ Khả năng kiềm chế tình cảm của học sinh còn kém, các phẩm chất của ý
chí còn chưa có khả năng điều khiển và điều chỉnh những cảm xúc của các em.

21
+ Tình cảm của các em dễ nảy sinh nên không bền vững. Các em rất dễ có
cảm xúc với những sự vật, hiện tượng mà mình được tiếp xúc song có cái mới
hơn, lạ hơn thì các em lại có rung động với cái mới, quên hẳn cái cũ.
+ Tình cảm của trẻ mang tính chất cụ thể, trực tiếp. Trẻ dễ dàng này sinh
cảm xúc với những sự vật hiện tượng đẹp, sống động, mới lạ.
Dưới tác động của hoạt động học, đời sống tình cảm của HS lớp 1 phát
triển và thay đổi theo hướng khả năng kiềm chế tình cảm ngày càng tốt hơn và
nội dung đời sống tình cảm ngày càng phong phú.
g. Ý chí và hành động ý chí
Ý chí học sinh tiểu học nói chung và HS lớp 1 nói riêng chịu sự chi
phối rất nhiều của tình cảm. Tình cảm có thể thúc đẩy, thôi thúc ý chí hoặc
kìm hãm ý chí.
- Học sinh lớp 1 chưa tự mình đặt ra được mục đích và lập kế hoạch trong
hoạt động của mình. Vì vậy, trẻ trẻ chưa có khả năng tập trung sức lực để đạt

được mục đích đã định.
- Tính độc lập, kiềm chế và tự chủ ở HS lớp 1 còn kém cho nên các em ít
tự mình giải quyết sự việc mà thường là chờ đợi sự giúp đỡ của người khác.
- Tính bột phát và ngẫu nhiên vẫn còn trong hành động của học sinh.
Đây là một trong những nguyên nhân làm cho HS thường rời bỏ mục đích
chính của mình.
Những phân tích trên cho thấy HS lớp 1 có một số đặc điểm tâm lí giống
như đặc điểm tâm lí ở lúa tuổi mẫu giáo. Bên cạnh đó có đặc điểm đặc trưng
(cấu tạo tâm lí mới) của lứa tuổi như khả năng quan sát, ghi nhớ ý nghĩa. Các
đặc điểm đặc trưng này chỉ được hình thành rõ nét khi người giáo viên giúp trẻ
khắc phục được các khó khăn tâm lí trong hoạt động của nhà trường tiểu học mà
chủ đạo là hoạt động học.
1.4.3. Tâm lí sẵn sàng đi học của trẻ vào lớp 1
Lớp 1 là lớp đầu tiên trong cuộc đời đi học ở trường phổ thông của học
sinh. Xét về mặt tâm lí học, ở đây có sự thay đổi hoạt động chủ đạo của trẻ.

×