Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Khảo sát ngôn ngữ trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.92 KB, 91 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HẢI YẾN





KHẢO SÁT NGÔN NGỮ TRONG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC











HÀ NỘI- 2010

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ HẢI YẾN


KHẢO SÁT NGÔN NGỮ TRONG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Hoàng Trọng Phiến









HÀ NỘI- 2010

5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………… 4
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………… 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………… 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………… 5
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… 6
6. Bố cục của luận văn……………………………………………… 6

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm thơ…………………………………………………… 7
1.2. Khái niệm thơ tự do…………………………………………… 12
1.3. Khái niệm thơ văn xuôi………………………………………… 15
1.3.1. Quan điểm xác định thơ văn xuôi dựa vào tiêu chí hình
thức………………………………………………………………… 16
1.3.2. Quan điểm xác định thơ văn xuôi xét trên phương diện ngôn
ngữ………………………………………………………………… 16
1.3.3. Quan điểm đồng nhất thơ văn xuôi với văn xuôi có chất
thơ…………………………………………………………………… 17
1.4. Sơ lược sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi………… 19
1.4.1. Trên thế giới………………………………………………… 19
1.4.2. Ở Việt Nam…………………………………………………… 22
1.5. Phân biệt thơ văn xuôi và một số thể loại lân cận……………… 25
1.5.1. Thơ văn xuôi và văn xuôi…………………………………… 25
1.5.2. Thơ văn xuôi và thơ tự do…………………………………… 28

* Tiểu kết chương 1………………………………………………… 30




6
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN TRONG THƠ VĂN XUÔI VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Giới thiệu “Tuyển tập Thơ văn xuôi- Việt Nam và nước
ngoài”……………………………………………………………… 32
2.2. Đặc điểm cơ bản trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại… … 32
2.2.1. Cấu trúc thơ tự do, hình thức thơ mới mẻ…………………… 32
2.2.2. Hình ảnh, ngôn từ ấn tượng, mới lạ trong bức tranh thơ hiện
đại…………………………………………………………………… 39
2.2.3. Cảm xúc thơ dạt dào, chất triết lý thâm thúy………………… 43
* Tiểu kết chương 2………………………………………………… 50

Chương 3: ĐẶC TRƯNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG THƠ VĂN
XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
3.1. Đặc trưng về nhịp điệu……………………………………… 51
3.1.1. Nhịp điệu thơ là gì? 51
3.1.2. Tiêu chí nhận diện và phân loại nhịp điệu…………………… 52
3.1.3. Khảo sát các kiểu nhịp điệu trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện
đại………………………………………………………………… 56
3.1.3.1. Nhịp điệu đối xứng………………………………………… 56
3.1.3.1.1. Định nghĩa……………………………………………… 56
3.1.3.1.2. Kết quả khảo sát………………………………………… 56
3.1.3.1.3. Đặc điểm…………………………………………… … 58
3.1.3.2. Nhịp điệu trùng điệp……………………………………… 59
3.1.3.2.1. Định nghĩa…………………………………… ……… 59

3.1.3.2.2. Kết quả khảo sát………………………………………… 60
3.1.3.2.3. Đặc điểm………………………… …………………… 61
3.1.3.3 Nhịp điệu tự do…………………………………………… 63
3.1.3.3.1. Định nghĩa………………… …………………………… 63
3.1.3.3.2. Kết quả khảo sát………………………………………… 63
3.1.3.3.3. Đặc điểm………………………………… …………… 65

7
3.2. Đặc trưng về cú pháp………………………………………… 66
3.2.1. Vài nét về các biện pháp tu từ cú pháp tiếng Việt…………… 66
3.2.2. Khảo sát các biện pháp tu từ cú pháp cơ bản trong thơ văn xuôi Việt
Nam hiện đại…………………………………………………… 68
3.2.2.1. Sóng đôi 68
3.2.2.1.1. Định nghĩa……………………………… ……………… 68
3.2.2.1.2. Kết quả khảo sát 69
3.2.2.1.3. Đặc điểm 70
3.2.2.2. Lặp đầu 71
3.2.2.2.1. Định nghĩa 71
3.2.2.2.2. Kết quả khảo sát 72
3.2.2.2.3. Đặc điểm 74
3.2.2.3. Câu hỏi tu từ 75
3.2.2.3.1. Định nghĩa 75
3.2.2.3.2. Kết quả khảo sát 75
3.2.2.3.3. Đặc điểm 77
* Tiểu kết chương 3 78
KẾT LUẬN……………………………………… ……………… 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83











4
KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

T : Thanh trắc
B : Thanh bằng
/ : Ngừng ngắn
// : Ngừng vừa
/// : Ngừng dài
tr. : Trang
Nxb : Nhà xuất bản
PDF Merger
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one
AnyBizSoft

8

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhà thơ Ấn Độ Rabin Dranat Tagor (1861- 1942) trong suốt cuộc đời
làm thơ của mình đã chiêm nghiệm: “Thơ đâu phải viết ra chỉ để cắt nghĩa
một điều gì đó. Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra
ngoài, chúng ta có thơ”. Cái hình thức ấy không thể có trước mà phải do
nội dung, do tình cảm quyết định. “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực
chất của thơ là phản ánh một cái gì được hoàn thiện từ bên trong”. Nhịp
bên trong của thơ chính là nhịp của tâm hồn, cảm xúc, tự nó sẽ quy định
hình thức thơ. Theo đó, người ta phân ra ba hình thức thơ cơ bản: thơ cách
luật, thơ tự do, thơ văn xuôi.
Bước sang thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam đã chuyển từ văn học
trung đại sang văn học hiện đại, đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ của đời
sống thể loại văn học nước nhà. Nhiều thể loại văn học cũ được cách tân,
nhiều thể loại mới ra đời từ cuộc sống lao động sáng tạo sôi động của các
văn nghệ sĩ. Trên địa hạt thơ ca, sự xuất hiện của cái tôi trữ tình cá nhân đã
đưa đến những kiểu nhà thơ mới, thi pháp mới. Thơ cũ với những niêm luật
khắt khe không còn phù hợp nữa nên tất yếu có sự thay đổi. Nói như Lưu
Trọng Lư: “Hình thức thơ phải mới, mới luôn, cho phù hợp với tâm hồn
của ta, tâm hồn phiền phức của ta trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại
càng thêm phiền phức”. Dấu hiệu đầu tiên của sự đổi mới là việc “bùng nổ”
về thể loại thơ. Và, thơ văn xuôi ra đời cũng là do nhu cầu tự thân của thời
đại, để phù hợp với đời sống văn hóa tinh thần của con người hiện đại.
Thơ văn xuôi, như chính tên gọi của nó, có thể hiểu một cách chung
nhất là thơ viết bằng văn xuôi. Là một thể tài mới, thơ văn xuôi vẫn đang
trong quá trình sinh thành và vận động. Tuy chiếm số lượng không lớn
nhưng nó đã tạo được dấu ấn đặc biệt trong tiến trình thơ hiện đại. Nó cũng
là mảnh đất “màu mỡ” cho các nhà nghiên cứu tìm tòi, khai phá. Do đó, xét
cả về phương diện sáng tác cũng như nghiên cứu, đã và sẽ còn nhiều cách
làm thơ và nhiều ý kiến khác nhau bàn về thể thơ này.


9
Với khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ, trong khả năng của mình,
chúng tôi sẽ cố gắng bước đầu tìm hiểu và soi sáng khái niệm thơ văn xuôi,
những đặc trưng nổi bật của thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại dựa trên
những thành tựu Ngôn ngữ học.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Khảo sát ngôn ngữ trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại”,
chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu và nhận diện
thơ văn xuôi- một thể thơ mới đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu những
biến đổi về mặt hình thức của ngôn ngữ thơ Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại. Đồng thời trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu những đặc điểm cơ
bản và đặc trưng về nhịp điệu, cú pháp trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện
đại, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp hữu ích đối với việc nghiên cứu và
giảng dạy bộ môn Ngữ văn- Phong cách học trong trường phổ thông cũng
như bậc Đại học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ trong thơ văn xuôi Việt
Nam hiện đại. Cụ thể, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và khảo sát trên
nguồn ngữ liệu là Tuyển tập thơ văn xuôi- Việt Nam và nước ngoài: với
tổng số 160 bài thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, bao gồm 23 bài trước
Cách mạng tháng 8- 1945 và 137 bài sau Cách mạng tháng 8- 1945 đến
nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hóa lý thuyết về thơ văn xuôi: khái niệm thơ văn xuôi, phân
biệt thơ văn xuôi với một số thể loại lân cận, sự hình thành và phát triển
của thơ văn xuôi.
4.2. Vạch rõ những đặc điểm cơ bản trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
về nội dung và hình thức.
4.3. Khảo sát những đặc trưng sử dụng ngôn ngữ trong thơ văn xuôi Việt

Nam hiện đại: đặc trưng về nhịp điệu, đặc trưng về cú pháp.

10
Từ đó đưa ra cái nhìn khái quát nhất về thơ văn xuôi Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ tốt cho đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp mô tả: mô tả cấu trúc khổ thơ, đoạn thơ, bài thơ; phép đối
thanh điệu bằng- trắc, phép lặp…
- Phương pháp phân tích: phân tích đặc trưng của thể loại thơ văn xuôi về
nhịp điệu, cú pháp, ngôn từ…
- Phương pháp thống kê phân loại: thông kê số lượng bài thơ, tần số xuất
hiện, tính tỉ lệ %; phân loại theo các kiểu cấu trúc văn bản, các kiểu mô
hình nhịp điệu, biện pháp tu từ
- Phương pháp so sánh: so sánh thơ văn xuôi các giai đoạn trước Cách
mạng tháng 8 và sau Cách mạng tháng 8, so sánh với các thể thơ truyền
thống để làm nổi bật sự cách tân về hình thức và nội dung thơ văn xuôi
Việt Nam hiện đại.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, cấu trúc
của luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm cơ bản trong thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại
Chương 3: Đặc trưng sử dụng ngôn ngữ trong thơ văn xuôi Việt Nam
hiện đại








11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm thơ
Thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài người. Ở nhiều dân tộc, trong
một thời gian dài, các tác phẩm văn học đều được viết bằng thơ, vì thế,
trong lịch sử văn học của nhiều dân tộc, nói đến thơ là nói đến văn học.
Từ điển Thuật ngữ Văn học đã định nghĩa: “Thơ là hình thức sáng tác
văn học phản ánh cuộc sống, xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu.
Thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm súc cô đọng, ngôn ngữ có nhịp điệu là
những đặc trưng cơ bản của thơ. Cũng trên cơ sở này mà xuất hiện khái
niệm chất thơ để chỉ những sáng tác văn học (bằng văn vần hoặc văn xuôi)
giàu xúc cảm, nội dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu. Lý
tưởng và khát vọng của đông đảo nhân dân, chủ nghĩa nhân đạo với những
biểu hiện lịch sử của nó là tiêu chuẩn khách quan cho chất thơ chân chính ở
mỗi thời đại. Chất thơ là điều kiện cơ bản của thơ, không có chất thơ thì
nhất định không thể có thơ hay.
Tùy theo yêu cầu nghiên cứu, có thể chia thơ theo những tiêu chí khác
nhau. Dựa vào phương thức phản ánh có thể chia ra thơ tự sự và thơ trữ
tình. Dựa vào thể luật có thể chia ra thơ cách luật và thơ tự do. Xét về mặt
gieo vần, có thể chia ra thơ có vần và thơ không vần. Ngoài ra, người ta
còn phân loại thơ theo nội dung như thơ tình yêu, thơ chính trị, thơ triết
lý…” [18, tr. 309]
Như vậy, thơ, thơ ca hay thi ca là một hình thức nghệ thuật dùng từ,
dùng chữ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp
của chúng được sắp xếp dưới một hình thức logic nhất định tạo nên hình

ảnh hay gợi cảm giác âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người
nghe. Từ thơ thường được đi kèm với từ câu để chỉ một câu thơ, hay với
từ bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình thức câu cô đọng, truyền
đạt một hoặc nhiều hình ảnh có ý nghĩa cho người đọc, và hoàn chỉnh trong

12
cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một mình. Một bài thơ
là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ, tính tượng hình
và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc
đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác.
Thơ có một lịch sử lâu dài. Định nghĩa sớm nhất ở châu Âu về thơ có
thể bắt đầu từ nhà triết học người Hy-Lạp Aristotle (384-322 TCN). Ở Việt
Nam, thơ có thể bắt nguồn từ tục ngữ, ca dao mà ra. Những câu có vần
điệu, dễ nhớ như: Sấm bên đông, động bên tây; ăn trông nồi, ngồi trông
hướng… vốn là những kinh nghiệm được đúc kết thông qua sự từng trải, sự
quan sát các hiện tượng thiên nhiên, mà đúc kết lại, truyền từ đời nọ sang
đời kia, giống như một thứ mật mã trong ngôn ngữ để truyền thông tin vậy.
Những đúc kết bao gồm đủ mọi mặt trong cuộc sống, sau này khi được
biến thành những câu ca dao, câu vè, chúng trở thành một hình thức văn
nghệ, giải trí.
Thông qua sự giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể loại thơ được tăng
dần. Từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Trong các
thể loại thơ ở Việt Nam ta có thể kể đến thơ lục bát, song thất lục bát…;
các thể loại thơ Đường như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn
bát cú… rồi đến thơ mới và thơ tự do. Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức
hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác hầu như đều có một
cấu trúc nhất định. Chặt chẽ nhất là các thể thơ Đường, trong đó cấu trúc về
nội dung, luật về số chữ trong câu, số câu trong bài, về cách gieo vần quyết
định thể loại của bài thơ. Sự khắt khe trong cấu trúc làm cho thơ Đường trở
thành một loại hình văn học chỉ dành riêng cho các tầng lớp trung lưu trở

lên, là những người có giáo dục chính tắc.
Hiện nay, thơ trở thành một hình thức nghệ thuật hầu như ai cũng biết
đến. Không ai đã từng thông qua một quá trình giáo dục mà không biết một
vài câu thơ. Thơ còn là một hình thức để bày tỏ tâm tư và chứa đựng tính
sáng tạo của con người. Có thể nói, sự tồn tại của thơ đi song song với sự
tồn tại của ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ tức là còn thơ.

13
Một số đặc điểm về hình thức của thơ ca:
- Luật thơ: Toàn bộ những qui tắc tổ chức ngôn từ trong sáng tạo thơ như
phân dòng, số tiếng, ngắt nhịp, gieo vần, bằng trắc…
- Vần: Một phương diện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại
không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo
nên tính hài hòa và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ.
Trong thơ, vần thể hiện ba chức năng: tách biệt các dòng thơ và tạo sự
liên kết giữa chúng: tạo âm hưởng, tiếng vang trong thơ; tạo tâm thế “ chờ
đợi vần” đối với các tiếng xuất hiện sau đó ở vị trí nhất định nhằm làm nổi
bật ý nghĩa của từ hiệp vần. Trong thơ Việt có hai cách gieo vần:
Gieo vần ở giữa câu (Yêu vận hay vần lưng): Chữ cuối của câu trên vần
với một chữ nằm bên trong câu dưới như trong thể thơ lục bát, chữ cuối câu
có sáu chữ vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ sau đó. Ví dụ:
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
( Nguyễn Du- Truyện Kiều)
Gieo vần ở cuối câu (Cước vận hay vần chân): Các chữ ở cuối câu vần
với nhau. Ví dụ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

( Xuân Diệu- Đây mùa thu tới)
- Điệu: hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và
nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu
và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính.
Âm hưởng của vần: Vần bằng thường gây cảm giác nhẹ nhàng, mềm
mại. Ví dụ:
Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài

14
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi.
Vần trắc thường gây cảm giác mạnh mẽ, động đậy. Ví dụ:
Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi.
Tiết tấu của câu: Tiết tấu là nói đến cái nhịp, cái điệu của câu thơ. dựa
vào chỗ ngắt đoạn, tức chỗ chia câu thành từng vế, mỗi vế có nghĩa trọn
vẹn. Đó là nhịp dài ( ), khi ngâm người ta ngừng lại ngân nga lâu một
chút. Ngoài ra, trong mỗi vế, khi ngâm tùy theo hứng, người ta cũng có thể
ngừng lại ngân nga ngắn hơn ở những chỗ vế chia thành từng bộ phận, đó
là nhịp ngắn (-). Ví dụ:
Dương gian (-) hé rạng (-) hình hài ( )
Trời (-) se sẽ lạnh (-), đất ngai ( ) ngái mùi( )
Từ (chữ) trong thơ văn: giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó
miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các từ lại gây cảm xúc về âm nhạc.
Sự kết nối khéo léo giữa hai tính chất này của ngôn ngữ thúc đẩy sự tìm tòi
các từ có âm thanh hay, phù hợp với tình cảm người viết muốn truyền đạt,
đồng thời tìm tòi những từ mới. Tính nhạc còn thể hiện trong việc sử dụng

các từ diễn tả âm thanh như rì rào, vi vút, ầm ầm, lanh canh… Chính vì
tính chất này, việc làm thơ nhiều khi tương tự như việc làm toán, hay việc
bài binh bố trận trong quân sự, mà bài toán hay kẻ thù phải chinh phục
chính là cảm xúc của họ, và câu chữ hoặc từ là phép toán hay lực lượng
quân đội mà họ có, và người làm thơ phải nhanh chóng tìm ra được phương
pháp thể hiện tình cảm của mình dưới một hình thức cô đọng, hợp lý.
- Nhịp điệu: Một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật
trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng hay luân
phiên của các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hoặc quá trình
nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mĩ.

15
Ở cấp độ tổ chức văn bản, đơn vị cơ bản của sự lặp lại trong thơ là dòng
thơ với độ dài của nó gồm số tiếng và vần như là điểm ngắt của nó. Vì vậy,
mỗi thể thơ có một nhịp điệu riêng. Dòng thơ lại có kiểu ngắt nhịp của luật
thơ, có độ dài ngắn, cân đối hoặc không cân đối khác nhau…
- Tứ thơ: là tình cảm, hình ảnh chủ đạo mà bài thơ muốn truyền đạt. Cấu
tứ của bài thơ là cấu trúc và ý tưởng gộp lại. Cách sắp xếp các câu thơ, sự
sắp xếp của bài thơ, luật sử dụng trong bài thơ, vần điệu và tính nhạc đều là
một phần của cấu tứ. Để có một cấu tứ tốt, người làm thơ thường phải nâng
tầm mắt mình cao hơn tình cảm của mình, bao quát toàn bộ bài thơ, làm
chủ chính tác phẩm của mình.
- Tính hội họa trong thơ: hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ
bản. Người làm thơ, trước khi viết thơ, phải có “cảm hứng". Những hình
ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm cả các khung cảnh ở bên ngoài
quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có
thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy có thể động vào những vật thể,
ngửi thấy mùi vị, sắc màu… Người làm thơ sẽ sống trong thế giới ấy trong
khi họ đang nghĩ về bài thơ, và họ rời xa cái thế giới mà họ đang sống.
Chính vì hiện tượng này, người ta thường có câu nói đùa, chỉ các nhà thơ

là thơ thẩn, nằm mơ hay mơ mộng như người trên cung trăng. Sự hưng
phấn do được sống trong thế giới riêng của mình, được thêm thắt, chắt lọc,
chiêm ngưỡng, cảm giác chúng…gây nên sự đam mê, thôi thúc người làm
thơ tiếp tục sống và diễn tả lại chúng bằng từ ngữ. Không chỉ quan sát và
diễn tả, họ còn phải nâng sự quan sát của họ lên đến một mức độ nhạy bén,
hoa mỹ, không tầm thường - đây chính là sự khác biệt giữa thơ và truyện
hay với các loại hình nghệ thuật khác.
Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các
bài thơ. Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng. Có những
hình ảnh khắc khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ
sộ, gớm ghiếc… Mỗi hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của

16
thi sĩ lúc họ viết. Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm thấy trong
tập Truyện Kiều của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Do ảnh hưởng quan niệm hội họa của thời đại, Nguyễn Du thường sử
dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình. Phong cảnh đơn sơ, chấm
điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức quyến rũ.
Một câu thơ khác của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hay bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
1.2. Khái niệm thơ tự do
Xét theo tiêu chí luật lệ, Từ điển Thuật ngữ văn học chia thơ thành hai

thể loại lớn là thơ cách luật và thơ tự do.
Thơ cách luật Việt Nam hình thành và phát triển trong nền văn học
trung đại từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Theo nhà nghiên cứu văn học Trần
Thanh Đạm: “Thơ cách luật bao gồm tất cả những bài thơ làm theo những
thể thức ổn định, cố định về mặt thi pháp” [29, tr. 19]. Ông cho rằng thơ
cách luật Việt Nam có hai nguồn: nguồn thơ cổ điển Trung Quốc (thất ngôn
bát cú đường luật, ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt…) và nguồn thơ dân gian
Việt Nam (lục bát, song thất,…).
Đối lập với thơ cách luật là thơ tự do. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Thơ tự do là hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ
không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, chữ, niêm đối…
Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phân dòng và xếp

17
song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể có
vần.
Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có
thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau, hoặc
hoàn toàn tự do. Ví dụ: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu, Đất nước
của Nguyễn Đình Thi… Đặc điểm chú ý của thơ tự do thường là phá khổ-
không theo khổ 4 dòng, 6 dòng đều đặn ngay ngắn. Đặc điểm thứ hai là có
thể mở rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành hàng chục tiếng, gồm nhiều
dòng trong, có thể sắp xếp thành “bậc thang” để tô đậm nhịp điệu ở trong
câu, có thể xen kẽ câu ngắn dài thoải mái.
Thơ tự do xuất hiện từ nhu cầu đòi hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản
ánh được những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể hiện được
những cách nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ. Trên thế giới, U. Uýt- man, P.
Nê- ru- đa, N. Ghi- den… là những nhà thơ nổi tiếng về thơ tự do”
[18, tr. 318].
Lối thơ này đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Phục Hưng, như trong các

tác phẩm của William Shakespeare. Có quan điểm cho rằng thơ tự do đặt
tầm quan trọng về cách đọc thơ, hay sự bố trí theo chiều dọc của tờ giấy
hơn, và nhịp điệu của thị giác mới là phần quan trọng. “Đến thời Phục
hưng, thơ không vần tiếng Anh với kỹ thuật vắt dòng, phá bỏ cách đọc
ngừng lại ở cuối dòng. Đọc từ dòng trên vắt xuống dòng dưới theo cú pháp
văn phạm, rõ chữ, và câu liền mạch. Sau này, vào đầu thế kỷ 20, thơ tự do
cũng theo cách đọc như thế. Nhưng giữa thơ không vần và thơ tự do vẫn có
sự khác biệt khi đọc. Với loại thơ tự do dùng kỹ thuật dòng gãy, trình bày
dòng ngắn dài, để tạo nhịp điệu thị giác trên mặt giấy, khi đọc lên, không
đọc theo dòng mà theo câu, mục đích chỉ để nghe rõ âm thanh của từng
chữ. Nhịp điệu thị giác mới là phần quan trọng, qua đó, người đọc lần theo
tiến trình phân tích để tìm ra ý nghĩa bài thơ. Như vậy, để hiểu một cách
toàn vẹn bài thơ loại này, người đọc phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau,
âm thanh của chữ, nhịp điệu của câu dòng và ý nghĩa trong tiến trình phân

18
tích. Với loại thơ trình diễn, gần với sự ứng tác thì người nghe dễ bị lôi
cuốn bởi khả năng trình diễn và cách đọc của người đọc thơ. Như vậy cách
đọc của thơ tự do không thể hiểu theo nghĩa của thơ truyền thống, nhịp
điệu thị giác và cách trình diễn quan trọng hơn phần âm thanh của tiếng
nói”. [36]
Thơ tự do ở Việt Nam thực sự được biết đến từ phong trào thơ Mới
1932- 1945. “Một đóng góp lớn lao nhất, một thành tựu vĩ đại không thể
chối cãi được là phong trào thơ Mới chỉ trong một thời gian rất ngắn đã thử
nghiệm thành công hàng loạt thể thơ, từ thể 2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12 tiếng
đến thơ tự do (hỗn hợp thể), đến cả thơ văn xuôi, tức là tất cả các thể thơ có
thể có đối với loại hình ngôn ngữ đơn tiết đa thanh của tiếng Việt”
[ 43, tr. 42].
Chữ tự do ở đây có thể hiểu là sự thoát thân khỏi sự kiềm chế của các
luật thơ. Nhà thơ muốn chạy theo cảm hứng, theo tình cảm, lấy chữ để biểu

tả nội tâm thay vì để cho con chữ, để cho những luật lệ bắt người ta bị kìm
kẹp, bị gò bó. Phan Khôi viết trong Phụ nữ Tân Văn - số 132:
“… lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi
lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán
trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè
ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói
không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói,
mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra
mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là dễ ức”.
Hay như bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi
tên là Xuân về:
“Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giác mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ

19
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng
Này, này! Bạn! Xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, lòng vồn vã
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi

Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới
Xuân về”.
Thơ tự do ngày càng phát triển và trở thành khuynh hướng phổ biến của
thơ ca Việt Nam hiện đại. Cho đến nay, thơ tự do vẫn là sự lựa chọn thích
hợp nhất của các nhà thơ. Nó là hình thức ưu việt, có khả năng phản ánh
cuộc sống phong phú, rộng rãi hơn bất cứ một thể thơ nào khác và nhờ vậy
nó gần gũi với cuộc sống hơn. Thơ tự do cũng tạo nên những sắc thái biểu
hiện mới cho thơ ca, tiến dần lên thơ không vần và thơ văn xuôi.
1.3. Khái niệm thơ văn xuôi
Nói đến thơ văn xuôi là đề cập đến một thể tài thơ, nhìn về đại thể còn
ít phổ cập trong tâm lí sáng tác cũng như đối với tâm lí tiếp nhận. Song từ
lâu, ở Việt Nam ta cũng như ở nước ngoài, tùy theo những đặc điểm riêng
biệt, bên cạnh số đông sáng tác theo các thể tài thơ với luật lệ đã trở thành
khuôn thức và thói quen từ lâu đời của mỗi dân tộc hay trong từng nước, từ
nguồn nhỏ của tư duy thơ nhân loại vẫn tuôn chảy không cạn một mạch thơ
muốn tung phá, thoát ra khỏi khuôn khổ quy ước về dòng thơ, câu thơ, vần,

20
tiết tấu. Loại thơ tự do này, về văn bản có khuynh hướng gần gũi với cấu
trúc câu và bài theo kiểu ngôn từ văn xuôi. Vì vậy người ta tạm gọi nó là
thơ văn xuôi.
Là một thể loại trung gian, ngay từ khi xuất hiện, thơ văn xuôi đã thu
hút rất nhiều các nhà nghiên cứu, phê bình, sáng tác. Từ góc nhìn riêng của
mình, mỗi người đưa ra một quan niệm, một cách hiểu riêng về thơ văn
xuôi. Do đó hiện nay, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về
thơ văn xuôi. Sau đây là một số quan điểm tiêu biểu.
1.3.1. Quan điểm xác định thơ văn xuôi dựa vào tiêu chí hình thức
Trong lời giới thiệu hợp tuyển mang tính chất đột phá “Thơ văn xuôi:

Hợp tuyển quốc tế”, Michael Benedikt định nghĩa thơ văn xuôi là “một thể
tài thơ được viết bằng văn xuôi một cách có chủ ý, và được đặc trưng bởi
việc sử dụng mạnh mẽ hầu như tất cả mọi phương diện của thơ ca, trong đó
bao gồm hầu hết các phương tiện của thơ luật, ngoại trừ sự ngắt dòng”.
Ông cũng đưa ra danh sách những cái mà ông gọi là tài sản đặc biệt của thơ
văn xuôi bao gồm: sự chú ý đến vô thức và logic riêng của nó, việc sử dụng
những mẫu thức lời nói hằng ngày, thông tục, sức mạnh của sự nhìn xa
trông rộng, dựa trên óc hài hước, sự giải thoát khỏi những nghi ngờ và chủ
nghĩa hoài nghi”.
Cũng dựa vào tiêu chí này, trong bài viết “Thơ văn xuôi- nhu cầu tự
thân của thời đại”, tác giả Dương Kiều Minh cho rằng: “Thơ văn xuôi xuất
hiện như là một thể thức lưỡng tính, có nghĩa nó phải trước hết là thơ, sau
phải mang hình thức của văn xuôi, đến độ nếu nhìn bề ngoài rất khó phân
biệt rằng đó là một bài thơ theo quan niệm truyền thống. Hai yếu tố này
phải là một, hợp nhất, hòa quyện trong một thể thống nhất mang tính lý
tưởng mới tạo ra thơ văn xuôi” [34].
1.3.2. Quan điểm xác định thơ văn xuôi xét trên phương diện ngôn ngữ
Trong bài viết “Thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do”,
Hữu Đạt vừa đưa ra định nghĩa về thơ văn xuôi, vừa chỉ rõ sự khác biệt
giữa thể thơ này với câu văn xuôi: “Đứng trên phương diện ngôn ngữ thì

21
thơ văn xuôi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do. Ở thể thơ này, đơn vị
câu thơ thường kéo dài hơn câu thơ tự do. Về hình thức câu, nó có dáng
dấp gần với một câu văn xuôi nhưng lại khác câu văn xuôi ở chỗ mang
nhiều hình ảnh, nhiều chất thơ và được hình thành do cảm xúc trực tiếp của
nhà thơ. Còn câu văn xuôi thường nặng về cách đánh giá, cách nhận định
có tính lí trí. So với các thể thơ trước nó, thơ văn xuôi có ưu điểm là diễn tả
được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, những ý thơ
liên tiếp. Do đó, trong một câu thơ văn xuôi, người ta thường thấy bề bộn

những sự kiện, những hình ảnh, những cảm xúc… có khi còn lồng vào
nhau hoặc đan chéo nhau” [ 23, tr. 630].
Cùng quan điểm với Hữu Đạt, tác giả Nguyễn Xuân Nam còn phân biệt
sự khác nhau giữa thơ văn xuôi và thơ tự do: “Thơ văn xuôi là một trong ba
hình thức cơ bản của thơ xét về phương diện tổ chức ngôn ngữ (thơ cách
luật, thơ tự do, thơ văn xuôi) là loại sáng tác dùng văn xuôi để biểu hiện
một nội dung tư tưởng tình cảm đầy chất thơ. Thơ tự do khác thơ cách luật
ở chỗ không chịu những ràng buộc của những quy tắc định trước về số khổ,
chữ trong từng dòng, về cách gieo vần cũng như âm điệu tiết tấu, đến vần
để có thể ngâm đọc được. Còn thơ văn xuôi tập trung chú ý vào vẻ đẹp của
tư tưởng tình cảm, vào màu sắc tế nhị của cảm xúc, vào những khám phá
mới mẻ của hình ảnh. Thơ văn xuôi cũng tôn trọng vẻ đẹp của ngôn ngữ có
nhịp điệu. Đó là một loại văn xuôi trữ tình có nhịp điệu. Vẻ đẹp chủ yếu
của nó là ở ý cảnh”. [23, tr. 658]
1.3.3. Quan điểm đồng nhất thơ văn xuôi với văn xuôi có chất thơ
Khái niệm văn xuôi có chất thơ được Baudelaire chỉ rõ trong cuốn
“Những tiếu phẩm thơ văn xuôi nhỏ” của ông (1862): “Ai trong chúng ta
trong những ngày đầy tham vọng, lại không mơ tưởng đến một phép lạ của
thể văn xuôi- thơ du dương, không điệu, không vần hơi mềm và hơi cứng,
để có thể thích ứng với những chuyển động trữ tình của tâm hồn, với làn
sóng nhấp nhô của mơ mộng, với những xúc cảm bất thường của lương
tri?”

22
Thực tế ranh giới giữa thơ văn xuôi và văn xuôi có chất thơ rất khó xác
định. Nhiều nhà nghiên cứu đã lấy đặc điểm văn xuôi có chất thơ để định
nghĩa thơ văn xuôi. Năm 1663, cha xứ địa phận La Bresche phát biểu về
thơ văn xuôi như sau: “Diễn giả dường như bay bổng bằng lời hùng biện
hoặc sứ giả say sưa khi mô tả kì tích lịch sử, đó là những người đích thực
làm thơ bằng văn xuôi”.

Hay theo nhà thơ Xuân Diệu thì: “Chúng ta cũng biết rằng có những bài
thơ mà không chứa đựng một cảm xúc thơ, đó chỉ là những bài văn vần khô
khan lạnh lẽo; trái lại, có những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm
thơ, đọc vào như tưới thấm tâm hồn người, vừa có hình tượng đẹp, vừa có
âm thanh hay, lại có nhịp điệu tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi
những bài văn xuôi có chất thơ ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một
sự thay đổi về chất lượng, về tính chất và hóa thành những bài thơ bằng văn
xuôi”. [23, tr. 611]
Trên đây là một số quan điểm tiêu biểu bàn về khái niệm thơ văn xuôi.
Mặc dù chưa đầy đủ, khái quát nhưng nó cũng đã chỉ ra được những đặc
trưng cơ bản nhất về thể thơ mới lạ này. Thơ văn xuôi không đồng nhất với
văn xuôi có chất thơ, thơ tự do, thơ không vần… nhưng để nhận diện thơ
văn xuôi, chúng ta cần đặt nó trong mối quan hệ với các thể loại lân cận
này.
Qua những ý kiến khác nhau về thơ văn xuôi, chúng tôi nhận thấy rằng
không thể đưa ra một định nghĩa chính xác, thống nhất và câu hỏi “thơ văn
xuôi là gì?” hiện nay vẫn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi. Chúng tôi tạm
nhất trí với định nghĩa của Từ điển thuật ngữ Văn học: “Thơ văn xuôi là
một hình thức cơ bản của thơ viết bằng văn xuôi. Thơ văn xuôi khác thơ tự
do ở chỗ không phân dòng, không dùng hình thức dòng thơ làm đơn vị nhịp
điệu, không có vần. Chất thơ của thơ văn xuôi được tạo nên bởi cấu tứ và
suy tưởng giàu sức khêu gợi, bất ngờ, chất triết lý thâm thúy, mơ mộng”.
[18, tr. 319]

23
Như vậy, chúng ta có thể xác định thơ văn xuôi dựa trên hai dấu hiệu:
thứ nhất, về hình thức, thơ văn xuôi là một thể thơ được trình bày dưới
dạng văn xuôi (gồm chuỗi câu liên tục, không ngắt dòng, không có vần);
thứ hai, về bản chất, thơ văn xuôi vẫn đảm bảo các phẩm chất định tính của
thơ (cấu tứ, nhịp điệu, giọng điệu, chất triết lí, hình ảnh thơ…).

1.4. Sơ lược sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi
1.4.1. Trên thế giới
Trên thế giới, thơ văn xuôi đã tồn tại hơn thế kỉ với tên tuổi của các nhà
thơ nổi tiếng như Whitman, Baudelaire, Valery, Tagore…
Người ta cho rằng, thơ văn xuôi chính thức xuất hiện vào năm 1842 ở
Pháp qua bài thơ văn xuôi Gaspard bóng đêm của nhà thơ Aloysins
Bertrand, như là một phản ứng chống lại một lối thơ niêm luật chặt chẽ
đang thịnh hành thời bấy giờ là thơ alexandrin. Tuy nhiên mầm mống của
nó phải kể từ sáu bài thơ văn xuôi có xen lẫn các vần thơ trong tập thơ
Tụng ca bóng đêm của nhà thơ lãng mạn Đức Novails (nam tước
Hardenberg), xuất bản năm 1800, trước khi ông mất một năm, khi ông 29
tuổi và chưa kịp kết hôn.
Nhưng phải đến cuối thế kỷ XIX thì nó mới được tiếp nhận rộng rãi bởi
các nhà thơ tượng trưng Pháp, như Charles Baudelaire với tập thơ Những
bài thơ văn xuôi (1869, về sau tập thơ này được in lại với tên gọi mới là
Paris chán chường), như Stéphane Mallarmé với tập thơ Những lời vẩn
vơ (1897), Arthur Rimbaud với tập Khải huyền (1886), và một loạt các nhà
thơ tượng trưng đương thời khác như Paul Valéry, Paul Fort và Paul
Claudel. Từ đó thơ văn xuôi được xác lập vững vàng trong thơ ca Pháp. Và
một trong số những tác phẩm thơ văn xuôi xuất sắc nhất là tập Hoa đăng,
xuất bản năm 1886 của Rimbaua.
Ở Đức, thơ văn xuôi được các nhà thơ lãng mạn cuối thế kỉ XIX tiếp
nhận như Rainer. Maria Rilker…
Nước Anh từ cuối thế kỉ XIX cũng bắt đầu tiếp nhận thơ văn xuôi với
sự tham gia của Oscar Wilde. Tập Thơ văn xuôi của ông chính là ví dụ đầu

24
tiên của một truyền thống văn hóa có ý thức viết về thơ văn xuôi bằng tiếng
Anh. Sang thế kỉ XX, đã có những nhà thơ rất tích cực viết thơ văn xuôi
như Gertrude Stein, và Sherwood Anderson.

Ở Mỹ, thơ văn xuôi xuất hiện với đại diện tiêu biểu là Walt Whitman.
Nếu có một thi sĩ có thể gọi là vô song về thơ văn xuôi thì người đó là Walt
Whitman. Ông là một nhà thơ tiến bộ Mỹ bị bọn tư bản Mỹ dìm ghét, một
nhà thơ của nhân dân. Năm 1955, tập thơ nổi tiếng Ngọn cỏ của ông đã
được trên toàn thế giới kỷ niệm 100 năm ngày ra đời (1855); toàn bộ tập
Ngọn cỏ gồm 411 bài thơ, mỗi đoạn thơ không có số câu nhất định, không
có số tiếng nhất định, thơ không có vần; nhưng đầy một nhạc điệu nội tâm
của tình cảm, của hình tượng:
Không một nấm mồ nào của những người bị giết vì tự do mà lại không
có một hạt giống của tự do đâm chồi, rồi hạt giống đó sẽ lại đẻ ra hạt
giống.
Giống kia gió sẽ đưa xa và gieo xuống đất, và mưa dưỡng, tuyết tàn.
Mà không vô hình đi khắp địa cầu, thì thầm, khuyên nhủ, và báo hiệu…
Hỡi mây, ta tưởng như ta đã cất cánh lên với các ngươi, ta đã bay về
những châu xa xôi và đã hạ xuống đó.
Hỡi gió, ta tưởng như hơi gió cuốn ta.
Ta đã xuyên qua tất cả chỗ nào mà mọi con sông đã chảy, tất cả eo bể
của địa cầu.
Ta đã lấy các bán đảo và các tảng đá cao bất dịch làm bàn đạp để
nhảy đi, và từ đỉnh cao ta đã kêu gọi lên rằng:
“ Chào thế giới!”
Uýt- man chỉ làm một tập thơ duy nhất là Ngọn cỏ, chỉ dùng một thể
thơ duy nhất là thơ văn xuôi. Bí quyết của Uýt- man để làm cho tập thơ của
mình từ chỗ bị lơ là lúc đầu, đến 100 năm sau cả thế giới đều biết và đọc;
từ lúc đầu chỉ gồm có 12 bài thơ đến cuối cùng dày tới 411 bài; cái bí quyết
làm cho thơ văn xuôi của Uýt- man không những đẹp và hay, mà vẫn đứng
sừng sững như một hiện tượng núi non, bí quyết ấy ấy vẫn là sức sống, sức

25
cảm, sức nghĩ, sức yêu mến và sức đấu tranh, sức sáng tạo dồi dào và mạnh

mẽ… [23, tr. 617]
Thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp với việc diễn đạt những trăn trở,
suy tư triết lý và suy tưởng về nhân tình, thế sự. Đây là một lối thoát cho
các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn luận tự do về
số phận của con người và xã hội, khi mà các thể thơ có niêm luật gò bó
không đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề của thời đại. Chính vì
vậy mà thơ văn xuôi nhanh chóng được đông đảo các nhà thơ trên thế giới
tiếp nhận.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, một loạt các nhà thơ trên thế giới từ Âu
sang Á đã sáng tác thơ văn xuôi, trong đó có nhà thơ đã đoạt giải Nobel
văn học như nhà thơ Pháp Saint- John Perse (1960).
Ở Trung Quốc, Lỗ Tấn cũng đã sáng tác thơ văn xuôi, và ngày nay, nhà
văn Giả Bình Ao cũng có những bài thơ văn xuôi rất đậm chất lôgic triết lý:
“Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chín đỏ là nhờ có mặt trời. Thế thì củ
cải đó lớn lên trong lòng đất vì sao mà đỏ?
Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà
trời vẫn tươi sáng?
Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao
giờ sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ sai, vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”.
(Giả Bình Ao- Hỏi)
Thơ văn xuôi cũng rất phù hợp để diễn đạt dòng suy tưởng về cái tuyệt
đối, cái tinh khiết trong tình cảm. Nhà thơ siêu thực Pháp Paul Éluard, vào
những năm 20 của thế kỷ XX, đã có những câu thơ tình văn xuôi rất tinh
khiết, hướng tới cái tuyệt đối:
“Từ lúc còn trẻ tôi đã dang tay đón nhận sự trắng trong. Đó chỉ là một
tiếng vỗ cánh trên bầu trời vĩnh hằng của tôi, chỉ là một tiếng tim đập,
tiếng đập của một con tim đang yêu trong lồng ngực bị chinh phục. Tôi
không còn có thể bị sa ngã được nữa.

×