ĐẶT VẤN ĐỀ
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng. Tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp, là quá trình phục hồi lại thành
phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ, sự xuất hiện của lớp cây con là
nhân tố mới làm phong phú thêm số lượng và thành phần loài trong quần xã
sinh vật (thực vật, động vật, vi sinh vật), đóng góp vào việc hình thành tiểu
hoàn cảnh rừng và làm thay đổi cả quá trình trao đổi vật chất và năng lượng
diễn ra trong hệ sinh thái rừng. Do đó, tái sinh rừng có thể hiểu theo nghĩa
rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng, tái sinh rừng thúc đẩy việc hình
thành cân bằng sinh học trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại liên tục và lâu
bền.
Tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới là một vấn đề cực kỳ phức tạp, kinh
nghiệm thực tiễn chỉ cho thấy việc áp dụng máy móc các phương thức tái
sinh kinh điển của các vùng ôn đới vào các nước nhiệt đới nói chung và Việt
Nam nói riêng không thể mang lại kết quả mong muốn. Tái sinh rừng không
chỉ là một hiện tượng sinh học mà còn là một hiện tượng địa lý, muốn nghiên
cứu đặc điểm và quy luật tái sinh cần phải gắn liền với từng loại hình rừng
cụ thể.
Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt
đới nói chung, nhưng phần lớn là rừng thứ sinh bị tác động phức tạp của con
người nên những quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều. Tái sinh rừng ở mỗi
nơi có quy luật và đặc điểm khác nhau, vì vậy việc áp dụng các giải pháp kỹ
thuật lâm sinh phải xuất phát từ việc tìm hiểu bản chất cấu trúc và tái sinh
của rừng.
Sơn Động là huyện miền núi có diện tích rừng lớn của tỉnh Bắc Giang
và có địa hình tương đối phức tạp, các diện tích rừng này là rừng thứ sinh có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất đai và cuộc sống
của con người vì vậy cần phải quan tâm, duy trì những diện tích này kịp thời.
Theo số liệu thống kê năm 2007, trước năm 1998 tổng diện tích rừng tự
nhiên của huyện Sơn Động là: 12.930 ha với những loài cây gỗ lớn có giá trị
1
kinh tế, đến nay diện tích này chỉ còn 4.30,5 ha, cùng với đó là chất lượng
rừng bị giảm sút nhanh chóng, kết cấu rừng bị phá vỡ, diện tích rừng còn lại
hiện nay chủ yếu là rừng nghèo, nhiều loài cây gỗ quý còn rất ít. Các cơ quan
hữu quan đã có nhiều chương trình, kế hoạch để phục hồi lại hệ sinh thái của
rừng, tuy nhiên kết quả còn hạn chế. Để có biện pháp xúc tiến tái sinh tự
nhiên mang lại hiệu quả kinh tế cao cần nắm được động thái của quần xã. Do
vậy, nghiên cứu đặc điểm về cấu trúc và tái sinh tự nhiên sẽ là cơ sở để đề
xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tại khu vực nghiên cứu nói riêng và
những nơi có điều kiện tương tự như ở vùng Sơn Động - Bắc Giang nói
chung.
Để góp phần hiểu biết thêm về đối tượng và xây dựng cơ sở khoa học
đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh đạt hiệu quả cao và bền vững nên tôi
đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh một số trạng thái rừng tự
nhiên phục hồi sau khoanh nuôi tại Ban quản lý rừng phòng hộ Sơn Động -
Bắc Giang”.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo
nên quần xã thực vật rừng theo không gian và thời gian (Phùng Ngọc Lan,
1986) [10]. Cấu trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và
cấu trúc thời gian.
Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Rất nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu về cơ sở sinh thái của
cấu trúc rừng: Baur G.N (1964); Odum E.P (1971). Các tác giả đã tập trung
nghiên cứu các vấn đề sinh thái về cơ sở sinh thái nói chung và cơ sở sinh
thái cho kinh doanh rừng mưa nói riêng. Qua đó làm sáng tỏ khái niệm hệ
sinh thái rừng, đây là cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan
điểm sinh thái học.
Về mô tả hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng là một trong những đặc trưng cơ bản về cấu trúc
hình thái của quần thể thực vật rừng và tạo nên cấu trúc tầng thứ.
Richards (1952) [16] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa
thành hai loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp, rừng cây đơn
ưu có tổ thành loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt. Cũng theo tác
giả này, rừng mưa thường có nhiều tầng (thường ba tầng trừ tầng cây bụi và
tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi, và
các loài thân cỏ còn có nhiều loài dây leo có đủ hình dáng và kích thước,
cũng nhiều loài phụ sinh trên thân hoặc cành hình thành nên nhóm thực vật
ngoại tầng.
3
Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Trong những nghiên cứu về rừng tự nhiên, vấn đề nghiên cứu định
lượng quy luật phân bố số cây theo đường kính, phân bố số cây theo chiều
cao, phân chia tầng thứ được nhiều tác giả thực hiện có hiệu quả. Ngoài việc
phản ánh cấu trúc nội tại của lâm phần làm căn cứ đề xuất các biện pháp
kinh doanh còn làm cơ sở để xây dựng các phương pháp điều tra và thống kê
tài nguyên rừng.
Về cấu trúc tầng thứ:
Nghiên cứu cấu trúc tầng thứ tự nhiên có nhiều ý kiến khác nhau, có
tác giả lại cho rằng, ở kiểu rừng này chỉ có một tầng cây gỗ mà thôi, ngược
lại có nhiều tác giả lại cho rằng, rừng lá rộng thường xanh có từ 3 – 5 tầng.
Richards (1939) phân chia rừng ở Nigiênia thành 5 – 6 tầng.
Về phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D
1.3
): phân bố theo cỡ đường
kính là quy luật phân bố cơ bản của lâm phần và được các nhà lâm học, điều
tra rừng quan tâm. Meyer (1943) đã mô tả bằng phương trình toán học có
dạng đường cong giảm liên tục, Balley (1973) sử dụng hàm Weibull.
1.1.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng.
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây
thân gỗ ở những nơi có hoàn cảnh rừng, dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng,
đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây
con này là thay thế một thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng hiểu theo
nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản, chủ yếu là tầng cây gỗ
của rừng.
Trên thế giới việc nghiên cứu tái sinh rừng đã trải qua hàng trăm năm
nhưng đối với rừng nhiệt đới vấn đề này mới chỉ được đề cập từ cuối những
năm 1930 trở lại đây. Khoa học lâm sinh và kinh nghiệm sản xuất đã chỉ rõ
sự giữ gìn lớp cây con có sức sống cao để khôi phục rừng tự nhiên sẽ giảm
bớt cả về chi phí nhân lực, tiền vốn và thời gian so với trồng rừng mới. Ngay
từ thế kỷ 19 ở Đức, sau khi thất bại trong quá trình tái sinh rừng nhân tạo họ
đã đề ra khẩu hiệu “hãy trở về với rừng tự nhiên”.
4
Hiệu quả tái sinh được xác định bởi mật độ, tổ thành, cấu trúc tuổi,
chất lượng cây con, sự phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành
lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm:
Mibbread 1930; Richards 1933 – 1939; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert,
1954, Baur 1964… Do tính phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có
một số loài có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loài cây
có ý nghĩa.
Về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới, đáng chú ý là công trình
nghiên cứu của Richards.P.W (1952), Bernard Rollet (1974), đã tổng kết các
quá trình nghiên cứu về phân bố cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các
ô có kích thước nhỏ (1m x 1m, 1m x 1,5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng
phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson.
Có nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến tái sinh
rừng. Trong đó nhân tố được đề cập nhiều nhất là ánh sáng [11] (thông qua độ
tàn che của rừng), độ ẩm đất, kết cấu quần phụ, cây bụi, dây leo và thảm tươi
là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tái sinh rừng. Trong rừng nhiệt đới
sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng tới quá trình phát triển của cây con. Khi
nghiên cứu tái sinh tự nhiên, các tác giả nhận định thảm cỏ và cây bụi đã ảnh
hưởng tới quá trình tái sinh của loài cây gỗ. Ở quần thụ kín, tuy thảm cỏ phát
triển kém nhưng sự cạnh tranh dinh dưỡng của nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tái
sinh rừng, Những lâm phần đã qua khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát triển
mạnh là nhân tố ảnh hưởng xấu tới tái sinh rừng. Ghent A.W (1969) nhận xét:
thảm mục, chế độ nhiệt, tầng đất mặt có quan hệ chặt chẽ với tái sinh rừng
cũng cần được làm rõ.
Mật độ và sức sống của cây con chịu ảnh hưởng trực tiếp vào chế độ
khép tán của tầng cây cao. Trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại
giữa cây con và tầng cây cao, V.G Karkov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức
tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng trong đất, ánh sáng, độ
ẩm và tính không thuần nhất giữa các loài thực vật tùy thuộc vào đặc tính
sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật.
5
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng
trên thế giới cho chúng ta những hiểu biết về phương pháp nghiên cứu, quy
luật tái sinh ở một số nơi và chỉ ra mối quan hệ qua lại của các thành phần cấu
trúc rừng.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Phân loại rừng
Vấn đề phân loại rừng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20 đã có
nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu.
Thái Văn Trừng (1978) [13] đã dựa vào 4 tiêu chuẩn đó là: dạng sống,
ưu thế của những của những thực vật trong tầng cây lập quần, độ tàn che,
hình thái sinh thái lá và trạng thái mùa của tán lá để phân chia rừng Việt
Nam thành 14 kiểu thảm thực vật.
Vũ Biệt Linh (1984) khi bàn về vấn đề phân chia rừng theo hệ thống
phân loại kinh doanh đã xác định phân chia rừng và đất rừng theo mục đích,
nội dung, phương thức, biện pháp kinh doanh, tạo điều kiện kinh doanh có
hiệu quả.
H. Thomasius (1978) đã căn cứ vào chỉ số khô hạn của M.I Buduko để
sắp xếp rừng Việt Nam thành 16 dạng thực bì, trong đó có 12 dạng thực bì
khí hậu, 4 dạng thực bì thổ nhưỡng.
1.2.2 .Nghiên cứu về cấu trúc rừng
a. Phân bố số cây theo cỡ kính (N/D1.3)
Với rừng tự nhiên hỗn loài khác tuổi, từ kết quả nghiên cứu của Đồng
Sỹ Hiền (1974) [3] cho thấy, dạng phân bố N/D là dạng phân bố giảm nhưng
do quá trình khai thác chọn thô không theo nguyên tắc, nên đường thực
nghiệm thường có dạng hình răng cưa và ông đã chọn hàm Meyer để nắn
phân bố N/D
1.3
ở rừng tự nhiên lá rộng nước ta.
Nguyễn Hải Tuất (1986) [15] sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân bố
thực nghiệm dạng hình chữ “j” với đỉnh cực đại nằm ở cỡ đường kính thứ 2.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả, cũng đã kết luận: phân bố N/D
1.3
của
tầng cây cao có hai dạng chính:
- Dạng một đỉnh hình chữ “j”
6
- Dạng giảm liên tục và có nhiều đỉnh phụ hình răng cưa.
Theo Đồng Sỹ Hiền (1974) [3] phạm vi biến động đường kính trong
từng lâm phần tự nhiên thường từ (0,5 – 4,1)
D
và cao nhất (0,3 – 13)
D
. Với
mỗi loài trong lâm phần, phạm vi biến động đường kính có hẹp hơn. Vị trí
cây có đường kính bình quân nằm trong khoảng 51 – 73% số cây kể từ cỡ
nhỏ. Hệ số biến động bình quân về đường kính của lâm phần vào khoảng
71%. Qua nghiên cứu của Vũ Nhâm và Vũ Tiến Hinh (1990) [4] cho thấy có
thể dùng phân bố Weibull để biểu thị phân bố N/D
1.3
cho những lâm phần
thuần loài đều tuổi như Thông nhựa, Thông đuôi ngựa.
Lê Sáu (1996) [12] khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên đã khẳng
định sự hơn hẳn của phân bố Weibull trong việc mô tả quy luật phân bố N/D
cho tất cả mọi trạng thái rừng tự nhiên, cho dù phân bố thực nghiệm ở dạng
nào đi nữa.
b. Phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N/H
vn
)
Bảo Huy (1993) [8], Lê Sáu (1996) [12], khi nghiên cứu phân bố N/H
vn
để tìm tầng tích tụ tán cây, đều đi đến nhận xét chung là: phân bố N/H
vn
có
dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng cưa, và dùng hàm Weibull để mô tả
rất thích hợp.
Đối với rừng tự nhiên lá rộng ở nước ta, (Đồng Sỹ Hiền, 1974) phân bố
N/H
vn
trong từng loài hay lâm phần thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu
phức tạp của rừng chặt chọn. Phạm vi biến động về chiều cao từ (0,3 – 2,5)
H
, trong từng loài có thể hẹp hơn. Hệ số biến động chiều cao với lâm phần
tự nhiên 25 – 40%, trong phạm vi loài ưu thế 12 – 34%.
1.2.3. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng tự nhiên ở nước ta chưa được nghiên cứu sâu, được bắt
đầu từ những năm 1960 trở lại đây. Một số công trình nghiên cứu về tái sinh
thường được đề cập trong các công trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong
các báo cáo khoa học và một phần được công bố trên báo chí. Rừng nhiệt đới
nước ta mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới nói chung, nhưng
7
do phần lớn là rừng thứ sinh nghèo kiệt bị tác động bởi con người nên quy
luật tái sinh bị đảo lộn nhiều.
Từ kết quả điều tra tái sinh, dựa vào mật độ tái sinh, Vũ Đình Huề
(1969) đã phân chia khả năng tái sinh rừng thành năm cấp: rất tốt, tốt, trung
bình, xấu, rất xấu. Nhìn chung, nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số
lượng mà chưa chú trọng đến chất lượng. Cũng kết quả trên, Vũ Đình Huề
(1975) [6] đã tổng kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên miền Bắc Việt
Nam mang những đặc điểm của tái sinh rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng
nguyên sinh tổ thành loài cây tái sinh tương tự như tổ thành tầng cây gỗ,
dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều cây gỗ mềm, kém giá trị và hiện tượng
tái sinh theo đám thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố không đồng đều trên mặt
đất rừng. Với những kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp
dụng cho những đối tượng rừng lá rộng miền Bắc nước ta.
Thái Văn Trừng (1963 – 1978) [13] khi nghiên cứu về thảm thực vật
Việt Nam, tác giả đã nhấn mạnh ánh sáng là nhân tố khống chế và điều khiển
quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh và thứ sinh. Nếu các điều
kiện khác của môi trường khác như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng
chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và
cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian
mà diễn thế theo những phương thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh
vật và môi trường.
Nguyễn Hữu Hiến (1970) [2] đã đưa ra phương pháp đánh giá tổ thành
rừng nhiệt đới, tác giả cho rằng loài cây tham gia vào loại hình thì nhiều, trên
diện tích 1 ha có khi có đến hàng trăm loài cây, cùng một lúc không thể kể
hết được. Vì vậy, người ta chỉ kể đến loài nào có số lượng cá thể nhiều nhất
trong các tầng quan trọng, tác giả đưa ra công thức tổ thành là Xtb ≥ N/a
(Xtb là trị số bình quân của một loài, N là số cây điều tra, a là số loài điều
tra). Một loài được gọi là một thành phần chính của một loại hình phải có số
lượng cá thể lớn hơn hoặc bằng Xtb. Đây là một cách đánh giá thuận tiện
8
trong phân tích nghiên cứu phân bố các loài, diễn thế và sự phân bố các quần
lạc thực vật.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc và lớp cây tái sinh trong rừng
hỗn loài cũng đã được đề cập trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn
Trương (1983) [14]. Theo tác giả thì cần phải thay đổi cách khai thác rừng
cho hợp lý vừa cung cấp được gỗ, vừa nuôi dưỡng và tái sinh được rừng.
Muốn đảm bảo cho rừng phát triển liên tục trong điều kiện quy luật đào thải
tự nhiên hoạt động rõ ràng lớp cây dưới phải nhiều hơn lớp cây trên kế tiếp
nó ở phía trên. Điều kiện này không thể thực hiện được trong vùng tự nhiên
ổn định mà chỉ thực hiện được trong rừng chuẩn có sự tái sinh liên tục đã
được sự điều tiết khéo léo của con người.
Phùng Ngọc Lan (1984) [9] đã nghiên cứu về đảm bảo tái sinh trong
khai thác rừng. Tác giả cho biết do cây mạ có tính chịu bóng, nên một số
lượng lớn các cây tái sinh phân bố chủ yếu ở cấp chiều cao thấp trừ một số
loài cây ưa sáng, tổ thành loài tái sinh dưới tán rừng ít nhiều đều lặp lại và
giống tổ thành tầng cây cao của quần thể. Từ kết quả điều tra khu rừng chưa
khai thác ở Lạng Sơn đã chứng tỏ tiềm năng phong phú của tái sinh rừng ở
nước ta và tác giả đã đưa ra nhận xét phương thức khai thác có ảnh hưởng
quyết định đến tái sinh rừng.
Vũ Tiến Hinh (1991) [5], nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của
rừng tự nhiên Hữu Lũng – Lạng Sơn và vùng Ba Chẽ - Quảng Ninh đã nhận
xét: hệ số tổ thành tính theo phần mười số cây của tầng tái sinh và tầng cây
cao có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng
cây cao càng lớn thì hệ số tổ thành của lớp cây tái sinh cũng tăng theo.
Nghiên cứu quy luật phát triển của rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam,
Trần Ngũ Phương đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng tự
nhiên như sau: “trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên già cỗi,
tàn lụi rồi tiêu vong, tầng kế tiếp sẽ thay thế, trường hợp chỉ có một tầng thì
trong khi nó già cỗi thì có một lớp cây tái sinh xuất hiện thay thế nó sau khi
nó tiêu vong hoặc cũng có thể thảm thực vật trung gian xuất hiện thay thế,
nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật trung gian này sẽ xuất hiện một lớp cây
9
con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật trung
gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi”.
Nguyễn Thế Hưng (2003) [7] nhận xét trong lớp cây tái sinh tự nhiên ở
rừng non phục hồi thành phần loài cây ưa sáng sống định cư và có đời sống
lâu dài chiếm tỉ lệ lớn, thậm chí trong tổ thành cây tái sinh đã xuất hiện các
loài cây chịu bóng sống dưới tán rừng như Bứa, Ngát…sự có mặt với tần số
khá cao của một số loài cây ưa sáng mọc nhanh định cư và một số loài chịu
bóng là dấu hiệu chuyển biến tích cực về diễn thế rừng. Tác giả kết luận, khả
năng tái sinh của rừng tự nhiên của các trạng thái thực vật có liên quan nhiều
đến độ che phủ, mức độ thoái hóa của thảm thực vật, phương thức tác động
của con người và tổ thành loài trong quần xã.
Hiện nay, công tác khoanh nuôi phục hồi rừng chỉ ra một giải pháp có
triển vọng lớn, những giải pháp này chỉ có thể đạt hiệu quả cao trong những
điều kiện nhất định. Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay nhiều
khu vực, đặc biệt là khu vực nghiên cứu vẫn phải trông cậy chủ yếu vào tái
sinh tự nhiên. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về cấu trúc rừng, các nhân tố ảnh
hưởng tới tái sinh tự nhiên đối với trạng thái rừng thứ sinh nghèo, từ đó đề ra
giải pháp kỹ thuật lâm sinh là chưa hoặc không được quan tâm đúng mức.
Vấn đề tổng kết, đánh giá giải pháp kỹ thuật lâm sinh đã và đang áp dụng tại
khu vực nghiên cứu cũng chưa được đề cập. Chính vì vậy những nội dung
nghiên cứu của đề tài ở địa phương đã bổ sung vào những khoảng trống đó.
10
Chương 2
MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, NỘI DUNG, VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
2.1.1. Mục tiêu chung
Đánh giá về cấu trúc và tái sinh rừng sau khoanh nuôi làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu một số đặc điểm cấu trúc trước khi đưa vào khoanh nuôi năm
2007
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây cao và tầng cây tái sinh năm 2010
- Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động vào khu vực nghiên
cứu
2.2. Giới hạn của đề tài
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các trạng thái rừng thứ sinh nghèo
phục hồi sau khoanh nuôi (trạng thái IIa, III
A1
). Các trạng thái rừng này phải
bao gồm những lô rừng phục hồi thành công và không thành công.
2.2.2. Địa điếm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại tiểu khu Đường Nội thuộc Ban
quản lý rừng phòng hộ Sơn Động - Bắc Giang.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao
- Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây cao của 2 trạng thái IIa và
IIb trước khi đưa vào khoanh nuôi năm 2007
- Nghiên cứu cấu trúc tầng cây cao sau khoanh nuôi năm 2010
+ Tổ thành tầng cây cao
+ Mật độ
+ Tổng tiết diện ngang và trữ lượng rừng
11
+ Phân bố số cây theo đường kính (N/D
1.3
); phân bố số cây theo chiều cao
(N/H
VN
)
+ Độ tàn che của rừng
- Nghiên cứu đặc điểm lớp cây tái sinh sau khoanh nuôi năm 2010
+ Tổ thành cây tái sinh
+ Mật độ cây tái sinh
+ Tỷ lệ cây có triển vọng
+ Chất lượng cây tái sinh
+ Nguồn gốc cây tái sinh
+ Phân bố cây tái sinh trên mặt đất
- Nghiên cứu ảnh hưởng của cây bụi thảm tươi đến tầng cây cao và tái sinh
rừng.
2.3.2. Đề xuất các biện pháp tác động vào rừng
2.4. Phương pháp nghiên cứu
12
Khung logic phân tích của đề tài được thực hiện theo sơ đồ sau:
13
Đặc trưng trạng thái trước
khi đưa vào khoanh nuôi
(tổ thành, N, H, G, M…)
Sau khoanh nuôi
(đặc điểm tầng cây
cao và cây tái sinh)
Khoanh
nuôi thành
công
Khoanh
nuôi không
thành công
Đưa ra các giải
pháp kỹ thuật lâm
sinh
Đưa ra các giải
pháp kỹ thuật lâm
sinh
Phân loại của
Loestchau
Biện pháp
tác động đã
thực hiện
Hình 01: Khung phân tích logic của đề tài
14
2.4.1. Phương pháp kế thừa
Đề tài đã kế thừa những thông tin cơ bản về khu vực nghiên cứu:
- Hồ sơ về đặc điểm cấu trúc rừng trước khi đưa vào khoanh nuôi năm 2007.
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế trong khu vực nghiên cứu
- Các tài liệu tham khảo về vấn đề nghiên cứu của đồng nghiệp, các tác giả
trong và ngoài nước.
2.4.2. Phương pháp bố trí và thu thập số liệu ngoài thực địa
2.4.2.1 Điều tra tầng cây cao
Lập OTC điển hình tạm thời, mỗi trạng thái ta tiến hành lập 3 OTC,
với diện tích mỗi ô là 1000m
2
, trong mỗi ô ta tiến hành đo đếm tầng cây cao
về D
1.3
, H
VN
, D
T
, H
DC
, chất lượng của các cây trong OTC
Kết quả ghi vào mẫu biểu sau (Biểu 2.1)
Mẫu biểu 2.1 Biểu điều tra tầng cây cao rừng tự nhiên
Địa điểm……… Độ cao……… Ngày điều tra…….
Trạng thái rừng…. Độ dốc……… Người điều tra……
OTC số……. Hướng dốc…. Người kiểm tra……
2.4.2.2. Điều tra tái sinh
Trong mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành lập 5 ô dạng bản có diện tích 25m
2
(5m x 5m) để điều tra cây tái sinh theo sơ đồ sau:
15
TT
Loài
cây
D
1.3
(cm) D
t
(m)
ĐT NB TB ĐT NB TB
1
2
…
Kết quả ghi vào mẫu biểu 2.2
Mẫu biểu 2.2: Điều tra cây tái sinh
Địa điểm……… Thực bì……… Ngàyđiều tra……….
Trạng thái rừng…… Độ che phủ……… Người điều tra………
ÔTC số……. Độ cao trung bình…… Người kiểm tra……
ODB
Loài
cây
Số cây theo cấp
chiều cao (m)
Nguồn gốc
Chất
lượng
Tổng số
cây tái
sinh
<0,5 0,5-1 … ≥2,5 Chồi hạt A B C
Thu thập các thông tin lâm phần: Thực bì, sâu bệnh, mức độ tác động,
phương thức lâm sinh tác động vào rừng.
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
2.4.3.1. Xử lý thống kê các kết quả nghiên cứu đối với tầng cây cao
Tính toán các giá trị bình quân D
1.3
, H
VN
, D
T
, H
DC
- Phương pháp xác định công thức tổ thành
Đối với tầng cây cao: Dựa vào phương pháp tính tổ thành của Daniel
Marmilod
IV% =
2
%% GiNi +
Trong đó:
IV%: là tỷ lệ tổ thành loài cây i
N
i
%: là % tính theo số cây của loài i trong trạng thái rừng
16
1
25m
2
3
4
5
40m
G
i
%: là % tính theo tổng tiết diện ngang của loài i trong trạng
thái rừng.
Những loài có IV% ≥ 5% được đưa vào công thức tổ thành
- Mật độ
N/ha =
10000x
S
n
Trong đó: n - số lượng cá thể của loài hoặc tổng số cá thể trong OTC
S - diện tích OTC
- Xác định phân bố số cây theo đường kính (N/D) và phân bố số cây theo
chiều cao (N/H) dựa vào việc xử lý thống kê số liệu.
2.4.3.2. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng
- Đối với cây tái sinh: Xác định số loài dựa vào công thức
n =
m
N
m
Ni
m
i
=
∑
=1
Trong đó:
m - là tổng số loài ở mỗi trạng thá
N
i
- là tổng số cây của mỗi loài ở mỗi trạng thái
N - tổng số cây ở các loài ở mỗi trạng thái
Nếu N
i
≥ N thì số loài đó được tham gia vào công thức tổ thành
Xác định hệ số tổ thành cho mỗi loài
K =
10x
N
Ni
Trong đó: K - là hệ số tổ thành của loài
N
i
- số lượng các cá thể của loài
N - là tổng số lượng cá thể
- Mật độ cây tái sinh
Là chỉ tiêu biểu thị cây tái sinh trên một đơn vị diện tích, được xác định
theo công thức sau:
N/ha =
10000x
S
n
Trong đó: n - là số lượng các cây tái sinh được điều tra
S - là tổng diện tích các ODB
- Phương pháp nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo mặt phẳng ngang
Để mô hình hoá ta dựa vào phân bố Poisson
X
=
n
N
Trong đó:
X
- tổng số cây trung bình /ô dạng bản
N - tổng số cây
n - số lượng ô dạng bản
Xác định phương sai số cây trong các ô dạng bản theo công thức
17
S
2
=
( )
∑
−
−
1
2
n
xxi
X
i
- tổng số cây của loài thứ i
Xác định hệ số K của phân bố Poisson
K =
∑
X
S
2
Kết luận: K > 1 phân bố cụm
K = 1 Phân bố ngẫu nhiên
K < 1 phân bố đều
- Đánh giá nguồn gốc và chất lượng tái sinh
Việc đánh giá dựa vào cấp chất lượng được thống kê
N% =
100x
N
Ni
Trong đó: Ni - số cây thực tế của một cấp chất lượng
N - tổng số cây của các loài trong một trạng thái
Trên cơ sở số cây tái sinh đã thống kê dùng tiêu chuẩn χ
2
để kiểm tra sự
thuần nhất về chất lượng cây tái sinh giữa các trạng thái theo mẫu biểu và
công thức sau:
Trạng thái rừng Chất lượng Tổng(T
ai
)
… A B C
…
Tổng(T
bj
)
∑
Công thức χ
2
để kiểm tra sự thuần nhất của cây tái sinh
=
2
n
χ
TS*(
∑
−1
*
2
TbjTai
f
ij
)
Trong đó:
f
ij
- là tần số quan sát của mẫu i cấp chất lượng j
T
ai
- tổng tần số quan sát của mẫu thứ i
T
bj
- tổng tần số quan sát của cấp chất lượng j
TS - tổng tần số quan sát của các mẫu
Nếu χ
2
n
> χ
2
05[k=(a-1)(b-1)]
trạng thái không thuần nhất với nhau về chất lượng
Nếu χ
2
n
< χ
2
05[k=(a-1)(b-1)]
trạng thái thuần nhất với nhau về chất lượng
- Phương pháp nghiên cứu quy luật phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều
cao (N/H) và số loài cây tái sinh theo cấp chiều cao (N
lts
/H).
Để lập phân bố thực nghiệm số cây và số loài cây tái sinh theo cấp chiều
cao ta lấy số liệu từ biểu 2.2 dựa vào phân bố thực nghiệm N/H
vn
để lựa chọn
phân bố phù hợp.
Đặt giả thuyết H
o
: F
x
(X) = F
o
(X)
18
H
1
: F
x
(X)
≠
F
o
(X)
Với F
o
(X) là hàm phân bố được lựa chọn
Kiểm tra giả thuyết H
o
bằng tiêu chuẩn phù hợp χ
2
của Poisson:
Công thức
2
χ
=
∑
=
−
n
i
fl
flft
0
)(
so sánh với tiêu chuẩn
05
2
χ
(k)
với k = m – r – 1
Trong đó: flt - tần số lý thuyết
ftt- tần số thực nghiệm
m - số tổ sau khi gộp
r - số tham số cần kiểm tra
Nếu
2
χ
≤
05
2
χ
thì H
o
+
chấp nhận giả thuyết H
o
, phân bố lý thuyết phù
hợp với phân bố thực nghiệm
Nếu
2
χ
≥
05
2
χ
thì H
o
-
không chấp nhận giả thuyết H
o
, phân bố lý thuyết
không phù hợp với phân bố thực nghiệm
2.4.3.3. Phương pháp mô phỏng các quy luật phân bố
Sau khi sắp xếp tần số theo tổ tính toán các đặc trưng mẫu, xem xét kiểu
dáng phân bố, từ đó lựa chọn các hàm phân bố lý thuyết để mô phỏng.
Đề tài chọn hàm phân bố Weibull để mô tả các quy luật phân bố N/D
1.3
,
N/H
vn
của các trạng thái rừng nghiên cứu. Sở dĩ sử dụng hàm phân bố Weibull
để nghiên cứu vì đây là phân bố xác suất cho phép mô phỏng phân bố thực
nghiệm có dạng giảm, lệch trái, lệch phải và đối xứng. Phân bố Weibull là
phân bố xác suất của biến ngẫu nhiên liên tục với miền giá trị (o đến + ∞).
Hàm Weibull có dạng:
f
(x) =
a
x
e
a .
1
λ
λα
−
Χ
−
Với
λα
,
là hai tham số của phân bố Weibull. Khi các tham số của phân bố
Weibull thay đổi thì dạng đường cong phân bố cũng thay đổi theo. Tham số
α
đặc trưng cho độ lệch của phân bố.
Nếu
α
= 1: Phân bố có dạng giảm.
Nếu
α
= 3: Phân bố có dạng đối xứng.
Nếu
α
> 3: Phân bố có dạng lệch phải.
Nếu
α
< 3: Phân bố có dạng lệch trái.
Tham số λ đặc trưng cho độ nhọn.
19
( )
∑
=
−Χ
=
m
i
ii
af
n
1
.
α
λ
Trong đó: a là giá trị quan sát bé nhất.
X
i
là trị số giữa tổ thứ i.
n là dung lượng mẫu.
f
t
là tần số thực nghiệm.
Kết quả được ghi ở mẫu biểu 2.3
Mẫu biểu 2.3: Biểu nắn phân bố thực nghiệm theo hàm Weibull
X
i
f
t
X
i
-a X
t
-a
( )
α
a
i
−Χ
u
eU
−
.
P
i
f
l
( )
2
l
lt
f
ff −
α
).( af
it
−Χ
Trong đó: a là trị số quan sát bé nhất.
X
i
là chỉ số giữa tổ.
X
t
là giới hạn trên của cỡ.
α
λ
).( aU
i
−Χ=
, e = 2,72
Xác xuất:
1
1
1
u
eP
−
−=
,
21
2
uu
eeP
−−
−=
,f
l
= n*P.
Từ các tham số α, λ tiến hành tính toán tần số lý thuyết (f
lt
) và kiểm tra
sự phù hợp của phân bố Weibull bằng tiêu chuẩn khi bình phương (χ
2
) của
Poisson. Sử dụng tiêu chuẩn χ
2
với mức ý nghĩa
α
= 0,05 để kiểm tra sự phù
hợp của phân bố lý thuyết so với phân bố thực nghiệm theo công thức:
( )
∑
=
−
=
m
i
l
lt
n
f
ff
1
2
2
χ
Trong đó:
t
f
là tần số thực nghiệm.
l
f
là tần số lý thuyết.
m là số tổ kiểm tra.
20
χ
2
tính được so sánh với χ
2
05
tra bảng với bậc tự do k = m - r - 1, là số tổ có tần
số lý luận
t
f
≤ 5, r là tham số của phân bố lý thuyết cần ước lượng với mức
ý nghĩa
α
= 0,05.
+ Nếu χ
2
n
≤ χ
2
05
thì phân bố thực nghiệm tuân theo phân bố Weibull.
+ Nếu χ
2
n
> χ
2
05
thì phân bố thực nghiệm không tuân theo phân bố
Weibull.
2.4.3.4. Phương pháp phân loại rừng hiện tại
Đề tài sử dụng phương pháp phân loại của Loestchau (1960) được Viện
Điều tra Quy hoạch rừng nghiên cứu và bổ sung. Cụ thể phân chia các trạng
thái rừng như sau:
+ Kiểu trạng thái II: Rừng non phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai
thác trắng, kiểu rừng này là rừng cây gỗ có đường kính nhỏ, chủ yếu là
những cây tiên phong hoặc có tính chất tiên phong ưa sáng mọc nhanh, nó có
thể được chia thành 2 kiểu phụ:
Kiểu phụ IIa: rừng phục hồi còn non và đặc trưng bởi lớp cây tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh, thường đều tuổi và kết cấu một tầng, đường kính
D < 10 cm, ∑G < 10 m
2
/ha, trữ lượng chưa có hoặc > 25 – 30 m
3
, thuộc đối
tượng nuôi dưỡng.
Kiểu phụ IIb: rừng cây tiên phong tiên phong phục hồi phát triển đã
lớn, đặc trưng tổ thành gồm những cây tiên phong hoặc có tính chất tiên
phong ưa sáng, mọc nhanh, thành phần loài phức tạp, đã có sự phân hoá về
tầng thứ và tuổi. Đường kính cây cao phổ biến bình quân D > 10 cm, ∑G >
10 m
2
/ha, trữ lượng từ 30 – 60 m
3
thuộc đối tượng nuôi dưỡng.
+ Kiểu trạng thái III: trạng thái rừng đã qua khai thác chọn, là kiểu
trạng thái đã bị tác động của con người ở nhiều mức độ khác nhau, làm cho
kết cấu rừng có sự thay đổi. Tuỳ theo mức độ tác động, khả năng tái sinh và
cung cấp lâm sản mà có thể phân loại trạng thái rừng khác nhau:
Kiểu phụ III
A
: Rừng thứ sinh qua khai thác chọn kiệt, đang phục hồi,
khả năng khai thác bị hạn chế, cấu trúc rừng bị phá vỡ hoặc thay đổi cơ bản,
trạng thái này có thể chia thành một số trạng thái:
21
Dạng trạng thái III
A1
: Rừng mới qua khai thác chọn kiệt, cấu trúc rừng bị
phá vỡ hoàn toàn, tán rừng bị phá vỡ thành từng mảng lớn, tầng trên còn sót
lại một số cây cao nhưng phẩm chất xấu, nhiều dây leo bụi dậm, tre nứa xâm
lấn. Độ tàn che S < 0,3, ∑G < 10 m
2
/ha, ∑G
D > 40
< 2 m
2
/ha, trữ lượng < 80
m
3
/ha. Tuỳ thuộc vào mật độ tái sinh mà có thể chia nhỏ hơn nữa.
Dạng trạng thái III
A2
: Rừng qua khai thác kiệt bắt đầu phục hồi, đặc
trưng của trạng thái này là đã hình thành tầng giữa vươn lên chiếm ưu thế với
lớp cây cao, đại bộ phận có đường kính 20 – 30 cm. Rừng có 2 tầng trở lên,
tầng trên tán không liên tục được hình thành chủ yếu từ những cây cũ còn lại,
còn những cây to khoẻ vượt tán. Độ tàn che của rừng S = 0,3 – 0,5, ∑G =
10 – 15 m
2
/ha,
∑G
D > 40
< 2 m
2
/ha, trữ lượng từ 80 – 120 m
3
/ha. Cũng tuỳ thuộc vào mật độ tái
sinh có thể chia nhỏ hơn thế nữa.
Dạng trạng thái III
A3
: Rừng đã có quá trình phục hồi tốt (rừng trung bình
có từ 2 tầng trở lên). Độ tàn che S = 0,5 – 0,7, ∑G 16 – 21 m
2
/ha, ∑G
D > 40
< 2
m
2
/ha, trữ lượng > 120 m
3
/ha.
Kiểu phụ III
B
: Rừng bị tác động với mức độ thấp, trữ lượng còn cao, cấu
trúc rừng chưa bị phá vỡ, rừng còn giàu trữ lượng, S > 0,7, ∑G = 21 – 26
m
2
/ha, trữ lượng > 250 m
3
/ha.
+ Kiểu trạng thái IV: Rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh phục hồi, đã phát
triển đến giai đoạn ổn định, trữ lượng và sản lượng cao, có độ tàn che > 0,7,
∑G > 26 m
2
/ha, ∑G
D > 40
> 5 m
2
/ha [1].
Vì mục tiêu của đề tài không đi sâu vào phân loại nên sẽ dựa trên khả
năng khép tán của lâm phần, căn cứ vào tổng tiết diện ngang (∑G = m
2
/ha),
trữ lượng (∑M = m
3
/ha) và một số thông tin ngoài thực địa, làm cơ sở phân
chia trạng thái hiện tại của rừng.
22
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Địa hình
BQL rừng phòng hộ có diện tích nằm trọn trong phần núi Đông Bắc
Bộ, do ảnh hưởng của các vòng cung Bắc Sơn – Đông Triều nên địa hình
chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, thuộc loại hình núi cao, hướng dốc đa dạng.
3.1.2. Địa chất, thổ nhưỡng
Đất đai trong vùng của BQL được hình thành trên nền đá mẹ chủ yếu là
phiến thạch sét, sa phiến thạch, sa thạch, cuội kết.
Các loại đất thường gặp:
- Đất feralit nâu xám mùn trên núi
- Đất feralit đỏ vàng chủ yếu ở vùng núi thấp, vùng đồi thoải, chiếm phần
lớn diện tích đất đai của BQL.
- Các loại đất dốc tụ ven sông suối hoặc ven đồi
3.1.3. Khí hậu, thủy văn
a. Khí hậu
Biểu 3.1: Biểu đồ khí tượng năm 2007 của khu vực nghiên cứu
Tháng Nhiệt độ(
0
C) Lượng mưa (mm)
Số giờ nắng
(h)
Số ngày
mưa(ngày)
1 15,6 23,1 63 7
2 20,7 25,8 79 5
3 20,8 22,8 22 13
4 23,3 47,5 91 7
5 26,4 92,9 169 14
6 29,4 93,3 190 13
7 29,1 526,5 220 13
8 27,7 337,5 138 23
9 25,7 394,1 115 17
10 24,3 104,2 130 7
11 18,3 23,6 175 1
12 17,0 21,5 70 4
(Nguồn số liệu năm 2007: Trung tâm khí tượng thuỷ văn tỉnh Bắc Giang)
23
Toàn bộ khu vực thuộc BQL rừng phòng hộ nằm trong vùng khí hậu á
nhiệt đới.
- Mùa mưa tháng 5 đến tháng 10
- Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
- Nhiệt độ trung binh từ 22 – 24
0
C
- Lượng mưa bình quân 1500 – 1800 mm, tập trung vào các tháng 7, 8 ,9.
b. Thủy văn
Địa bàn BQL có 2 hệ thống sông suối chính:
- Lưu vực sông An Châu: bắt nguồn từ Hữu Sản qua An Lạc, An Châu dài 60
km.
- Lưu vực sông An Bá: Hệ thống sông suối từ Long Sơn về An Bá dài 60 km
Tóm lại: Địa bàn thuộc BQL bao gồm các vùng tự nhiên, núi cao, địa
hình chia cắt mạnh, khó khăn cho việc đi lại. Lượng mưa tập trung theo mùa
gây lũ lụt. Tuy nhiên, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, đất rừng còn khá tốt
rất thuận lợi cho cây rừng sinh trưởng và phát triển, tạo ra sự đa dạng, phong
phú về thành phần loài thực vật.
3.1.4. Đất đai, tài nguyên rừng
Biểu 3.2: Biểu hiện trạng đất đai tài nguyên rừng
tại khu vực nghiên cứu
Loại đất Diện tích (ha) Tỉ lệ(%)
Tổng diện tích tự nhiên 8.949,2 100
1 Đất lâm nghiệp 8.947 99,9
1.1 Đất có rừng 6.908,7 77,2
1.1.2 Rừng tự nhiên 5.831,2 84,4
1.1.3 Rừng trồng kinh tế 577,7 8,3
1.1.4 Rừng trồng phòng hộ 499,8 7,2
1.2 Đất trống 2.038,3 22,8
2. Đất trụ sở và vườn ươm 2,2 0,02
Như vậy: Với diện tích đất lâm nghiệp là 8.947 ha trong đó diện tích có
rừng chiếm 72%. Diện tích đất trống chiếm tỉ lệ cao 22,8% lại phân bố tập
trung ở những nơi độ dốc lớn, địa hình phức tạp. Việc phủ xanh diện tích này
gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, đến nay diện tích đất trống giảm đi chưa
đáng kể.
Rừng tự nhiên: có tổ thành loài cây rất đa dạng và phong phú, đặc
trưng cho rừng nhiệt đới vùng Đông bắc Việt nam: Lim xanh, Táu mật, Sến
24
mủ, Giổi, Lát hoa, các loài Dẻ, Re, Trám… rừng có nhiều tầng, tán, có độ
tàn che lớn và có thảm thực bì rất dày trên mặt đất.
- Rừng IIIA
2
(385,2 ha) chiếm tỷ lệ rất nhỏ 4% so với tổng diện tích đất lâm
nghiệp của BQL. Trạng thái rừng này có trữ lượng 120m
3
/ha.
- Rừng IIIA
1
(2497,8 ha) chiếm 28%. Đối tượng này đã thực hiện đóng cửa
rừng, không khai thác và đưa bảo vệ từ năm 1996, do vậy rừng phục hồi
nhanh, đạt trữ lượng bình quân 45m
3
/ha.
- Rừng IIa, IIb (2.948,2 ha) chiếm tỷ lệ cao nhất 33%, có tổng tổ thành loài
rất phong phú, các loài cây gỗ quý được phục hồi, chất lượng rừng được cải
thiện rõ rệt có trữ lượng bình quân 25m
3
/ha.
Trong rừng tự nhiên xuất hiện nhiều loài động vật rừng như: Gà lôi,
Lợn rừng, Cầy, Sóc, các loài chim…
+ Rừng trồng: Diện tích rừng trồng hiện có 1.077,5 ha trong đó:
- Rừng phòng hộ: 499,8ha.
- Rừng trồng kinh tế: 577,7ha.
Loài cây rừng trồng kinh tế chủ yếu là Bạch đàn và Keo lai, rừng trồng
phòng hộ chủ yếu là Thông mã vĩ xen Keo lá tràm. Rừng trồng sinh trưởng
tốt, không bị sâu bệnh hại. Toàn bộ diện tích rừng trồng đang ở cấp tuổi I và
II do vậy trữ lượng chưa đáng kể.
+ Đất trống lâm nghiệp: Diện tích đất trống hiện còn 2.038,3ha, tiếp tục tiến
hành trồng rừng, một phần diện tích Ic tiến hành khoanh nuôi tái sinh.
3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
a. Trước năm 2007
Trước năm 1990, BQL rừng phòng hộ lâm trường Sơn Động được chia
tách thành 2 đơn vị và lâm trường Sơn Động II trực thuộc Sở nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Bắc Giang. Toàn bộ diện tích của BQL đều thuộc lâm
trường lâm trường Sơn Động I.
Ngày 14/2/2007. UBND tỉnh Bắc Giang có quyết định chuyển đổi lâm
trường Sơn động I thành BQL rừng phòng hộ Sơn Động. Theo đó, toàn bộ
diện tích rừng nằm trên địa bàn 4 xã: An Châu, An Lạc, Dương Hưu, Long
Sơn của huyện Sơn Động đều thuộc về BQL.
b. Giao thông vận tải
- Địa bàn BQL rừng phòng hộ có 2 hệ thống đường giao thông chính:
- Quốc lộ 31 từ Hữu Sản đi Cẩm Đàn dài 40km, đường liên xã dài 30km.
25