Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

ứng dụng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) để chẩn đoán bệnh cầu trùng gà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.66 KB, 45 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cầu trùng gà là một bệnh gây ra bởi ký sinh trùng đơn bào (protozoan) thuộc
phân lớp Coccidia, họ Eimeriidae và chi Eimeria [36], lây lan rất nhanh và chủ yếu qua
đường miệng.
Hiện nay, có nhiều loài cầu trùng (Eimeria) gây bệnh trên gà, trong đó
có 7 loài phổ biến nhất: Eimeria tenella, Eimeria necatrix, Eimeria Brunetti, Eimeria
praecox, Eimeria acervulina, Eimeria mitis, và Eimeria maxima [44].
Bệnh cầu trùng đã và đang gây thiệt hại kinh tế lớn nhất trong chăn nuôi
gia cầm tập trung ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Bệnh
gây tổn thương nghiêm trọng và có tỷ lệ chết cao nếu không được điều trị kịp
thời. Williams và cộng sự (1998) báo cáo rằng hàng năm trên thế giới bệnh cầu
trùng gà gây thiệt hại khoảng 800 triệu USD trong đó Mỹ chiếm khoảng 45 triệu
USD [20].
Ở Việt Nam các nhà khoa học sử dụng phương pháp dựa vào hình thái oocyst
cầu trùng, vị trí gây bệnh và bệnh tích cụ thể trên đường tiêu hóa của gà để xác định tỷ
lệ nhiễm cầu trùng và loài gây nhiễm. Tuy nhiên, những phương pháp đó lại có một số
hạn chế như: hình thái Oocyst của các loài cầu trùng hầu hết lại thường rất giống nhau,
một số loài có cùng vị trí gây bệnh trong đường tiêu hóa. Phương pháp PCR đã được sử
dụng rộng rãi để chẩn đoán nhiều bệnh, trong đó có cầu trùng. Đây là một phương pháp
cho kết quả đặc hiệu , chính xác hơn nhiều so với phương pháp phân lập và phân biệt
theo hình thái. Trên cơ sở đó, trong thời gian thực tập chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
với đề tài “ứng dụng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) để chẩn đoán bệnh
cầu trùng gà”.
1.2.
Mục đích của đề tài
Ứng dụng PCR trong chẩn đoán một số loài cầu trùng gây nhiễm ở gà.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
PCR là một kỹ giúp xác định nhanh tác nhân gây bệnh. Ứng dụng PCR sẽ cho
phép chẩn đoán nhanh, chính xác, kịp thời.


1
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
PCR cho phép chẩn đoán chính xác, đặc hiệu, tiết kiệm được nhiều thời gian
và công sức.
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Đặc điểm hình thái và ký sinh của Eimeria ở gà
Hiện nay, theo Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự (2008) đã cho biết có 12
loài cầu trùng thuộc giống Eimeria với các hình thái và kích thước khác nhau
được xác định là có khả năng gây bệnh cầu trùng trên gà. Trong đó có 1 số loài
gây bệnh chủ yếu sau đây [7]:
2.1.1. Eimeria tenella
Các noãn nang của E. tenella có hình ovan, vỏ bọc màu trắng xám hoặc
xanh nhạt, không có lỗ sinh dục (Micropil). Cực của noãn nang có nhân phân
cực. Một noãn nang kích thước từ 14,2 – 31,2 x 9,5 – 24,8 μm. Quá trình tạo
thành bào tử nang ở môi trường bên ngoài kéo dài 24 – 48 giờ. Chúng ký sinh
không những trên bề mặt niêm mạc mà còn thâm nhập sâu vào trong các lớp của
màng dịch thuộc đoạn ruột mù và trực tràng.
2.1.2. Eimeria acervulina
Các noãn nang của E. acervulina có hình quả trứng gà hoặc hình ovan.
Đầu nhỏ của noãn nang có một lỗ sinh dục, đầu to có nhân phân cực. Noãn nang
có vỏ bọc nhẵn. Một noãn nang có kích thước là 17,7 – 20,2 x 13,7 – 16,3 μm.
Oocyst có hai lớp vỏ, không có Micropyle, không có thể cặn. Sporocyst có hình
trứng Stieda, không có thể cặn. Thời gian hình thành bào tử nang ở môi trường
bên ngoài là 24 giờ. E. acervulina kí sinh tại vùng tá tràng và rất ít khi ở ruột
non. Oocyst nằm trong ruột tạo nên những điểm màu trắng hay xám hoặc lan
rộng ở mặt ruột non.
2.1.3. Eimeria maxima
Noãn nang cũng của E. maxima có hình quả trứng hoặc hình ovan. Vỏ bọc
của noãn nang xù xì, màu nâu nhạt. Tại đầu nhỏ của noãn nang có một lỗ sinh

dục và phía dưới là nhân phân hạt. Kích thước của noãn nang là 24,4 – 42,5 x
16,5 – 29,8 μm tức là loại noãn nang lớn. Thời gian hình thành bào tử nang ở
môi trường bên ngoài cơ thể là 48 giờ. Trong cơ thể, chúng ký sinh không
những trong các lớp tế bào biểu bì, bề mặt niêm mạc mà còn trong các lớp sâu
của màng dịch thuộc đoạn tá tràng và đoạn dưới tá tràng.
2.1.4. Eimeria mitis
3
Noãn nang của E. mitis có dạng hình tròn, vỏ bọc không màu, không nhân
phân hạt. Kích thước nhỏ 11,0 – 19,0 x 10 – 17,1 μm. Thời gian hình thành bào
tử nang trong môi trường bên ngoài là 48 giờ. Chủng cầu trùng này ký sinh
trong tá tràng và ruột non dưới tá tràng.
2.1.5. Eimeria necatrix
Phân bố rộng trên thế giới. Giai đoạn sinh sản vô tính thứ nhất và thứ hai
xảy ra ở ruột non, giai đoạn sinh sản vô tính thứ 3, tiền giao tử và giai đoạn sinh
sản giao tử xảy ra ở ruột già.
Noãn nang của E. necatrix có hình ovan hoặc hình tròn và nhân phân hạt,
kích thước nhỏ 13 – 22,7 x 11,3 – 18,3 μm. Vỏ noãn nang cứng và bào tử nang
hình thành trong 48 giờ. E. necatrix ký sinh chủ yếu ở ruột non ngay dưới tá
tràng. Sporocyst hình trứng, có thể Stieda, không có thể cặn.
2.1.6. Eimeria praecox
Loài này phân bố rộng, định vị trên 1/3 phía trên ruột non của gà. Noãn nang
của E. praecox có hình trái xoan, vỏ cứng không màu. Nhân phân cực nằm một
bên cạnh hoặc xen kẽ giữa các nguyên bào tử. Kích thước nhỏ 16,6 – 27,7 x 14,8
– 19,4 μm. Thời gian tạo thành bào tử nang là 24 – 36 giờ. Loài này ký sinh ở đầu
ruột non. Giai đoạn sinh sản xảy ra ở tế bào biểu mô nhung mao ruột thường dọc
theo một phía của nhung mao và ở phía dưới của nhân tế bào, có 3 hoặc 4 quá
trình sinh sản vô tính. Quá trình thứ 2 xảy ra ở 32 giờ sau khi bị nhiễm.
2.1.7. Eimeria hagani
Eimeria hagani là loài có độc lực yếu, nang trứng hình bầu dục không
màu, khối nguyên sinh chất dạng tròn, có nhân ở giữa, không có noãn nang, có

hạt cực nhìn thấy 1 – 2 ngày sau khi sinh bào tử. Kích thước từ 15,8 – 20,5 x
14,3 – 19,5 μm, phát triển nội sinh chủ yếu trong tá tràng.
2.1.8. Eimeria brunetti
Eimeria brunetti là loài cầu trùng có độc lực cao gần như E. tenella. Nang
trứng hình bầu dục không màu, kích thước 20,7 – 30,3 x 18,1 – 24,2 μm. E.
brunetti sinh sản bào tử kết thúc trong vòng 24 giờ, trong nang trứng có một cực
hay một số hạt cực, trong thời kỳ nội sinh phát triển trong ruột già, phần cuối
ruột non cũng như trực tràng, lỗ huyệt cũng có thể bị nhiễm.
2.1.9. Eimeria mivati
4
Nang trứng của Eimeria mivati có hình trứng, hình bầu dục không màu, có
lỗ noãn và hạt cực, kích thước 10,7 – 20 x 10,1 – 15,3 μm. E. mivati sinh sản bào
tử tiến hành trong 18 – 24 giờ. Thời kỳ phát triển nội sinh của cầu trùng gây tổn
thương tế bào biểu bì, nhung mao hay những khe hốc suốt chiều dài ruột non.
2.2. Vòng đời của cầu trùng giống Eimeria
Cầu trùng có vòng đời phát triển rất phức tạp. Tuy nhiên, mỗi một loài cầu
trùng thuộc giống Eimeria có vòng đời phát triển gồm 3 giai đoạn chính. Trong
đó 2 giai đoạn đầu thực hiện trong tế bào biểu mô ruột (Endogenic) của vật chủ
và giai đoạn 3 là ở ngoài cơ thể vật chủ [7].
+ Giai đoạn sinh sản vô tính (Schizogony)
+ Giai đoạn sinh sản hữu tính (Gametogony)
+ Giai đoạn sinh sản bào tử (Sporogony)
Giai doạn sinh sản vô tính (Schyzogonie) [7]
Sau khi các bào tử nang xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa vào tế
bào biểu mô thích hợp. Dưới tác dụng của các enzyme trong đường tiêu hóa làm
cho vỏ noãn nang bị phá hủy, giải phóng các bào tử thể. Các bào tử thể nhanh
chóng xâm nhập vào tế bào biểu bì ruột, thận, mật…Tại đây cùng với sự phân
chia của hạt nhân các noãn nang lớn lên nhanh chóng có hình tròn, hình oval
hoặc hình elip với nhiều nhân gọi là thể phân lập thuộc thế hệ 1 (Schizont 1).
Ở Schizont 1, xung quanh mỗi nhân nguyên sinh chất xuất hiện và bao

quanh để hình thành dạng ký sinh nhỏ, hình bầu dục. Lúc này chúng được gọi là
thể phân lập trung gian (Merozoite). Các Merozoite thế hệ 1 (kích thước 5 x
15µm) sinh trưởng rất nhanh làm tan vỡ tế bào biểu bì của vật chủ (số lượng
Merozoite trong một Schizont thay đổi rất lớn tùy loài dao động từ 8 – 16, có
khi lên tới 120.000 Merozoite). Khi các tế bào biểu bì nơi cư trú bị phá hủy thì
các Merozoite lập tức tấn công sang các tế bào biểu bì mới và quá trình phát
triển này được lập lại như cũ. Đến đây các ký sinh này thuộc thế hệ thứ hai và
được gọi là Schizont 2.
Tuỳ theo các loài cầu trùng và vật chủ có thể hình thành tiếp các thế hệ
Schizont 3 Schizont 4,…một cách ồ ạt theo cấp số nhân kiểu phản ứng dây
chuyền nguyên tử làm cho hàng loạt tế bào biểu bì của vât chủ bị phá vỡ gây tổn
thương nặng nề cho niêm mạc nơi bị nhiễm.
5
Mỗi chủng cầu trùng khác nhau có giai đoạn sinh sản vô tính khác nhau, để
hình thành nên các thể phân lập và số thế hệ phân lập tùy theo loài. Sau khi kết
thúc giai đoạn sinh sản vô tính chúng chuyển sang giai đoạn sinh sản hữu tính.
Giai đoạn sinh sản hữu tính (Gametogonie) [7]
Giai đoạn sinh sản hữu tính bắt đầu phát triển từ thể phân lập thế hệ cuối
cùng của cầu trùng. Sau một đợt sinh sản vô tính (tùy loài cầu trùng), các
Schizont thế hệ 1, 2, 3,…chuyển sang sinh sản hữu tính và bắt đầu tạo ra các thể
Gamet có hình dạng giống Schizont nhưng phát triển hoàn toàn khác. Từ thể
phân lập thế hệ cuối cùng chúng phân chia thành các thể phân đoạn và xâm nhập
vào các tế bào biểu bì ký chủ, biến thành các thể sinh dưỡng. Các thể sinh dưỡng
này lại tiếp tục phát triển tạo nên các giao tử đực (Microgametocyte) và giao tử
cái (Macrogametocyte). Sau đó các tế bào giao tử cái biến thành những tế bào
sinh dục cái lớn, ít hoạt động và có lỗ noãn.
Nhờ hai lông roi, giao tử đực di chuyển đến gặp giao tử cái, chui vào giao
tử cái qua lỗ noãn (Micropyle). Trong giao tử cái diễn ra quá trình đồng hóa
nhân và nguyên sinh chất để tạo thành hợp tử. Hợp tử phân tiết một màng bao
bọc bên ngoài, lúc này nó được gọi là noãn nang (oocyst) có hình bầu dục, hình

tròn hoặc hình trứng hay quả lê. Đến đây các oocyst rơi vào trong lòng ruột và
kết thúc nhanh quá trình sinh sản hữu tính.
Thời gian nội sinh kết thúc, Oocyst theo phân gà ra bên ngoài môi trường.
Thời gian sinh sản hữu tính kéo dài từ 3 – 22 ngày tùy ý vào từng loại cầu trùng.
Bessay (1995) đã nghiên cứu và cho thấy rằng thời gian từ khi gà chứa Oocyst
có sức gây bệnh đến khi gà thải Oocyst trong phân là 4,5 – 5 ngày (đối với loài
E. acervulina, E. mitis), 6,5 ngày với loài E. tenella
Sinh sản bào tử (Sporogonie) [7]
Khi Oocyst theo phân ra ngoài, trong lớp vỏ bọc bên ngoài chứa đầy
nguyên sinh chất. Ở ngoại cảnh, gặp điều kiện thuận lợi như nhiệt độ, độ ẩm chỉ
sau vài giờ trong nguyên sinh chất đã xuất hiện khoảng sáng và bắt đầu phân
chia. Sau 13 – 48 giờ tùy loại, nguyên sinh chất hình thành 4 túi bào tử
(Sporocyst). Trong mỗi túi bào tử, nguyên sinh chất lại phân chia, kéo dài ra tạo
thành 2 bào tử con (Sporozoit). Lúc này, trong Oocyst đã hình thành 8 bào tử
con và trở thành Oocyst có sức gây bệnh. Giai đoạn sinh sản bào tử kết thúc.
Những Oocyst có sức gây bệnh lẫn vào thức ăn, nước uống và được gà nuốt vào
đường tiêu hóa.
6
2.3. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh cầu trùng gà
2.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm cầu trùng ở gà
Ảnh hưởng của khí hậu
Bệnh cầu trùng gà tồn tại rất phổ biến ở các loài gia súc, gia cầm nói chung,
trong đó có gà nói riêng, tuy nhiên tỷ lệ nhiễm cao hay thấp còn phụ thuộc vào
các yếu tố tác động của môi trường sống của chúng: thời tiết khí hậu, điều kiện
chuồng trại, công tác quản lý và chăm sóc nuôi dưỡng, nuôi gà trong lồng và
nuôi trên nền chuồng có tỷ lệ nhiễm cầu trùng khác nhau. Bệnh có ở hầu hết các
nước trên thế giới và hầu như không có đàn gà nào không bị nhiễm một trong
các chủng Eimeria. Bệnh gây nhiều thiệt hại kinh tế cho việc chăn nuôi gà theo
phương thức tập trung và phương thức hộ gia đình. Ở nước ta, bệnh phổ biến từ
khi mô hình nuôi gà công nghiệp và nhập khẩu một số giống gà cao sản, trứng

và thịt từ nước ngoài phát triển.
Môi trường ẩm ướt và nhiệt độ ôn hoà là những điều kiện rất thuận lợi cho
sự phát triển của cầu trùng. Vì vậy, mùa xuân và mùa hè gà bị nhiễm cầu trùng
nhiều và nặng hơn các mùa khác trong năm, việc phòng bệnh cầu trùng cho gà ở
mùa xuân và mùa hè cũng cần chú ý hơn [6], [8], [14]. Dương Công Thuận và
cộng sự (2003) cho biết, ở các vùng khí hậu khác nhau thì tỷ lệ và cường độ
nhiễm cầu trùng có sự khác nhau [14].
Theo Lê Văn Năm và cộng sự (2004), bệnh cầu trùng xảy ra quanh năm
nhưng thường tập trung vào các mùa, tháng nóng ẩm điều kiện rất thuận lợi cho
cầu trùng tồn tại và phát triển ngoài tự nhiên và lây nhiễm cho cả đàn gà. Ở châu
Âu và châu Mỹ bệnh mang tính mùa vụ rõ rệt, thường xảy ra từ tháng 5 – 8. Sau
nhiều năm, ở Việt Nam công tác thú y phục vụ sản xuất và nghiên cứu về bệnh
của các nhà nghiên cứu cho rằng: Bệnh xảy ra quanh năm, mang tính dịch cao,
tỷ lệ gà mắc bệnh đặc biệt lớn vào những tháng mưa ẩm, phương thức truyền
bệnh chủ yếu qua đường miệng [12].
Về sự biến động theo mùa vụ, Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự (2008) sau
khi tập hợp các nghiên cứu của một số tác giả đã rút ra kết luận: Bệnh cầu trùng
gà phân bố không đồng đều qua các năm tháng trong năm. Vào những tháng có
khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều, nhiệt độ thích hợp từ 18 – 35ºC bệnh thường xuất
hiện và dễ bùng phát hơn các tháng khác. Vì vậy, ở nước ta mùa xuân và mùa hè
là hai mùa có tỷ lệ nhiễm cầu trùng cao hơn mùa đông và mùa thu [7].
Ảnh hưởng nguồn bệnh
7
Đại đa số các tác giả đều cho rằng, những con gà đã khỏi bệnh là nguồn
bệnh chính mang cầu trùng. Những con gà này không xuất hiện triệu chứng
hàng ngày, hàng giờ nhưng thường xuyên bài xuất Oocyst cầu trùng qua phân ra
ngoài môi trường. Oocyst được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình
sinh sản bắt đầu đều tạo thành các Oocyst có khả năng gây bệnh.
Ảnh hưởng con đường truyền lây
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự (2008), tiêu hóa là con đường truyền

lây duy nhất mà Oocyst cầu trùng có thể lây nhiễm theo hai cách: lây nhiễm trực
tiếp và lây nhiễm gián tiếp [7].
Lây nhiễm trực tiếp: gà mang bệnh thải cầu trùng ra môi trường bên ngoài
qua phân, do đó Oocyst sẽ dễ dàng được phát tán trên khắp nền chuồng, máng
ăn, máng uống và dụng cụ chăn nuôi. Gà có tập tính hay nhặt, bới và tìm kiếm
những mảnh thức ăn thừa, chất độn ở nền chuồng,…nên dễ nuốt phải Oocyst có
sức gây bệnh.
Lây nhiễm gián tiếp: Một số động vật sống trong chuồng nuôi hoặc xung
quanh có khả năng mang Oocyst cầu trùng như: ruồi, gián, kiến, chuột. Chúng di
chuyển sẽ truyền Oocyst cầu trùng vào thức ăn, nước uống, làm cho gà nhiễm
cầu trùng. Theo Phạm Văn Khuê và cộng sự (1996), cho biết khi ruồi nuốt
Oocyst vào trong đường tiêu hóa. chúng sống và còn khả năng gây bệnh trong
vòng 24 giờ [6]. Ngoài ra, các dụng cụ chăn nuôi, người chăn nuôi, giầy dép,
ủng, phương tiện vận chuyển,…đã mang Oocyst cầu trùng từ bên ngoài vào khu
vực chuồng nuôi.
Nghiên cứu vấn đề này, Kolapxki và cộng sự (1980) cho biết loài gặm nhấm,
côn trùng cũng làm lây lan bệnh rộng. Điều này, Lê Minh (2008) làm sáng tỏ khi
nhóm tác giả này nghiên cứu khả năng mang Oocyst cầu trùng của các động vật
có ở xung quanh chuồng nuôi. Tất cả các động vật nuôi và côn trùng đều có khả
năng mang mầm bệnh trong đó ở kiến là 27,27%, ruồi là 22,22% và gián là
16,67%. Vì vậy tác giả đã sơ bộ kết luận các loài côn trùng như: Gián, chuột, ruồi,
…là tác nhân mang Oocyst cầu trùng từ bên ngoài vào [11].
Ảnh hưởng tuổi của gà
Tuổi của gà là đặc điểm cần chú ý trong đặc điểm dịch tễ của bệnh. Theo
Nguyễn Hữu Hưng (2010) cho biết gà ở tuần thứ nhất không tìm thấy noãn nang
cầu trùng trong phân. Gà ở tuần thứ 2 tỷ lệ nhiễm là 8,06%; gà 3 tuần tuổi là
8
38,78%; ở 4 tuần tuổi thì tỷ lệ nhiễm tăng lên rất cao với tỷ lệ 70,20%; đến 5
tuần tuổi tỷ lệ có giảm xuống 54,09%, và ở tuần thứ 6 là 27,62%. Kết quả đó
cho thấy gà bắt đầu nhiễm từ 2 tuần tuổi, tăng dần theo lứa tuổi, cao nhất ở tuần

thứ 4 và 5, sau đó giảm dần xuống ở tuần thứ 6 [4].
Theo Hồ Thị Thuận (1985), gà nuôi công nghiệp ở một số tỉnh phía Nam
nhiễm cầu trùng chủ yếu ở giai đoạn 3 – 6 tuần tuổi. Hồ Thị Thuận và cộng sự
(1985), Lương Tố Thu và cộng sự (1993), Lê Văn Năm (1995) cho biết, gà
nhiễm cầu trùng nặng nhất ở giai đoạn 20 – 56 ngày tuổi, nếu không được điều
trị kịp thời có thể chết tới 100% [17], [15].
Lương Tấn Phát và cộng sự đã khảo sát tình hình bệnh cầu trùng trên giống
gà Ai Cập và Lương Phượng tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội (2011) đã đưa ra kết
luận rằng bệnh cầu trùng trên giống gà Ai Cập và Lương Phượng có nhiều điểm
tương đồng: tỷ lệ nhiễm bệnh cầu trùng đạt 100% trên cả hai giống, thấp nhất ở
giai đoạn 7 – 15 ngày tuổi sau đó tăng dần và đạt giá trị cao nhất ở giai đoạn 26
– 50 ngày tuổi. Tỷ lệ nhiễm cầu trùng giảm xuống ở giai đoạn 51 – 90 ngày tuổi.
Tỷ lệ chết do bệnh cầu trùng cao nhất ở giai đoạn 7 – 15 ngày tuổi và thấp
nhất ở giai đoạn 51 – 90 ngày tuổi. Gà Ai Cập và Lương Phượng đều bị nhiễm
cầu trùng với cường độ cao ở giai đoạn 7 đến 50 ngày tuổi. Ở giai đoạn 51 – 90
ngày tuổi, cường độ nhiễm đạt tỷ lệ cao nhất [13].
Braunius và cộng sự (2010) đã nghiên cứu về dịch tễ của Eimeria ở trên
đàn gà thịt cho kết quả lượng oocyst của E. acervulina cao nhất vào 4 – 6 tuổi,
còn E. maxima là 5 – 7 tuần tuổi.
Ảnh hưởng điều kiện chuồng trại và vệ sinh thú y
Chuồng trại chăn nuôi là yếu tố quan trọng liên quan đến dịch tễ bệnh cầu
trùng gà. Gà nuôi trong lồng và nuôi trên nền chuồng có tỷ lệ nhiễm cầu trùng
khác nhau. Chẳn hạn, theo Hoàng Thạch và cộng sự (1999) đã khảo sát các mẫu
thu thập từ dụng cụ chăn nuôi, kết quả cho thấy có 11,20% số mẫu phát hiện có
Oocyst, trong đó ủng bảo hộ của công nhân chăn nuôi nhiễm 5,60%, nhiều dụng
cụ khác sử dụng để chăn nuôi gà cũng có khả năng mang và truyền Oocyst cầu
trùng từ gà bệnh sang gà khoẻ [16]. Trong khi đó, Morgot và cộng sự (2000) đã
nghiên cứu và cho thấy ở những cơ sở chăn nuôi có điều kiện chăm sóc tốt, vệ
sinh chuồng trại nghiêm ngặt thì tỷ lệ nhiễm cầu trùng 5 – 10%, còn ở những cơ
sở chăn nuôi có điều kiện không đảm bảo thì tỷ lệ nhiễm cầu trùng là 30 – 60%

[7]. Đối với Phạm Sỹ Lăng và cộng sự (2004) cho biết, điều kiện chuồng nuôi
và môi trường chăn nuôi bị ô nhiễm sẽ làm cho Oocyst cầu trùng tồn tại và lưu
9
hành lâu dài. Chuồng trại chật chội, ẩm ướt, chất độn chuồng để quá lâu, không
được thay đúng định kỳ, bãi chăn thả bị ô nhiễm mầm bệnh là yếu tố quan trọng
gây nhiễm cầu trùng cho đàn gà với tỷ lệ cao [9].
Nguyễn Hữu Hưng (2010), cho biết gà nuôi theo kiểu chuồng hở có tỷ lệ
nhiễm cầu trùng (41,64%), cao hơn rất nhiều so với kiểu chuồng kín (30,63%)
(kết quả này khi so sánh với các kiểu chuồng khác cũng cho kết quả tương tự).
Điều này cho thấy với phương thức chăn nuôi kiểu chuồng kín đã hạn chế tỷ lệ
nhiễm bệnh noãn nang cầu trùng so với đàn gà thịt nuôi theo kiểu chuồng hở [4].
Quraishy và cộng sự (2009) đã nghiên cứu về tình hình nhiễm E. tenella
trên đàn gà thịt ở thành phố Riyadh, Ả Rập Xê Út cho thấy tỷ lệ nhiễm cầu trùng
ở gà nhà là 80% và không lây nhiễm đối với các báo cáo được lấy từ gà nuôi
trong trang trại [41]. Trong thực tế, công tác quản lý kém có thể dẫn đến tỷ lệ
nhiễm cao như vậy (Nematollahi và cộng sự, 2008).
2.4. Đặc điểm bệnh lý và triệu chứng lâm sàng của bệnh cầu trùng gà.
Đối với gà bệnh thường xảy ra ở những đàn gà nằm trong độ tuổi 10 – 90
ngày tuổi. Nhưng nặng nhất là ở gà con từ 18 – 45 ngày tuổi. Thời gian ủ bệnh
ngắn: 4 – 7 ngày, phụ thuộc vào chủng cầu trùng, nơi khu trú và mức độ nhiễm
bệnh, số lượng căn bệnh xâm nhập vào cơ thể và tình trạng sức khỏe chung của
đàn gà. Diễn biến của bệnh gắn liền với quá trình sinh sản nội sinh của cầu
trùng. Bệnh biểu hiện ở 3 thể: cấp tính, mãn tính và mang trùng [26].
2.4.1. Thể cấp tính
Bệnh chủ yếu xảy ra ở gà con. Thời gian phát bệnh nhanh, những triệu
chứng lâm sàng điển hình là: Gà ủ rũ, lười đi lại, nằm hoặc đứng một chỗ.
Eimeria ký sinh và phát triển trong tế bào biểu mô đường ruột, gây tổn
thương mô và làm thay đổi chức năng đường ruột [46], [24], [38]. Theo các tác
giả này thì bệnh cầu trùng có thể được đặc trưng bởi những triệu chứng như:
chán ăn, xù lông, tụm thành đống, tử vong, tiêu chảy, phân có máu, giảm tăng

trọng và giảm chuyển hóa thức ăn. Giai đoạn mới phát bệnh gà ỉa khó, có biểu
hiện táo bón, sau đó thì gà ỉa chảy toàn nước. Phân sống lúc đầu có chất nhầy
màu nâu vàng, sau chuyển thành nâu sáp, cuối cùng có lẫn máu [24], [38], [37].
Đặc biệt, đối với gà nhiễm loài E. tenella thì xuất hiện triệu chứng hậu môn
chảy ra máu tươi, lông xung quanh lỗ huyệt lấm bẩn phân và máu, đôi khi còn
quan sát thấy các biểu hiện triệu chứng thần kinh như liệt và bán liệt chân hoặc
cánh, nằm tụ lại một góc chuồng kêu khác lạ nhưng lại rất đặc trưng. Thể cấp
10
tính xảy ra rất nhanh chóng và chỉ kéo dài 2 – 3 ngày, gà bị chết sau 7 – 8 ngày
nếu không có sự điều trị kịp thời. Gà chết do cầu trùng thể cấp có thể chiếm tỷ lệ
lên tới 90 – 95 %, thậm chí 100% nếu không điều trị.
2.4.1. Thể mãn tính
Bệnh thường quan sát thấy ở gà lớn tuổi hơn từ 45 – 90 ngày tuổi. Triệu
chứng bệnh như được mô tả ở thể cấp tính nhưng mức độ biểu hiện nhẹ hơn,
thời gian ốm kéo dài hơn, 7 – 15 ngày tỷ lệ chết thấy khoảng 25 – 40 %.
2.4.3. Thể không có triệu chứng lâm sàng
Gà lớn trưởng thành có mang mầm bệnh. Khi quan sát bề ngoài gà hoàn
toàn khỏe mạnh, ăn uống, đi lại bình thường. Triệu chứng lâm sàng duy nhất là
đôi khi gà bị ỉa chảy, tỷ lệ đẻ không đều, năng suất trứng giảm 15 – 25 %. Xét
nghiệm phân gà thấy có rất nhiều noãn nang cầu trùng.
2.5. Bệnh tích
Gà bị bệnh cầu trùng thường có bệnh tích như mào, yếm, tích, kết mạc
trắng bệch. Trường hợp gà bị cầu trùng cấp tính do E. tenella hoặc bị ghép với
E. coli chủng bại huyết thì gà bệnh ỉa máu tươi hoàn toàn, xác gà chết còn béo
tốt, thịt trắng.
Gà bệnh cầu trùng dù ở thể cấp tính hay mãn tính thì các bệnh tích cũng tập
trung chủ yếu ở đường ruột. Điều đặc biệt cần chú ý là vị trí các đoạn ruột và
mức độ tổn thương của niêm mạc các đoạn ruột đó khác nhau tùy theo từng loại
cầu trùng, tùy theo độ tuổi gà và tùy theo mức độ nhiễm cầu trùng gà. Bệnh tích
chủ yếu có ở 3 vị trí là: manh tràng, ruột non, trực tràng.

Theo Nguyễn Hữu Hưng và cộng sự (2010), bệnh tích đại thể của gà bị mắc
bệnh cầu trùng: manh tràng sưng to, căng mọng, thành manh tràng dãn ra, niêm
mạc manh tràng xuất huyết và chứa phân dạng sáp, lớp niêm mạc bị phá hủy,
vách manh tràng mỏng. Phần đầu ruột non có sự xuất huyết ở lớp niêm mạc, bên
trong chứa nhiều chất lỏng, dịch màu hồng, đoạn giữa căng phồng lên [4]. Trong
khi đó, Lương Tấn Phát và cộng sự (2011) nghiên cứu bệnh cầu trùng trên
giống gà Ai Cập và Lương Phượng cho thấy tỷ lệ biểu hiện bệnh tích ở manh
tràng cao nhất trên cả hai giống gà (77,78% ở giống gà Ai Cập và 63,63% ở
giống gà Lương Phượng), tỷ lệ biểu hiện bệnh tích ở trực tràng thấp nhất (3,47%
11
và 6,36% tương ứng) [13]. Mỗi loài cầu trùng thường ký sinh ở một đoạn ruột
và gây bệnh tích tại đó. Cầu trùng gây phá hủy niêm mạc ruột dẫn đến xuất
huyết, thành ruột chỗ dày chỗ mỏng, chất chứa trong ruột có lẫn máu [9].
2.6. Cơ chế sinh bệnh của bệnh cầu trùng
Diễn biến của bệnh gắn liền với quá trình sinh sản nội sinh của cầu trùng.
Nghiên cứu về vấn đề này, Williams và cộng sự (1996) đã theo dõi tác động
gây bệnh của cầu trùng cho thấy rằng: sau khi gà nhiễm E. tenella 3 ngày, niêm
mạc manh tràng đã phù nề, xung huyết. Nhóm tác giả cho biết, ngày thứ nhất
sau khi nhiễm, trong ruột chứa nhiều bào tử con (Sporozoites) được giải phóng
ra từ Oocyst gây bệnh. Các Sporozoites xâm nhập tế bào biểu mô ruột, lập tức
sinh sản vô tính nhiều đợt, tạo ra các Schizont thế hệ I, từ đó tạo ra vô số
Merozoites. Ngày thứ 2, các Merozoites lại tiếp tục xâm nhập tế bào biểu mô
ruột lành, quá trình sinh sản vô tính tạo ra các Schizont thế hệ II, từ đó tạo ra
hàng loạt các Merozoites thế hệ tiếp theo. Merozoites thế hệ cuối cùng của quá
trình sinh sản vô tính sau vài ngày sẽ phát triển trong tế bào biểu mô tạo thành
các Schizont và biệt hoá thành các tiểu phối tử (Microgamete) và các đại phối tử
(Macrogamete). Tiểu phối tử và đại phối tử giải phóng ra khỏi tế bào biểu mô sẽ
kết hợp với nhau thành hợp tử [46].
Quá trình sinh sản vô tính và hữu tính trong tế bào biểu mô ruột thoạt đầu
gây hiện tượng xung huyết, sau đó là hoại tử và xuất huyết niêm mạc ruột. Sự

phá vỡ hàng loạt tế bào niêm mạc ruột gây xuất huyết lan tràn, tế bào biểu mô
bong ra. Ở các giai đoạn phát triển tiếp theo, cấu trùng xâm nhập sâu vào vách
ruột gây hoại tử, xuất huyết cả lớp tế bào hạ niêm mạc và tuyến ruột. Đến ngày
thứ 6 bắt đầu thấy xuất hiện Oocyst trong phân [33], [46].
Bào tử của oocyst chứa bốn sporocysts và mỗi sporocyst chứa hai
sporozoites. Sự cảm nhiễm xảy ra thông qua đường phân– miệng và gà trở nên
bị cảm nhiễm khi ăn uống phải một hoặc nhiều bào tử oocyst từ môi trường. Vỏ
của oocyst được phá vỡ trong dạ dày cơ và sporozoites được giải phóng từ
sporocysts trong ruột non dưới tác dụng của chymotrypsin và muối mật sau đó
xâm nhập vào tế bào biểu mô [34], [44].
Mặt khác cũng do sự phá hủy hàng loạt các tế bào đã gây ra những ổ hoại
tử lớn cho các niêm mạc, làm nhiều đoạn ruột không tham gia vào quá trình tiêu
hóa. Con vật thiếu máu trầm trọng, protein tổng số của huyết thanh và đường
huyết giảm. Một số enzym giảm hoạt tính, nhất là hoạt tính photphataza kiềm ở
12
niêm mạc ruột, do đó gà mắc bệnh cầu trùng sẽ rối loạn quá trình hấp thụ các
acid amin, giảm tăng trưởng và phát triển của gà.
Một chức năng có ý nghĩa quan trọng to lớn trong quá trình sinh bệnh cầu
trùng đó là rối loạn quá trình trao đổi nước. Nguyên nhân chính là do các thể cầu
trùng và hệ vi khuẩn có trong đường ruột xâm nhập tấn công các tế bào niêm
mạc ruột, dẫn đến tiêu chảy. Quá trình viêm càng tăng dịch tiết càng nhiều, mất
cân bằng nước trầm trọng. Biểu hiện lâm sàng là gà rất khát nước, nếu mất 10 –
15% nước trong cơ thể gà sẽ chết. Khi gà bị cầu trùng, cả hệ thống thần kinh
trung ương cũng bị tác động. Gà có triệu chứng mệt mỏi, liệt nhẹ hai cánh và
chân, vận động loạng choạng mất thăng bằng.
Lê Văn Năm (2004), E. coli gây bại huyết luôn là bạn đồng hành của cầu
trùng. Trong đó cầu trùng đóng vai trò quyết định, E. coli đóng vai trò thúc đẩy.
Trường hợp gà bị cầu trùng, nhất là cầu trùng cấp tính thì 100% số đàn bị bệnh
đều bị bội nhiễm với E. coli bại huyết. Cơ chế sinh bệnh trong trường hợp này
được giải thích là: Do tác động của cầu trùng làm phá vỡ cấu trúc niêm mạc ruột

gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột xuất huyết, chức năng hấp thu của ruột bị ảnh
hưởng, nhu động ruột cũng thay đổi… Tất cả những hiện tượng trên đều dẫn tới
phá vỡ cân bằng sinh học, làm cho các chủng E. coli có lợi bị tiêu diệt, các
chủng E. coli có hại sinh sản nhanh và thâm nhập ồ ạt vào đường máu qua các
vùng niêm mạc bị tổn thương do cầu trùng gây nên làm gà bị nhiễm trùng huyết
cấp tính [12].
Khoa học đã chứng minh rằng: chỉ cần một noãn nang cầu trùng xâm nhập
vào một tế bào biểu bì thì sau thời gian 2 tuần chúng đã sinh sôi nảy nở lên tới
hàng triệu và do vậy có hàng triệu tế bào mới của ký chủ bị hủy hoại. Trên thực
tế mỗi lần vật chủ bị nhiễm bệnh đâu có phải bị nhiễm bởi 1 bào tử nang, mà
thông thường có tới hàng trăm, hàng ngàn bào tử nang xâm nhập cùng một lúc
với tốc độ sinh sản phân chia nhanh như đã mô tả ở trên thì biết bao nhiêu triệu
tế bào biểu bì bị phá vỡ, bị triệt tiêu.
2.7. Chẩn đoán bệnh cầu trùng.
Joyner và cộng sự (1974), chẩn đoán bệnh cầu trùng gà và sự khác biệt giữa
các loài thường dựa vào các dấu hiệu lâm sàng trong cơ thể và đặc tính sinh học
của loài đó. Sau này bao gồm thời gian ủ bệnh, vị trí kí sinh trong ruột, hình thái
kén hợp tử trong phân, niêm mạc trong ruột non và manh tràng [28].
13
Chẩn đoán theo dịch tễ: Gà bị ốm thường sau 10 – 14 ngày tuổi và bệnh
nặng nhất từ 18 – 45 ngày tuổi, từ 45 – 90 ngày luôn ở thể mãn tính, sau 90
ngày là thể mang trùng.
Chẩn đoán theo triệu chứng lâm sàng: Bệnh với những triệu chứng lâm sàng
điển hình như đã nêu ở trên cho phép chúng ta có cơ sở nghi đó là bệnh cầu trùng.
Xét nghiệm phân: Phương pháp xét nghiệm phân chủ yếu nhằm mục đích
khẳng định bệnh và phân loại cầu trùng. Thông thường 7 – 9 ngày sau khi
nhiễm bệnh hầu như không thể phát hiện noãn nang cầu trùng trong phân, do đó
chẩn đoán bệnh phải lấy ngay niêm mạc hoặc vật chất tại các vùng có biến đổi
để xem xét sự có mặt của thể phân lập (Schizont thế hệ 1 hoặc 2) hoặc nguyên
bào trung gian (Merozoites). Phương pháp dùng để xét nghiệm phân phổ biến

nhất vẫn là phương pháp Fulerbor và Darling.
Kiểm tra phần bệnh tích: Zander và cộng sự (1991), sử dụng phương pháp
mổ khám để kiểm tra bệnh tích. Phương pháp này là mổ để lộ ổ bụng [50]. Sau
khi ổ bụng được mở, kéo phần ruột thẳng ra để kiểm tra toàn bộ chiều dài của
nó. Quan sát hình thái bên ngoài của ruột, có thể có một số thay đổi như bị xuất
huyết, có thể chuyển từ màu đỏ sang màu nâu hoặc trắng, bị sưng. Nguyên nhân
gây xuất huyết và sưng có thể do E. acervulina, E. necatrix, hoặc E. maxima.
Nếu dùng kéo để cắt phần ruột ra, có thể nhận thấy thành ruột dày lên, xuất
huyết, tụ huyết, cạo phần sinh khối trong ruột sau đó hòa thêm nước muối sinh
lý để kiểm tra qua kính hiển vi.
Donal và cộng sự (2007), cho biết rằng để xác định sự khác biệt của mỗi
loài cầu trùng thì dựa vào các đặc điểm sau [26]:
- Phần ruột mà loài đó ký sinh
- Tất cả những tổn thương xuất hiện trên cơ thể
- Hình thái của Oocyst
- Thời gian tối thiểu để hình thành Oocyst
- Thời gian ủ bệnh tối thiểu
- Schizont và vị trí phát triển của nó
- Vị trí ký sinh trong biểu mô ruột
Chẩn đoán ở cấp độ phân tử
PCR là phương pháp đã được phát triển sử dụng để phân biệt các loài cầu
trùng. Chẳng hạn, Stucki và cộng sự, (1993 sử dụng phương pháp PCR để xác
14
định tiểu đơn vị 5S rRNA. Tsuji và cộng sự (1997) sử dụng phương pháp PCR
để xác định tiểu đơn vị nhỏ của rRNA, Schnitzler và cộng sự, (1998), (1999) sử
dụng phương pháp PCR để xác định vùng ITS – 1, trong khi đó Woods và cộng
sự (2000) sử dụng phương pháp PCR đê xác định vùng ITS – 2 [39].
2.8. Phòng và trị bệnh cầu trùng
2.8.1. Vệ sinh thú y
Vệ sinh thú y là việc làm thường xuyên và đóng vai trò hết sức quan trọng

trong chăn nuôi và phòng dịch bệnh. Hiện nay ở những nước tiên tiến, người ta
đã làm rất tốt công tác vệ sinh phòng bệnh (vệ sinh chuồng trại, thức ăn, nước
uống, dụng cụ chăn nuôi) nên hạn chế được việc dùng thuốc và vaccine trong
chăn nuôi gà.
Ở nước ta, ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng đã có
nhiều tiến triển nổi bật như: việc thực hiện quy trình chăn nuôi nghiêm ngặt hơn,
vấn đề vệ sinh thú y cũng tốt hơn rất nhiều so với cách đây một vài thập kỷ. Tuy
nhiên, với đặc điểm thời tiết khí hậu của nước ta, cùng với tình trạng kháng
thuốc của ký sinh trùng nói chung và cầu trùng nói riêng dẫn đến khả năng biến
đổi thích nghi của chúng cũng rất lớn. Mặt khác, vấn đề vệ sinh thú y thực hiện
chưa đồng bộ ở tất cả các cơ sở nuôi tập trung và hộ gia đình chăn nuôi gia cầm,
đây chính là nguyên nhân làm cho bệnh cầu trùng vẫn là một trong những bệnh
gây thiệt hại lớn nhất cho chăn nuôi gà, đặc biệt là nuôi gà theo phương thức
công nghiệp, hộ gia đình và gà mới nhập nội [7].
2.8.2. Phòng và trị bệnh bằng hóa dược
Phòng và trị bệnh cầu trùng bằng hóa dược là phương pháp kinh điển và
hiệu quả trong ngành chăn nuôi. Trong đó, chăn nuôi gia cầm tập trung hiện nay
phần lớn vẫn còn phụ thuộc vào phương thức điều trị dự phòng này để kiểm soát
bệnh cầu trùng [23], [19]. Kể từ cuối những năm 1940, điều trị dự phòng bằng
thuốc kháng sinh hòa trộn cùng với thức ăn là biện pháp kiểm soát chính để
chống lại bệnh cầu trùng. Tuy nhiên, phương pháp này dẫn đến xuất hiện hiện
tượng kháng thuốc ở hầu hết các loài cầu trùng [38], [43].
2.8.3. Những hóa dược đã và đang được sử dụng phòng trị cầu trùng gồm:
Các sulfamid
Sulfamid được sử dụng phổ biến nhất là: sulfadimedine, Sulfadimethoxin,
Sulfachlozine, Sulfachlopyridadine, Sulfathiazole… Cơ chế tác dụng của
sulfadmid là ức chế sự phát triển của vi sinh vật nói chung và cầu trùng nói riêng
15
bằng cách cạnh tranh với PABA (para aminobenzoic acid), ngăn cản sự tổng
hợp acid folic, cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cầu trùng. Tuy

nhiên, hiện nay nhóm Sulfamid vẫn được dùng khá phổ biến, song cũng có quan
điểm cho rằng, nếu dùng đơn lẻ Sulfamid thì không tốt cho gia cầm, nhất là gà
đẻ và người sử dụng sản phẩm [7].
Nhóm hóa dược làm tăng cường hiệu lực của Sulfamid
Một số chất có tác dụng làm tăng cường hiệu lực của Sulfamid như:
Diavedrine, Pyrimethamine…
Trước hết, Sulfamid cạnh tranh với PABA, làm cho cầu trùng không tổng
hợp được acid folic. Sau đó, các hóa dược trên phát huy tác dụng, làm tác dụng
của Sulfamid tăng cường và kéo dài hơn. Trong đó, tác dụng của Sulfamid và
chất tăng cường là tác dụng hiệp đồng, có giá trị đối với các vi sinh vật đã quen
và kháng thuốc. Ngoài ra, chất tăng cường còn làm cho sự khuếch tán của thuốc
vào cầu trùng nhanh hơn, đưa lại tác dụng tốt hơn. Chất tăng cường khi dùng
phối hợp với Sulfamid có thể cho phép giảm liều Sulfamid xuống 10 lần so với
chỉ dùng Sulfamid đơn lẻ. Sau đây là một số loại thuốc mà trong thành phần có
sự phối hợp Sulfamid và chất tăng cường:
Coccistop 2000 (hãng Intervet, Hà Lan sản xuất): thuốc bột màu trắng,
đóng gói 200 gam, tan trong nước. Thành phần gồm: Sulfadimedine (40 gam),
Sulfadimethoxine (4 gam), Diavedrine (6 gam), Vitamin K(4 gam), tá dược vừa
đủ: 200 gam.
Tác dụng: thuốc có tác dụng lên các loài cầu trùng E. acervulina, E.
maxima, E. tenella, E. brunetti, E. necatrix ở giai đoạn nội sinh.
Liều điều trị bệnh: 1 gam pha trong 1 lít nước, uống trong 3 – 5 ngày liên tục.
Liều phòng bệnh: 1 gam pha trong 1 lít nước, uống trong 4 – 7 ngày liên tục.
Esb3 (hãng Novatis Thụy Sỹ sản xuất): thành phần chính là Sulfachlozine
sodium monohydrate (30%).
Tác dung: thuốc có tác dụng trên giai đoạn nội sinh sản của cầu trùng
Eimeria, đặc biệt từ khi cầu trùng xâm nhập đến giai đoạn Schizont II.
Liều điều trị bệnh: 1 gam pha trong 1 lít nước, cho uống 3 – 5. Nếu chưa
khỏi có thể lặp lại liệu trình trên sau khi dùng thuốc 2 – 3 ngày [7].
Các hóa dược khác

16
Nhóm này bao gồm nhiều loại thuốc, trong đó có các thuốc đã sử dụng từ
lâu như: Nicarbazin, Amprolium và các thuốc mới như Baycox, Sacox, Decox…
Amprolium: thuốc ở dạng bột trắng hay vàng nhạt, tan trong nước (tên
thương phẩm: Ampron, Ampronmic). Thuốc có tác dụng chủ yếu với cầu trùng
E. tenella ở manh tràng, ít tác dụng với các loài cầu trùng ở ruột non.
Amprolium tác dụng theo cơ chế ngăn cản sự tổng hợp protein của cầu trùng ở
giai đoạn Schizont I và II (tương ứng ngày thứ 2 – 4 ngày sau khi nhiễm). Tuy
nhiên, hiện nay cầu trùng đã xuất hiện tính kháng thuốc Amprolium, thể hiện ở
sự giảm hiệu lực khi sử dụng.
Rigeciccine (tên thương phẩm: Chlopidon, Metichlopidoc, Coyden):
thuốc có phổ tác dụng rộng, tác động vào giai đoạn Schizont II của loài
E. tenella, E. brunetti, E. necatrix, E. acervulina. Ngoài ra, thuốc còn có tác
dụng kích thích sinh trưởng và tăng khả năng tận dụng thức ăn của gà.
+ Thuốc có thể trộn với thức ăn:
Liều điều trị bệnh: trộn thức ăn tỷ lệ 0,05%, cho ăn trong 3 – 5 ngày liên tục.
Liều phòng bệnh: trộn thức ăn tỷ lệ 125 ppm. Tuy nhiên, trong thực tế,
người ta dùng liều cao hơn rất nhiều (có thể gấp 4 lần liều trên).
+ Thuốc có thể hòa vào nước cho uống:
Liều trị bệnh: l gam pha trong 2 lít nước, cho uống trong 3 – 5 ngày liên tục
Liều phòng bệnh: l gam pha trong 4 lít nước, cho uống 3 ngày, nghỉ 3 ngày.
Sacox (hãng Hoechst, Đức sản xuất). Thuốc này thuộc nhóm thuốc
kháng cầu trùng thế hệ mới, tác động theo cơ chế làm thay đổi sự vận chuyển
và trao đổi lớn ở màng tế bào cầu trùng. Sacox – 120 là một loại thuốc dùng bổ
sung vào thức ăn, dạng hạt nhỏ, màu nâu xám, trong 1 kg sản phẩm có chứa 120
gam hoạt chất Salinomycine solium, có phổ hoạt lực rộng với nhiều loài cầu
trùng. Sacox có ưu điểm là tác động lên cả những loài cầu trùng đang kháng các
thuốc chống cầu trùng khác.
Liều phòng bệnh: 50 gam trộn trong 100 kg thức ăn. Không dùng
Sacox để điều trị bệnh cầu trùng.

Baycox (hãng Bayer, Đức sản xuất). Thuốc có thành phần chính là
Toltrazuril: 25 mg. Baycox tác động đến tất các các giai đoạn phát triển của cầu
trùng, kể cả sinh sản vô tính và hữu tính, đồng thời có tác dụng kích thích và
tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể gà.
17
Liều điều trị: 1 ml pha trong 1lít nước (tương đương với nồng độ 25
ppm). Uống liên tục trong 2 ngày
Avicoc: Thuốc có thành phần chính là: Sulfadimerazine (Sodic) (20,4
g), Diaveridine (2,6 g), Tá dược VĐ: 100 g.
Liều phòng bệnh: 1 gam pha trong 1 lít nước, cho uống liên tục trong 3
ngày liên tục ở tuần tuổi thứ 2,3 và 4.
Liều điều trị bệnh: 1 gam pha trong 1 lít nước, cho uống liên tục 3 ngày liền.
Anticoccid: Thuốc có thành phần chính là:
Trong 20 gì thuốc có: 5,45 g
Diaveridine : 5,45 g
Sulfaquinoxalin : 5,46 g
Trimethoprim : 2,0 g
Thuốc có tác dụng đặc trị cầu trùng gà, thỏ, bê, nghé và phòng các bệnh
rối loạn ỉa chảy.
Liều phòng bệnh : 1,5 gam pha trong 1 lít nước.
Liều điều trị: 3 gam pha trong 1 lít nước, cho uống trong 3 – 4 ngày liên tục.
Ancoban: Liều điều trị: 1,5 gam pha trong 1 lít nước, cho uống trong 3
ngày liên tục.
Salinomycin: Liều điều trị: trộn thức ăn theo tỷ lệ 120 ppm, cho ăn trong 3
ngày liên tục.
Sử dụng thuốc trị cầu trùng, Hoàng Thạch (1999) cho biết, Baycox liều 1
mL/1L nước, điều trị trong 2 – 3 ngày và Esb3 liều 1,5 gam/1ít nước có hiệu
lực đạt 96 – 98% [16]. Theo Bạch Mạnh Điều (2004), Baycox (liều 1 gam/lít
nước), Coccistop (liều 1 gam/lít nước), Esb3 (liều 1 gam/lít nước), Ancoban
(liều 1,5 gam/lít nước), Rigecoccine (liều: trộn thức ăn tỷ lệ 400 ppm),

Salinomycin (liều trộn thức ăn tỷ lệ 120 ppm) điều trị trong 3 ngày. làm giảm tỷ
lệ gà bệnh xuống 73,4 – 93,4%, giảm tỷ lệ gà chết do cầu trùng 80 – 100%.
Trong các thuốc trên, thuốc Baycox cho kết quả điều trị tốt nhất [3].
Ngoài việc phòng trị cầu trùng bằng hoá dược và vệ sinh thú y, hướng sử
dụng vắc xin phòng bệnh cầu trùng cũng được chú ý, song phạm vi sử dụng còn
hạn chế do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề khó khăn trong nghiên cứu
sản xuất và giá thành vaccine.
18
Vaccine phòng bệnh cầu trùng gà
Trước đây, hầu hết người chăn nuôi gà thịt đã kiểm soát bệnh cầu trùng
bằng cách thêm thuốc chống cầu trùng trong thức ăn gia cầm, 50 năm qua đóng
vai trò quan trọng trong nghành công nghiệp sản xuất thịt gia cầm, cung cấp sản
phẩm với giá cả phù hợp, tuy nhiên phương pháp này hiện nay đã bị hạn chế do
vấn đề an toàn thực phẩm. Hiện nay, tiêm phòng bằng cách cho gà con lây
nhiễm một lượng ít cầu trùng sống vào cơ thể. Cách này sẽ giúp cho gà chống
lại bệnh cầu trùng hiệu quả [20].
Theo Chapman (1996), hiện nay việc nghiên cứu chế tạo và sử dụng
vaccine cầu trùng theo hai hướng chủ yếu [22].
Nghiên cứu chế tạo và sử dụng vaccine cầu trùng sống:
Thành phần vaccine là các Oocyst cầu trùng đã được xử lý theo yêu cầu
công nghệ. Những loại vaccine sống đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam như:
Coccivac – B (Mỹ), Paracox (Canada) Cơ chế quan trọng là khi đưa vaccine
vào cơ thể gà, Oocyst cầu trùng trong vaccine không gây bệnh cho gà, mà sự
tồn tại của chúng sẽ kích thích cơ thể gà sản sinh kháng thể chống lại sự xâm
nhập của cầu trùng gây bệnh tự nhiên. Tuy nhiên, miễn dịch này không bền
vững. Khi vaccine không còn trong cơ thể, chỉ sau một thời gian ngắn, gà
không còn sức miễn dịch và lại có khả năng cảm nhiễm cầu trùng gây bệnh tự
nhiên.
Hầu hết các loại vaccine sống bao gồm 3 loài E. acervulina, E. maxima,
E. tenella được giảm độc lực, nó có hiệu quả trong trường hợp nhiễm các loài

này, tuy nhiên nó sẽ không chống lại được các loài Eimeria ít phổ biến, bao gồm
E. bruneti, E. mitis, E. necatrix và E. praecox [29].
Nghiên cứu chế tạo và sử dụng vaccine chết (vaccine vô hoạt):
Vaccine loại này chỉ chứa một thành phần của Oocyst, đại diện tính
kháng nguyên của cầu trùng. Đó là một protein được chiết xuất ra từ Oocyst cầu
trùng loài E. maxima ở giai đoạn sản sinh bào tử, được chế dưới dạng nhũ hoá.
Vaccine đuợc sử dụng bằng cách tiêm cho gà bố mẹ giai đoạn hậu bị trước khi
đẻ, nhằm tạo ra kháng thể đặc hiệu ở mức cao. Cơ thể gà sản sinh kháng thể
chống lại các loài cầu trùng E. tenella, E. maxima, E. acervulina. Vaccine này
cũng có khả năng tạo ra miễn dịch thụ động cho gà con sinh ra từ gà mẹ được
tiêm phòng vaccine.
19
Phạm Văn Chức và cộng sự (1991) đã nghiên cứu và sản xuất vaccine
phòng bệnh cầu trùng gà bằng phương pháp chiếu xạ gama, bước đầu cho kết
quả tốt [1]. Bên cạnh đó, Shirley và cộng sự (1995) đã nghiên cứu chế tạo
vaccine phòng bệnh cầu trùng cho gà, kết quả cho thấy gà có sinh miễn dịch với
cầu trùng, tuy nhiên thời gian miễn dịch không dài.
Lillehoj và cộng sự (1993), nhóm tác giả này cho rằng gây nhiễm cầu
trùng nhằm kích thích hệ miễn dịch mạnh và cho đáp ứng miễn dịch rất tốt, do
đó vaccine là sự lựa chọn tốt để thay thế các loại thuốc kháng sinh chống cầu
trùng khác (Badran và cộng sự, 2006) [20].
Shirley và cộng sự (1995), đã sử dụng vaccine sống bằng cách lặp lại
nhiều lần việc cung cấp một lượng nhỏ Oocyst cầu trùng vào cơ thể để tích tụ sự
miễn dịch vững chắc.
Danforth (1998) cho rằng việc dùng vaccine trong tuần đầu tiên sau khi gà
nở sẽ tạo miễn dịch vững chắc khi chúng được sử dụng một cách cẩn thận trong
điều kiện chăn nuôi tốt.
Theo Phan Lục và cộng sự (1999), sử dụng vaccine Coccivax phòng bệnh
cầu trùng cho gà từ 6 ngày tuổi có tác dụng bảo hộ đến 54 ngày tuổi. Trong khi
đó, Bạch Mạnh Điều và cộng sự (2000, 2004) đã tạo ra được vaccine nhược

độc bằng phương pháp chiếu xạ Oocyst cầu trùng, sử dụng cho gà từ 6 ngày tuổi
cho khả năng bảo hộ đến 36 ngày sau sử dụng [3], [2].
Những kết quả nghiên cứu chế tạo và sử dụng vaccine phòng bệnh cầu
trùng cho gà đã mở ra triển vọng cho những nghiên cứu tiếp theo trong tương
lai, nhằm tiến tới khống chế bệnh cầu trùng ở gà, góp phần giảm thiệt hại kinh
tế cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng.
2.9. Tình hình nghiên cứu bệnh cầu trùng gà ở trong nước và trên thế giới
2.9.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cầu trùng là ký sinh trùng đơn bào có hình thái đa dạng tùy thuộc vào từng loài
cụ thể như: hình hơi tròn, hình trứng, hình bầu dục…. Chúng ký sinh chủ yếu ở tế bào
biểu bì ruột của nhiều loài gia súc, gia cầm và cả con người.
Rivolta và cộng sự (1963) là người phát hiện ra một loài ký sinh trùng trong phân
gà. Năm 1864 loài Eimeria đã được xác định đó là nguyên sinh động vật sinh sản theo
bào tử thuộc lớp Sporozoa, bộ Cocodie, họ Eimeriidae.
Levine và cộng sự (1925) phân loại cầu trùng như sau:
20
Ngành nguyên sinh động vật Protozoa.
Lớp Sporozoasida
Phân lớp Coccidiasina
Bộ Eucoccidiorida
Phân bộ Eimeriorina
Họ Eimeriidae
Giống Eimeria và Isospora
Năm 1875 người ta xác nhận kết quả nghiên cứu của Eimeria và đề nghị đặt tên
cho loài ký sinh trùng này là Eimeria. Từ đó đến nay nhiều loại cầu trùng khác được
phát hiện trên các loài gia súc, gia cầm khác nhau: thỏ, ngan, ngỗng, lợn, chó, mèo,…
Sự ký sinh của cầu trùng có tính rất chuyên biệt trên mỗi ký chủ, thậm chí trên các cơ
quan, mô bào và tế bào nhất định.
Vào khoảng những năm 1909 – 1942 sự công bố lần lượt của các nhà
nghiên cứu về một loạt các loài Eimeria, trong đó có các loài Eimeria ký sinh ở

gà như:
Eimeria maxima, Tyzzer, năm 1929
Eimeria acervulina, Tyzzer, năm 1929
Eimeria mitis, Tyzzer, năm 1929
Eimeria necatrix, Johnson, năm 1930
Eimeria praecox, Johnson, năm 1930
Eimeria hagani, Levine, năm 1938
Eimeria brunetti, Levine, năm 1942
Gần đây nhất là Eimeria mivati, Edgar và Seibold năm 1964
Roncalli và cộng sự (1967) đã báo động là “bệnh cầu trùng đã lây lan khắp nơi
trên thế giới và gây thiệt hại rất nặng nề cho nghành chăn nuôi gà, cũng như đưa lại chất
lượng sản phẩm xấu cho con người”.
Những năm gần đây, Eimeria và bệnh cầu trùng gà đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu khá sâu kể cả lý thuyết và thực nghiệm. Chẳng hạn, Braunius và cộng sự
(1982) đã có nhiều nghiên cứu về cầu trùng bao gồm cả về phân loại loài, dịch tễ học,
bệnh lý học, lâm sàng và cách phòng ngừa bệnh.
21
Sau những năm 1990 các nhà khoa học như: Eckert, Brawn, Shirley đã đưa ra
những hướng dẫn nghiên cứu về cầu trùng và bệnh cầu trùng gà, có thể nói đây là những
hướng dẫn rất bổ ích cho những ai đang nghiên cứu về bệnh cầu trùng.
Yun và cộng sự (2000) cũng đã nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch đường
ruột của gà đối với cầu trùng [49].
Allen và cộng sự (2002) đã nghiên cứu về các đặc điểm sinh học và miễn dịch của
các loài Eimeria trong chẩn đoán và kiểm soát cảm nhiễm của các loài cầu trùng ký sinh
ở gia cầm. Trong khi đó, Dalloul và cộng sự (2003) đã nghiên cứu về tăng cường khả
năng miễm dịch chống E. acervulina bằng cách bổ sung chế phẩm sinh học
Lactobacillus vào thức ăn cho gà thịt. Xicheng và cộng sự (2004) đã nghiên cứu về miễn
dịch chống lại E. acervulina bằng cách gây miễn dịch bằng cách
tiêm chủng qua
trứng với một

vaccine
tái tổ hợp và gen Cytokine. Bên cạnh đó, nhóm tác giả này
cũng đã bàn về vấn đề miễn dịch bảo vệ chống lại E. acervulina [48].
Năm 2006, Juranovas và cộng sự đã nghiên cứu và đưa ra những tiến bộ trong
các biện pháp kiểm soát bệnh cầu trùng ở gà
[30].
Carvalho và cộng sự (2010) nghiên cứu ảnh hưởng của các loài Eimeria đến cảm
nhiễm tự nhiên ở gà Tây.
Peek và cộng sự (2011) nghiên cứu về phòng chống bệnh cầu trùng ở gia cầm,
gồm thuốc kháng cầu trùng, vaccine, và các chiến lược phòng chống khác
[40].
Morris và cộng sự (2007) đã phát hiện được 9 loài Eimeria trong cuộc
khảo sát ở gia cầm thương phẩm trong nhiều nước.
Cả 9 loài cầu trùng này đều có khả năng ký sinh ở những vị trí khác nhau
trong tế bào biểu bì ruột gà. Bệnh gây chảy máu đường ruột là do cầu trùng ký
sinh trong nội tế bào biểu bì ruột, chỉ một noãn nang cầu trùng trong một thời gian
ngắn sẽ sinh ra triệu triệu cầu trùng mới chúng lớn lên nhanh chóng và phá vỡ tế
bào nơi chúng ký sinh rồi xâm nhập vào các tế bào biểu mô khác, cứ như thế
chúng phá vỡ niêm mạc ruột gây chảy máu, làm cho gà suy kiệt, tỷ lệ chết cao, là
mối đe dọa lớn cho các cơ sở chăn nuôi gia cầm tập trung trên toàn thế giới.
2.9.2.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Các nhà nghiên cứu đã cho biết rằng, bệnh cầu trùng gà có từ rất lâu trong chăn
nuôi hộ gia đình. Từ thời Pháp thuộc, người ta đã đưa ra những triệu chứng do bệnh cầu
trùng gây nên ở gà như: ỉa ra máu, hai manh tràng sưng to giống với bệnh tích của cầu
22
trùng ngày nay. Từ những năm 1970, bệnh cầu trùng được đi sâu vào nghiên cứu trong
lúc ngành chăn nuôi gà theo hướng tập trung phát triển mạnh. Đồng thời trong thời gian
này, các trang trại gà hầu như đã phát hiện có bệnh cầu trùng xuất hiện, trong đó có một
số trại rất nặng gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người chăn nuôi.

Trong những năm sau đó, một số nghiên cứu về cầu trùng cũng được tiến hành
bao gồm: việc xác định loài, dịch tễ, bệnh lý và phòng trị,… góp phần vào việc ngăn
chặn bệnh cầu trùng phần nào đã mang lại hiệu quả.
Dương Công Thuận (1974 – 1976) với việc phân tích từ hàng ngàn mẫu phân gà
đã kết luận rằng: ở phía Bắc Việt nam gà nuôi công nghiệp nhiễm 5 loài cầu trùng là: E.
tenella, E. necatrix, E. maxima, E. mitis, E. brunetti.
Phan Địch Lân (1977) đã nhận định về “Công tác điều tra nghiên cứu ký sinh
trùng và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phòng chống bệnh ở các tỉnh phía Nam”.
Báo cáo có đề cập đến 4 loài cầu trùng là E. tenella, E. necatrix, E. mitis, E. maxima
(Hội nghị khoa học kỹ thuật chăn nuôi thú y các tỉnh phía Nam 10/1977).
Ngoài ra, những nghiên cứu nhỏ lẻ trong phạm vi hạn chế như thí nghiệm
sử dụng Monelzin (Lê Thị Thu Hà, 1987), ứng dụng Rigecolin (Nguyễn Viết
Chánh, 1989) …
Phạm Văn Chức, Trần Tích Cảnh và cộng sự (1991) đã tiến hành nghiên cứu và
thử nghiệm sản xuất vaccine phòng chống bệnh cầu trùng gà bằng phương pháp chiếu
xạ Gamma [1].
Hoàng Thạch và cộng sự (1999) khảo sát 250 mẫu cùng ở trong khu vực chuồng
nuôi thấy tỷ lệ nhiễm là 5,6% và khảo sát 250 mẫu thu từ dụng cụ vệ sinh chuồng nuôi
thì cho tỷ lệ nhiễm là 11,2% [16].
Bạch Mạnh Điều và cộng sự (2000) nghiên cứu tình hình nhiễm cầu trùng ở một
số gia cầm nhập nội và kết quả nghiên cứu thử vaccine phòng bệnh cầu trùng gà [2].
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự (2008), nhóm tác giả này cho thấy tỷ lệ
và cường độ nhiễm cầu trùng khác nhau theo tình trạng vệ sinh thú y trong chăn nuôi.
Gà nuôi trong điều kiện vệ sinh kém có tỷ lệ nhiễm cao nhất [7].
Nguyễn Hữu Hưng (2010), đã khảo sát tình hình nhiễm cầu trùng ở gà nuôi công
nghiệp tại hai tỉnh Sóc Trăng và Vĩnh Long đã đưa ra một số kết quả về dịch tễ nhiễm
cầu trùng của gà theo độ tuổi, kiểu chuồng nuôi và theo trạng thái phân [4].
23
Lương Tấn Phát và cộng sự (2011) đã khảo sát tình hình bệnh cầu trùng trên
giống gà Ai Cập và Lương Phượng tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội và đã đưa ra một số kết

quả về dịch tễ, bệnh lý, và thử nghiệm một số phác đồ điều trị [13].
Tạ Nhơn Hùng và cộng sự (2012) đã nghiên cứu về tình hình nhiễm cầu trùng
trên đàn gà ác tại một vùng của tỉnh Tiền Giang và hiệu quả của một số thuốc như là
totrazuril, sulfaquinoxaline. Có 5 loài cầu trùng được định danh là E. acervulina, E.
brunetti, E. necatrix, E. tenella, E. maxima [5].
Nguyễn Trung Trực (2012), nghiên cứu về tình hình nhiễm cầu trùng trên
gà ác tại một trại chăn nuôi ở huyện chợ Gạo – tỉnh Tiền Giang và hiệu quả của
hai loại thuốc Bio – Anticoc (Bio – pharmachemie) và TD. Anticox 25 trong
phòng và trị bệnh cầu trùng [18].
2.10. Kỹ thuật PCR
2.10.1. Khái niệm
Kĩ thuật PCR khởi đầu vào giữa thập niên 1980 (Saiki và cộng sự (1985);
Mullis và Faloona, (1987)), không phải là không hợp lí khi nói rằng các tác động
của PCR lên sinh học phân tử, khoa học pháp lí, chuẩn đoán các bệnh lí về gen ở
người đã trở nên rộng mở hơn. Tự bản thân của quá trình này là một sự kéo dài
cực kì đơn giản của chu trình sao chép ADN, nhưng nó sử dụng nhiều cách khác
nhau để tạo nên nhiều sự nhân bản và thao tác trên ADN trong nhiều trường hợp
thì dễ dàng và thích hợp hơn trong lần đầu tiên. Khái niệm đơn giản nhất thì
PCR là sự sao chép lặp lại nhiều lần của một đoạn trên chuỗi ADN kép với sự
tham gia của hai mồi xuôi và ngược giúp nhận diện sự có mặt của ADN dưới
xúc tác của Taq polymerase/MgCl
2
, 4 loại dNTP [31].
2.10.2. Nguyên tắc của kỹ thuật PCR
Tất cả các ADN polymerase khi hoạt động tổng hợp một mạch
ADN mới từ mạch khuôn đều cần sự hiện diện của những mồi chuyên
biệt. Mồi là những đoạn ADN ngắn, có khả năng bắt cặp bổ sung với một đầu
của mạch khuôn. Sau đó ADN polymerase sẽ nối dài để hình thành mạch mới.
Phương pháp PCR đã được hình thành dựa trên các đặc tính đó của ADN
polymerase. Vậy nếu ta cung cấp hai mồi chuyên biệt bắt cặp bổ sung với hai

đầu của trình tự, ta sẽ tổng hợp đoạn ADN nằm giữa hai mồi [31].
Thành phần cơ bản của phản ứng PCR gồm có: ADN bản mẫu, mồi xuôi
và mồi ngược, dNTPs (dATP, dCTP, dGTP,dTTP), dung dịch đệm cho
phản ứng PCR, MgCl
2
, Taq polymerase.
24
2.10.3. Quy trình của phản ứng PCR
Phản ứng PCR là một chuỗi nhiều chu kỳ nối tiếp nhau, mỗi chu kỳ gồm
ba bước và mỗi chu kỳ sẽ tăng gấp đôi số lượng mẫu lần trước (nhân bản theo
cấp số nhân) [25].
Bước 1: Giai đoạn biến tính
Trong một dung dịch phản ứng bao gồm các thành phần cần thiết cho sự
sao chép, phân tử ADN được biến tính ở nhiệt độ cao hơn T
m
của phân tử,
thường ở 90ºC – 95ºC trong vòng 30 giây đến 1 phút.
Bước 2: Giai đoạn bắt cặp (lai)
Nhiệt độ được hạ thấp (thấp hơn T
m
của các mồi) cho phép các mồi bắt
cặp với khuôn. Trong thực nghiệm, nhiệt độ này dao động trong khoảng 40ºC –
70ºC tuỳ thuộc T
m
các mồi sử dụng và kéo dài từ 30 giây đến 1 phút.
Bước 3: Giai đoạn kéo dài
Nhiệt độ được tăng lên đến 72ºC giúp cho ADN polymerase hoạt động
tổng hợp tốt nhất (ADN polymerase sử dụng là ADN polymerase chịu nhiệt).
Thời gian tùy thuộc vào độ dài của trình tự ADN cần nhân bản.
25

×