Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.31 KB, 96 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin kính gửi lời cám ơn chân thành tới Viện đào tạo sau đại học, các thầy
cô trường Đại Học Kinh tế Quốc dân, các anh chị đã truyền đạt kiến thức, cung cấp tài
liệu cần thiết cùng với những câu trả lời giúp em hoàn thành bài luận văn này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS Nguyễn Như Bình đã trực tiếp
hướng dẫn em hoàn thành bài luận văn.

Và em cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ em trong thời gian
qua.
Luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được
những ý kiến đóng gáp xây dựng của Quý thầy cô và các bạn.
Trân trọng cảm ơn!!!
Học viên: Lưu Văn Sáng
Lớp: CH18L - Khóa 18 - Trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T
TỪ VIẾT TẮT TÊN TIẾNG VIỆT TÊN TIẾNG ANH
A
TIẾNG VIỆT
1 Bộ KH&ĐT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2 Bộ TC Bộ Tài chính
3
Cục QLN&TCĐN
Cục Quản lý nợ và Tài
4 CTMTQG Chương trình mục tiêu quốc gia


5 KTNN Kiểm toán Nhà nước
6 NHNN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
7 NH PTVN
Ngân hàng phát triển Việt Nam
8 NH ĐT&PTVN
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
9 XDCB Xây dựng cơ bản
B TIẾNG ANH
1 ADB Ngân hàng phát triển châu Á
Asian Development Bank
2 FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign direct investment
3 GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross domestic product
4 IMF Quỹ tiền tệ quốc tế International Monetary
Fund
5 ODA Hỗ trợ phát triển chính thức Official development
assistance
6 UNCTAD Hội nghị của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển
United Nations
Conference on Trade and
Development
7 WB Ngân hàng thế giới World Bank
8 WTO Tổ chức thương mại thế giới The World Trade
Organization
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 38
Bảng 2.2 Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế theo tiêu

chuẩn của HIPCs
45
Bảng 2.3 Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs 46
Bảng 2.4 Một số chỉ số đo lường hiệu quả quản lý nợ công của Việt
Nam năm 2004 – 2010 theo mức ngưỡng của HIPCs
47
DANH MỤC HÌNH VẼ
Số hình vẽ Tên hình Trang
Hình 2.1 Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam năm
2001 – 2010
36
Hình 2.2 Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2010 39
Hình 2.3 Chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2001 – 2009 40
Hình 2.4 Tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam năm 2006 – 2010 41
Hình 2.5 Mô hình tổ chức của Kiểm toán Nhà nước 51
Hình 3.1 Tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm
2001 – 2010
76
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu: Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020. Để hiện thực hóa mục tiêu nước ta cần rất nhiều
nguồn lực, trong đó yến tố về vốn có vai trò quyết định. Đảm bảo nguồn vốn trong
quá trình phát triển kinh tế có thể bằng cách vay trong nước hay vay nước ngoài, hình
thành nên những khoản nợ Quốc gia. Nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ được
Chính phủ bảo lãnh và nợ của Chính quyền địa phương, nó góp phần đảm bảo cho
nhu cầu chi tiêu, đầu tư phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển biến
khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008, đầu
năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước châu Âu, nợ

công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các quốc gia
trên thế giới đặc biệt quan tâm.
Nợ công khó kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế
phục hồi rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng hoảng. Bất
kể từ nước giàu có nhất thế giới như Mỹ, hay Nhật Bản cho tới những quốc gia phát
triển ở châu Âu như Đức, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha,… hay Trung Quốc “chủ nợ
lớn nhất của Mỹ và các quốc gia”, tất cả các “đại gia” này đều đang mắc một khoản
nợ công không hề nhỏ. Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không
tránh khỏi tình trạng trên. Trong khi tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu
để dành của quốc gia liên tục giảm thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và
ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ nhưng làm
ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều đó càng khiến nợ
công ở Việt Nam tăng cao và tiến tới mức nguy hiểm
nên cần phải có những cơ chế
chính sách, biện pháp để giám sát và quản lý nợ công tại Việt Nam. Để nâng cao
hiệu quả quản lý nợ công ở Việt Nam cần phải tăng cường vai trò của các cơ quan
có liên quan.
1
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lŒnh vực kiểm tra tài chính
nhà nước, hoạt động nhằm phục vụ việckiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Việc kiểm toán về nợ công ở Việt
Nam góp phần làm minh bạch việc sử dụng nợ công, qua đó sẽ giúp cho việc giám
sát và quản lý nợ công ở Việt Nam hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những quan điểm trên, cần phải xây dựng hệ thống giám sát và
quản lý nợ công tại Việt Nam hiệu quả hơn trong đó có việc nâng cao vai trò của
các cơ quan chức năng có liên quan. Do đó, em chọn đề tài “ Kiểm toán Nhà nước
trong quản lý nợ công ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Kiểm
toán Nhà nước trong quản lý nợ công ở Việt Nam và nghiên cứu vai trò của Kiểm

toán Nhà nước trong quản lý nợ công.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài tập trung vào công tác kiểm toán và quản
lý nợ công tại Việt Nam. Thời gian nghiên cứu thực trạng nợ công và quản lý nợ
công tập trung vào giai đoạn 2001 – 2010, thời gian nghiên cứu thực trạng kiểm toán
nợ công từ 2006- 2010.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tổng hợp cơ sở lý luận về nợ công và phân tích thực
trạng quản lý nợ công tại Việt Nam, phân tích thực trạng kiểm toán nợ công tại Việt
Nam của Kiểm toán Nhà nước trong những năm gần đây. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực của Kiểm toán Nhà nước trong
việc quản lý nợ công tại Việt Nam giúp Chính phủ, Quốc hội quản lý nợ công một
cách hiệu quả, an toàn và bền vững.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dự kiến sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Thu nhập thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau.
2
 Thống kê, tổng hợp những thông tin thu thập được.

Phân tích những thông tin thu thập được. Từ đó đưa ra những kết luận cụ
thể
cho từng vấn đề ở mỗi thời kỳ.

Phương pháp phân tích, mô tả, so sánh phù hợp
mục tiêu nghiên cứu.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
 Chương 1: Lý luận về quản lý nợ công và tầm quan trọng của Kiểm toán nhà
nước trong quản lý nợ công.
 Chương 2: Thực trạng kiểm toán nợ công của Kiểm toán Nhà nước và quản lý
nợ công tại Việt Nam

 Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực, hiệu lực của Kiểm toán Nhà nước
trong quản lý nợ công ở Việt Nam.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỢ CÔNG
3
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
TRONG QUẢN LÝ NỢ CÔNG
1.1. Tầm quan trọng của Kiểm toán Nhà nước đối với quản lý nợ công
1.1.1. Khái niệm, bản chất và phân loại nợ công
* Khái niệm nợ công
Muốn hiểu rõ về khái niệm nợ công, trước hết ta phải tìm hiểu rõ khái niệm
khu vực công. Khu vực công bao gồm khu vực nhà nước (gồm cả trung ương và địa
phương) và doanh nghiệp quốc doanh. Doanh nghiệp quốc doanh là doanh nghiệp
nhà nước chi phối hoặc chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối và do đó thường vì áp lực
chính trị phải chịu trách nhiệm về nợ nần của chúng.
Hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà
Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó.
Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghŒa với các thuật ngữ
như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác với nợ
quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai
bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân. Như vậy, nợ công chỉ là một bộ
phận của nợ quốc gia mà thôi.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghŒa vụ
nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm: (1) nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ,
ban, ngành trung ương; (2) nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) nợ của
Ngân hàng trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên
50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ
hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ
nợ. Cách định nghŒa này cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và
phân tích tài chính của Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD).

4
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm
là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong
đó, nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản
vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của
pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được
Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay
trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là
khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gọi chung là
UBND cấp tỉnh, ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công
có những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản
nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả
khoản nợ ấy.Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực
tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là
người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay, ví
dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương. Gián tiếp là trong trường
hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước
vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc
về cơ quan đứng ra bảo lãnh, ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển
Việt Nam vay vốn nước ngoài.
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm
5

bảo cán cân thanh toán vŒ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được
những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một
cách chặt chẽ còn có ý nghŒa quan trọng về mặt chính trị và xã hội. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý thống
nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ
để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích chung
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích
riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát
từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết
định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
* Bản chất kinh tế của nợ công
Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của kinh tế
học về nợ công sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp
với tình hình kinh tế - xã hội nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng nợ công ở Việt
Nam.
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi
tiêu vượt quá khả năng thu của mình thì phải vay vốn và điều đó làm phát sinh nợ
công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà
nước phải có trách nhiệm hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn
từ quan niệm về việc Nhà nước đi vay là như thế nào.
Trong lŒnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách
nhà nước được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được
ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng
bằng. Theo nghŒa cổ điển, ngân sách thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở
6
đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghŒa kinh tế, điều này giúp Nhà nước tiết kiệm

chi tiêu hoang phí, còn về ý nghŒa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình
trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những
người khởi xướng và ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công.Và
chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc Nhà nước có thể
vay nợ để chi tiêu.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh
giá là có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-
1946) và những người ủng hộ mình gọi là trường phái Keynes lại cho rằng, trong
nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền kinh tế suy thoái dẫn đến việc đầu tư của tư
nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư bằng cách vay tiền tức là cố ý tạo
ra thâm hụt ngân sách và tham gia vào các dự án đầu tư công cộng như đường xá,
cầu cống và trường học, cho đến khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại. Học
thuyết của Keynes cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như
phản đối của một số nhà kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson
được hầu hết các Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ
của nền kinh tế.
Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách
tài khóa nhằm tăng chi tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm
phát trong thời suy thoái vì người dân thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu
nhập thường xuyên chứ không phải thu nhập hiện tại và mọi chính sách đều có độ
trễ nhất định. Thay vì thực hiện chính sách tài khóa thiếu hụt, Nhà nước nên thực
thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Còn Paul Samuelson, đã có những bổ sung quan
trọng trong quan niệm về chính sách tài khóa của Keynes. Ông cho rằng, để kích
thích nền kinh tế vượt qua sự trì trệ, cần thiết phải thực hiện cả chính sách tài khóa
mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt.
7
Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân
sách thăng bằng, nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng
nhắc như quan niệm của các nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn.

Ví dụ, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các khoản chi thường xuyên không
được vượt quá các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; nguồn thu từ vay nợ chỉ để dành
cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay
nợ. Việc vay nợ của Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của
Keynes, nhưng có hai điều chỉnh quan trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách
và bù đắp bằng các khoản vay không được thực hiện vŒnh viễn, bởi lẽ xét về lý
thuyết thì những tác động từ các khoản vay chỉ có ích trong ngắn hạn còn về dài hạn
lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần phải có giới hạn về mặt thời gian
trong việc sử dụng các khoản vay; và hai là, các khoản nợ công phải được kiểm soát
kỹ lưỡng nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế những tác động không
mong muốn từ việc sử dụng các khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp
mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả
nợ đúng hạn.
* Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghŒa khác
nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
 Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại: nợ
trong nước và nợ nước ngoài.
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.Nợ
nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo pháp luật Việt
Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là
toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước.
8
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghŒa quan trọng trong
quản lý nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình
hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài
còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước
ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc

tế khác.
 Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại: nợ công từ thỏa
thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa
thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho
vay.Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm
quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước
ngoài.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời
hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị
trường tài chính.
 Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có
ba loại: nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại
thông thường.
 Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành: nợ công
phải trả và nợ công bảo lãnh.
Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghŒa vụ trả nợ.Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo
lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghŒa vụ
trả nợ.
 Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành: nợ công của trung
ương và nợ công của chính quyền địa phương.
9
Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ
bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là
bên vay nợ và có nghŒa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là
nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa
phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách

trung ương.
1.1.2. Vai trò của nợ công
Như trên đã phân tích, nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng
có một số tác động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng
và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn
vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt
Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghŒa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn
phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất.Với
chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết
để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong
dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc
Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại
hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan
trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng
như muốn hợp tác kinh tế song phương.Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ
10
hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác
động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ
các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công
sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế

giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
1.1.3. Hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công
- Nợ công so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ công so với GDP =
Tổng dư nợ công tại thời
điểm 31/12
x 100
GDP luỹ kế đến 31/12
- Nợ Chính phủ so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế
và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ của Chính phủ so
với GDP
=
Tổng dư nợ của Chính phủ
tại thời điểm 31/12
x 100
GDP luỹ kế đến 31/12
- Nợ vay thương mại nước ngoài của Chính phủ so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so với thu
nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
11
Tỷ lệ nợ vay thương mại
nước ngoài của Chính phủ
so với GDP
=
Tổng dư nợ thương mại
nước ngoài Chính phủ tại

thời điểm 31/12
x 100
GDP luỹ kế đến 31/12
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập của toàn
bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ được Chính phủ
bảo lãnh so với GDP
=
Tổng dư nợ được Chính
phủ bảo lãnh tại thời
điểm 31/12
x 100
GDP luỹ kế đến 31/12
- NghŒa vụ nợ Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước:
+) NghŒa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về để
cân đối ngân sách :
Chỉ số này xác định quy mô nợ của Chính phủ đối với các khoản vay về để
cân đối ngân sách đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng
nguồn thu ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nghŒa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với các
khoản vay về để cân đối
ngân sách so với thu ngân
sách nhà nước
=
NghŒa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với các
khoản vay về để cân đối
ngân sách luỹ kế đến

31/12
x 100
Thu ngân sách nhà
nước luỹ kế đến 31/12
+) NghŒa vụ trả nợ (gốc, lãi, phí) của Chính phủ đối với các khoản vay về cho
vay lại:
Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so
với nguồn thu ngân sách nhà nước.
12
Tỷ lệ nghŒa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với các
khoản vay về cho vay lại so
với thu ngân sách nhà nước
=
NghŒa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với các
khoản cho vay lại luỹ kế
đến 31/12
x 100
Thu ngân sách nhà
nước luỹ kế đến 31/12
- NghŒa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước:
Tỷ lệ này xác định quy mô của nghŒa vụ nợ dự phòng phát sinh từ khoản vay, phát
hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh so với nguồn thu ngân sách nhà nước và
được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nghŒa vụ nợ dự phòng
của Chính phủ so với thu
ngân sách nhà nước
=
NghŒa vụ nợ dự phòng

của Chính phủ
luỹ kế đến 31/12
x 100
Thu ngân sách nhà
nước luỹ kế đến 31/12
- Nợ chính quyền địa phương so với GDP:
Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của tất cả Chính quyền địa phương so với thu nhập
của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
Tỷ lệ nợ của địa phương so
với GDP
=
Tổng dư nợ của tất cả
các địa phương tại thời
điểm 31/12
x 100
GDP luỹ kế đến
31/12
1.1.4. Tầm quan trọng của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý nợ công
Vai trò quan trọng của các cơ quan KTNN là không thể phủ nhận đối với
việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công (nhất là trong bối cảnh thế giới
đã diễn ra những trường hợp khủng hoảng kinh tế do đổ vỡ nợ công) nhưng có thẩm
quyền khác nhau trong việc kiểm toán nợ công ở mỗi quốc gia, do tính chất đặc biệt
13
về mục đích vay nợ cũng như thẩm quyền tiếp cận các thông tin, dữ liệu về nợ
công, quản lý nợ công, nổi bật ở những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, vai trò cơ bản của KTNN trong kiểm toán nợ công là thực hiện xác
nhận tính trung thực của thông tin trên báo cáo vay nợ do các cơ quan quản lý nợ
lập theo định kỳ và đột xuất. Thực hiện vai trò này giúp cho việc cải thiện tính minh
bạch và công khai thông tin về nợ công và công tác quản lý công. Hàng năm, theo
thông lệ, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo tình hình nợ công với cơ quan lập pháp

và giám sát. Để đảm bảo độ tin cậy của thông tin, báo cáo cần được kiểm toán để
xác nhận thông tin được phản ánh trung thực và đầy đủ. Đồng thời, khi có những dư
luận trái chiều về thông tin nợ công, hoặc thông tin về nợ công không đầy đủ (xét
về cơ cấu, tính hiệu quả) qua công bố của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan kiểm
toán với vai trò độc lập sẽ làm rõ về tính đúng đắn của thông tin và tạo sức ép để
việc công khai phản ánh đúng theo thực tế phát sinh.
Thứ hai, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN sẽ cảnh báo, khuyến cáo khả
năng có thể xảy ra rủi ro tài chính quốc gia xét ở tầm vŒ mô và giúp Chính phủ,
Quốc hội có được một bức tranh toàn diện về thu, chi, quản lý và sử dụng các khoản
nợ, đánh giá tính bền vững của các khoản nợ, từ đó có các biện pháp và quyết định
phù hợp. Các khuyến cáo của cơ quan kiểm toán có thể giúp Chính phủ, Quốc hội
và các cơ quan quản lý nợ công điều chỉnh chính sách hoặc đề ra các biện pháp hữu
hiệu, kịp thời can thiệp để điều chỉnh nhằm hạn chế rủi ro (có thể là không phê
chuẩn các khoản vay nợ mới hoặc điều chỉnh phân bổ các khoản vay). Vấn đề quan
trọng là KTNN cần xác nhận số liệu và phân tích tổng mức nợ công, cơ cấu nợ, tỷ lệ
vay nợ nước ngoài theo các tiêu chí thống nhất và đặt bối cảnh quản lý nợ công
hiện hành liên quan đến các chính sách tài khóa - tiền tệ ở niên độ ngân sách hay
trung hạn và dài hạn, tốc độ tăng trưởng, mức độ lạm phát, tỷ giá thay đổi để dự
báo chuẩn hơn về rủi ro bền vững tài chính có thể phát sinh, bởi vì một mức nợ (xét
về tổng thể) cho dù có nhỏ hơn ngưỡng, nhưng vẫn có những cú sốc không dự báo
được (ví dụ: lạm phát có thể cao hay tỷ giá có thay đổi thì có thể làm thay đổi hoàn
toàn dự báo, các khoản nợ ngầm phát sinh không dự báo được ). KTNN có thể
14
đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của Chiến lược nợ quốc gia ở các khía cạnh
như: có bảo đảm đạt được nhu cầu tài chính của Chính phủ, giảm thiểu chi phí vay
mượn, phát triển thị trường chứng khoán, cân bằng rủi ro trong cơ cấu nợ Việc
kiểm toán nợ công do KTNN thực hiện không chỉ đối với hành vi vay nợ, quản lý
nợ của Chính phủ trung ương mà phải bao gồm cả vay nợ của chính quyền địa
phương các cấp. Ngoài ra đối với các khoản vay nợ do Nhà nước bảo lãnh cũng cần
được kiểm toán để đảm bảo an ninh tài chính chung. Trong những trường hợp cụ

thể, KTNN cần thu thập thông tin để đánh giá tính rủi ro của các khoản nợ tiềm ẩn
xét về tổng thể.
Kiểm toán nợ công đưa ra các kiến nghị giúp các nhà quản lý nợ có được các
biện pháp, chính sách quản lý nợ một cách hiệu quả. Những khủng hoảng thị trường
nợ buộc chúng ta phải chú ý đến tầm quan trọng của các biện pháp quản lý nợ phù
hợp và nhu cầu về một thị trường vốn hợp lý và hiệu quả. Cơ cấu đáo hạn và lãi
suất cùng kết cấu tiền tệ trong danh mục nợ công và nghŒa vụ về các công nợ bất
thường lớn có thể góp phần làm cho những khủng hoảng này thêm nghiêm trọng.
Thậm chí trong các tình huống khi có môi trường chính sách kinh tế vŒ mô tốt
nhưng nếu công tác quản lý nợ không hiệu quả cũng làm tăng khả năng tổn thương
của nền kinh tế đối với các cú sốc kinh tế và tài chính. Kiểm toán nợ công đưa ra
các kiến nghị nhằm đảm bảo sự phối hợp giữa các chính sách nợ với các chính sách
tiền tệ và tài chính: Các cơ quan quản lý nợ, các cố vấn chính sách tài chính, và
ngân hàng trung ương phải cùng chia sẻ các mục tiêu, các biện pháp, rủi ro trong
quản lý nợ và các chính sách tài chính - tiền tệ trong sự kết hợp giữa các công cụ
chính sách khác nhau. Kiểm toán nợ công giúp cho việc làm rõ và tăng cường vai
trò, trách nhiệm, mục tiêu và sự thống nhất của các cơ quan chịu trách nhiệm quản
lý nợ, nhất là trách nhiệm giữa Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng
Nhà nước đối với việc tham mưu chính sách quản lý nợ, phát hành trái phiếu, dàn
xếp trên thị trường thứ cấp, tổ chức thanh toán, bù trừ, phân bổ nguồn vốn vay
Thứ ba, KTNN có thể thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền về những
trường hợp bất thường hoặc thâm thủng trong quản lý và sử dụng các khoản nợ
15
công thông qua kiểm toán tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực giúp
cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các khoản nợ công trong từng
trường hợp cụ thể. Việc quản lý, kiểm soát nợ công cần đảm bảo rằng các khoản
vay cần được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả để không xâm lấn lợi ích
của thế hệ sau, không tạo thành gánh nặng nợ cho thế hệ sau. KTNN có thể chỉ ra
thực tế việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay có tuân thủ nguyên tắc quan trọng
này hay không thông qua công bố kết quả kiểm toán.

Trong quản lý nợ, việc quan trọng không chỉ là kiểm soát tổng mức vay, khả
năng trả nợ cũng như các rủi ro xảy ra mà điều quan trọng là kiểm soát mục đích,
tính hiệu quả của việc sử dụng các khoản vay nợ theo cam kết của các hiệp định vay
nợ, sự phê chuẩn của Quốc hội cũng như các quy định của pháp luật. KTNN cần
đưa ra đánh giá về việc sử dụng các khoản vay nợ để các cơ quan hữu quan và dân
chúng biết được việc sử dụng vay nợ thông qua kiểm toán việc tuân thủ pháp luật và
các quy định liên quan đến quản lý nợ công. Cơ quan kiểm toán có thể xác định
mức trả nợ hàng năm và đánh giá việc tạo nguồn và sử dụng quỹ tích lũy trả nợ
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nghŒa vụ nợ các khoản vay nước ngoài của
Chính phủ về cho vay lại hoặc nghŒa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước phát
sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. KTNN có thể thực hiện cuộc kiểm toán
hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của việc quản lý nợ
công đối với từng dự án sử dụng vốn vay cụ thể. KTNN có thể kiểm toán đánh giá
tiến độ giải ngân nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả các khoản vay nợ. Thông qua
việc thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm (hoặc kiểm toán theo yêu cầu của các
nhà tài trợ, các cam kết trong Hiệp định của các Chính phủ ), đặc biệt là các công
trình có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, các công trình sử dụng
nguồn vốn trái phiếu chính phủ, KTNN có thể chỉ ra việc không tuân thủ mục tiêu
vay nợ, phân bổ vốn vay dàn trải và sử dụng vốn không đúng mục đích, không hiệu
quả hoặc giải ngân vốn chậm, cũng có thể là huy động vốn nhiều hơn so với yêu
cầu. KTNN có thể phân tích, đánh giá để kiến nghị điều chỉnh chính sách huy động
vốn hoặc đưa ra các thông tin giúp cho việc phê chuẩn các khoản vay. Bên cạnh đó,
16
hàng năm KTNN sẽ có những ý kiến phân tích về tác động của những khoản nợ mới
để bù đắp trong thâm hụt ngân sách hoặc đầu tư phát triển cho những công trình
trọng điểm quốc gia.
1.2. Nội dung và yêu cầu của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý nợ công
1.2.1. Tổng quan về quản lý nợ công
1.2.1.1. Khái niệm về quản lý nợ công
Về khái niệm, quản lý nợ công được đúc kết từ kinh nghiệm các nước, đó là,

quá trình thiết lập và thực thi chiến lược vay nợ của một quốc gia nhằm gây dựng
được một lượng vốn theo yêu cầu, nhằm đạt được các mục tiêu về chi phí và rủi ro,
đáp ứng được các mục tiêu quản lý nợ khác của Chính phủ đã đề ra. Theo đó,
những yếu tố nền tảng của cơ chế quản lý nợ công là phải xác định được hệ thống
mục tiêu quản lý nợ công; việc quản lý này phải được minh bạch và cơ quan quản
lý chính phải có trách nhiệm giải trình về mức độ nợ và hiệu quả sử dụng các khoản
nợ, cũng như khả năng trả nợ của Chính phủ; xây dựng khuôn khổ thể chế quản lý;
xây dựng chiến lược quản lý nợ; xây dựng khuôn khổ quản lý rủi ro; phát triển và
duy trì một thị trường trái phiếu Chính phủ hiệu quả.
1.2.1.2. Nội dung quản lý nợ công
Trên cơ sở những yếu tố nền tảng của cơ chế quản lý nợ công, theo Điều 4
của Luật Quản lý nợ công năm 2009, thì quản lý nợ công bao gồm những nội dung:
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về thủ tục, quy trình, quản lý các hoạt động vay, trả nợ và quản lý nợ công.
- Xây dựng và ban hành Chiến lược nợ dài hạn, Chương trình quản lý nợ
trung hạn, Kế hoạch vay và trả nợ hàng năm.
- Tổ chức huy động vốn vay, phân bổ và giám sát sử dụng vốn vay đúng mục
đích, có hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghŒa vụ trả nợ.
- Giám sát vŒ mô tình trạng nợ công, quản lý tốt rủi ro tài khoá, đảm bảo an
toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia.
17
- Tổng hợp, báo cáo, công bố thông tin về tình trạng nợ công.
- Tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thi hành pháp luật về quản lý nợ
công.
- Giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nợ công.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện các quy định của
pháp luật về quản lý nợ công.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nợ công
- Hợp tác quốc tế trong lŒnh vực quản lý nợ công.

1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
- Chính phủ sử dụng vốn đầu tư công: Đầu tư xây dựng công trình công
cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng,…Trong quá trình đầu tư công không tránh khỏi tình
trạng lãng phí trong việc sử dụng tiền vay nợ của đầu tư công càng ngày càng đáng
báo động. Nguồn vốn vay thường được đầu tư dàn trải cho nhiều ngành, nhiều địa
phương theo sự đòi hỏi không bao giờ đủ về vốn của họ trở nên mỏng và thiếu, dẫn
đến tình trạng phổ biến ở mọi ngành, mọi nơi là đầu tư dở dang, kéo dài, dự án đầu
tư chậm đưa vào hoạt động, chi phí đầu tư ngày càng tăng dẫn đến chi lớn hơn thu.
- Tỉ giá hối đoái: Chính phủ đi vay có thể được thực hiện thông qua phát
hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu Chính phủ phát
hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể tăng
thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Tuy nhiên trái
phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn)
có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán
khi tỉ giá hối đoái cao dẫn đến nợ công lớn
- Lãi suất được hiểu theo nghŒa chung nhất là giá cả của tín dụng, giá cả của
quan hệ vay mượn hoặc cho thuê hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn dưới hình thức
tiền tệ hoặc dưới dạng thức các tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay trả cho
18
người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Nếu hoạt động
đầu tư kém hiệu quả lãi suất tiền vay tăng ảnh khi đó nợ công tăng lên
1.2.2. Nội dung, yêu cầu của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý nợ công
1.2.2.1. Mục tiêu kiểm toán
Cũng như các cuộc kiểm toán thuộc lŒnh vực ngân sách nhà nước, đầu tư dự
án, doanh nghiệp nhà nước thì kiểm toán nợ công đều có bốn mục tiêu kiểm toán
tổng quát sau: Đánh giá tính đúng đắn, trung thực và hợp lý của các báo cáo vay nợ
do các cơ quan quản lý nợ công lập. Đánh giá sự tuân thủ các quy định pháp luật về
huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ của cơ quan quản lý và sử dụng
nợ công. Đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong huy động, phân bổ, sử
dụng vốn vay và trả nợ, nhằm mục tiêu đảm bảo cho việc quản lý nợ công được tiến

hành một cách hiệu quả, huy động được một lượng vốn theo yêu cầu, đảm bảo các
nhu cầu tài chính và trách nhiệm thanh toán được đáp ứng ở chi phí thấp nhất có
thể; đạt được các mục tiêu về rủi ro và chi phí Đề xuất, kiến nghị với Nhà nước để
bổ sung, sửa đổi những quy định về cơ chế, chính sách liên quan đến việc quản lý
và sử dụng nợ công vì sự ổn định và phát triển lành mạnh của nền tài chính quốc
gia.
Tùy từng cuộc kiểm toán nợ công cụ thể ngoài 4 mục tiêu cơ bản trên, kiểm
toán nợ công còn hướng tới các mục tiêu sau:
Nhằm hạn chế rủi ro tài chính quốc gia: Một mục tiêu quan trọng mà kiểm
toán nợ công hướng tới là hạn chế rủi ro tài chính quốc gia. Trong khuôn khổ kinh
tế vŒ mô, kiểm toán nợ công giúp Nhà nước tìm cách đảm bảo quy mô và tốc độ
tăng nợ bền vững, duy trì khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau,
trong khi vẫn đáp ứng được các mục tiêu về rủi ro và chi phí. Kiểm toán giúp cho
Nhà nước có được một bức tranh tổng thể về tất cả các khoản nợ trong đó có nợ bất
thường.Các khoản nợ này lớn và không có nguồn chi trả đã và đang là yếu tố quan
trọng dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế tại nhiều nước một cách trực tiếp và
gián tiếp. Việc quản lý nợ công một cách cẩn trọng, cùng các chính sách hợp lý về
19
quản lý nợ bất thường có thể làm cho các nước đỡ bị ảnh hưởng do cơ chế lan
truyền và rủi ro tài chính. Kiểm toán nợ công giúp cho việc có được một cơ cấu nợ
tốt xét trên các yếu tố về thời hạn thanh toán, tiền tệ, kết cấu lãi suất.
Đánh giá mục đích sử dụng các khoản nợ công: Thông qua kiểm toán nợ
công, có thể đánh giá một cách tổng thể về mục đích sử dụng các khoản vay nợ. Các
khoản vay nợ có được sử dụng đúng mục đích theo các quy định của pháp luật hiện
hành hay không. Chẳng hạn như quy định hiện hành, việc vay nợ chỉ được sử dụng
cho mục đích đầu tư, không sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Kiểm toán cần khẳng
định rằng các khoản vay nợ đã đúng mục đích theo quy định của pháp luật hiện
hành. Mặt khác với các khoản nợ do Chính phủ hoặc các cơ quan của Chính phủ
bảo lãnh cần được kiểm soát để duy trì khả năng thanh toán để hạn chế rủi ro tài
chính quốc gia trong trường hợp các đơn vị nhận bảo lãnh không đủ khả năng thanh

toán. Qua kiểm toán cần đưa ra các cảnh báo về mục đích sử dụng các khoản vay
nợ, các khoản phát hành bảo lãnh để từ đó Chính phủ, cơ quan lập pháp có những
biện pháp thích ứng và kịp thời nhằm hạn chế rủi ro tài chính Chính phủ và quốc
gia.
Đánh giá khả năng trả nợ và nguồn để trả nợ: Thông qua đánh giá các chỉ số
về vay nợ, quản lý nợ, cơ quan KTNN đưa ra các đánh giá về khả năng thanh toán
của các khoản nợ công bao gồm nợ trực tiếp, các khoản nợ gián tiếp, nghŒa vụ nợ
dự phòng cũng như việc xác định nguồn trả nợ để có hoạch định vay nợ thích hợp
trong trung hạn cũng như trong dài hạn. Chẳng hạn như qua kiểm toán, KTNN đưa
ra cảnh bảo về khả năng trả nợ của các tập đoàn kinh tế nhà nước đối với các khoản
vay về cho vay lại và các khoản bảo lãnh vay nợ của Chính phủ để từ đó các cơ
quan quản lý nợ, Chính phủ, cơ quan lập pháp có những biện pháp thích ứng với
những tình huống cụ thể.
Đánh giá công tác quản lý nợ đồng thời đưa ra các kiến nghị để quản lý tốt
hơn vay nợ: Kiểm toán công tác quản lý nợ công từ khâu xác định chiến lược vay
nợ; chính sách vay, trả nợ; mục đích sử dụng các khoản vay nợ; việc hạch toán và
báo cáo vay nợ. Cơ quan KTNN đưa ra đánh giá một cách độc lập về công tác quản
20
lý vay nợ công, đồng thời đưa ra những cảnh báo về những thiếu hụt trong công tác
quản lý vay nợ và khuyến nghị về cải tiến công tác quản lý vay nợ nhằm duy trì hệ
thống quản lý vay nợ một cách hiệu quả. Những khủng hoảng thị trường nợ trong
những năm gần đây khuyến cáo chúng ta phải chú ý đến tầm quan trọng của các
biện pháp quản lý nợ phù hợp về một thị trường vốn hợp lý và hiệu quả.
Đánh giá tính minh bạch và công khai thông tin về nợ và công tác quản lý nợ
công: Kiểm toán nợ công đảm bảo tính minh bạch và công khai thông tin về nợ và
các chính sách quản lý nợ, các vấn đề quan trọng trong hoạt động quản lý nợ. Các
mục tiêu về quản lý nợ cần phải được xác định rõ ràng và được công bố công khai,
việc áp dụng các biện pháp về chi phí, rủi ro cần phải được giải thích. Việc công
khai hóa một cách thường xuyên về nợ công cho phép Quốc hội, các cơ quan chức
năng, các chủ nợ và các đối tượng quan tâm khác có các thông tin kịp thời để đánh

giá liệu mức độ nợ có giữ ở tầm kiểm soát không, có khả năng trả nợ không và có
thể bảo đảm rằng các vấn đề tiềm ẩn trở nên rõ ràng. Kiểm toán giúp cho Nhà nước,
công chúng và các đối tượng quan tâm có số liệu tin cậy về tình hình quản lý và sử
dụng các khoản nợ công.
1.2.2.2. Nội dung kiểm toán
Nội dung kiểm toán nợ công phải bao gồm toàn bộ việc quản lý nợ, các
nghiệp vụ vay, trả nợ, bảo lãnh vay nợ, cũng như kiểm soát rủi ro phát sinh từ vay
nợ, đánh giá công tác quản lý vay nợ. Kiểm toán nợ công còn bao gồm cả việc đưa
ra các chỉ số đánh giá công tác quản lý, chú ý đến chỉ tiêu nợ trên đầu dân số để
thấy được mức nợ mà mỗi người dân phải chịu trách nhiệm. Nội dung kiểm toán
chủ yếu đối với nợ công bao gồm:
Kiểm toán việc chấp hành pháp luật, chế độ quy định về quản lý nợ công: Cơ
quan KTNN tiến hành kiểm toán mang tính tuân thủ đối với hoạt động quản lý nợ
công từ khâu hoạch định chính sách vay nợ đến các khâu huy động, phân bổ, sử
dụng và trả nợ. Việc kiểm toán cần tập trung kiểm soát các nghiệp vụ vay, bảo lãnh
cũng như trách nhiệm quản lý, thanh toán nợ. Lưu ý đến tỷ lệ vay nợ được Quốc hội
21

×