Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ QUANG TIẾN
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Thái Nguyên – Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ QUANG TIẾN
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60-62-16
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN VIẾT KHANH
Thái Nguyên – Năm 2010
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC CÁC BẢNG 4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ 5
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Mục đích nghiên cứu đề tài 7
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 7
CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC THU HỒI ĐẤT 8
1.1. Cơ sở lý luận về trình tự, thủ tục thu hồi đất 8
1.1.1. Khái niệm “thu hồi đất” và “trình tự, thủ tục thu hồi đất” 8
1.1.2. Ý nghĩa pháp lý của việc thu hồi đất 12
1.1.3. Cơ sở pháp lý cho việc quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và các vi
phạm pháp luật thường xảy ra khi thực hiện các thủ tục thu hồi đất 14
1.2. Chính sách khi thu hồi đất ở một số nước và Việt nam 16
1.2.1. Chính sách khi thu hồi đất ở một số nước 16
1.2.2. Chính sách thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để thực hiện thu hồi đất
ở Việt Nam 18
1.2.3. Chính sách thực hiện bồi thường hỗ trợ tái định cư ở tỉnh Thái Nguyên. 20
CHƢƠNG II ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 25
2.2. Nội dung nghiên cứu 25
2.2.1. Thực trạng công tác thu hồi đất và ảnh hưởng của nó đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 25
2.2.2. Đánh giá ảnh hưởng công tác GPMB tới đời sống nhân dân 26
2.2.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu hồi đất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên 26
2.3. Phương pháp nghiên cứu 26
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 26
2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu 29
CHƢƠNG III KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Khái quát điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội thành phố Thái Nguyên 30
3.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên 30
3.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội thành phố Thái Nguyên 33
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai và công tác thu hồi đất trên địa
bàn trên địa thành phố Thái Nguyên 40
3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất của thành phố 40
3.2.2. Thực trạng công tác quản lý đất đai 43
3.3. Thực trạng công tác thu hồi đất 49
3.3.1. Thực hiện triển khai công tác bồi thường , tái định cư ở Thành phố Thái
Nguyên 49
3.3.2. Những bất cập của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi
đất nông nghiệp 52
3.3.3. Thực trạng của công tác thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố
54
3.4. Ảnh hưởng của công tác thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống của các hộ nông
dân mất đất sản xuất 61
3.4.1. Thực trạng về cuộc sống của những người dân mất đất sản xuất 61
3.4.2. Đánh giá sự ảnh hưởng của thu hồi đất tới đời sống người dân khi mất đất 67
3.5. Một số kiến nghị của người dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp 70
3.5.1. Về đào tạo nghề chuyển đổi việc làm 70
3.5.2. Đảm bảo đời sống theo hướng phát triển sản xuất và dịch vụ 71
3.5.3. Một số ý kiến khác 72
3.6. Ảnh hưởng của công tác thu hồi đất đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của
thành phố 73
3.7 Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên 76
3.7.1. Về chính sách từ trung ương và của tỉnh 76
3.7.2. Nhóm giải pháp liên quan tới chính quyền Thành phố 80
CHƢƠNG IV KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 93
4.1. Kết luận 93
4.2. Kiến nghị 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
GPMB Giải phóng mặt bằng
BTGPMB Bồi thường giải phóng mặt bằng
CN Công nghiệp
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
VLXD Vật liệu xây dựng
KH-KT Khoa học kỹ thuật
GTGT Giá trị gia tăng
TDTT Thể dục thể thao
TPTN Thành phố Thái Nguyên
CTCC Công trình công cộng
QSDĐ Quyền sử dụng đất
NSDĐ Người sử dụng đất
SDĐ Sử dụng đất
CSHT Cơ sở hạ tầng
QLNN Quản lý nhà nước
KTTT Kinh tế thị trường
ATK An Toàn Khu
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Phân loại địa hình theo cấp độ dốc thành phố Thái Nguyên 31
Bảng 3.2. Diện tích, dân số theo đơn vị hành chính trên địa bàn Thành phố Thái
Nguyên 33
Bảng 3.3. Cơ cấu tổng sản phẩm theo giá thực tế phân theo 3 khu vực kinh tế của
Thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2006-2009 34
Bảng 3.4. Dân số tạm trú trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên 35
Bảng 3.5. Bảng thống kê lao động việc làm trên địa bàn Thành phố năm 2009 36
Bảng 3.6. Các chỉ tiêu kinh tế xã hội trên địa bàn Thành phố năm 2007-2009 37
Bảng 3.7. Cơ cấu hiện trạng sử dụng đất đô thị Thành phố Thái Nguyên năm 2009 40
Bảng 3.8. Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất năm 2007, 2008, 2009 44
Bảng 3.9. Tổng hợp giá trị phê duyệt về bồi thường GPMB 3 năm 2007-2009 51
Bảng 3.10. Kết quả công tác thu hồi đất trên địa bàn TP (2007-2009) 54
Bảng 3.11. Tổng hợp công tác thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn 56
Bảng 3.12. Một số thông tin cơ bản của các chủ hộ điều tra 60
Bảng 3.13. Tình hình biến động đất đai của hộ trước và sau thu hồi đất 62
Bảng 3.14. Tình hình chuyển đổi nghề nghiệp của hộ trước và sau thu hồi đất 62
Bảng 3.15. Thay đổi thu nhập của hộ qua quá trình thu hồi đất 64
Bảng 3.16. Tình hình sử dụng nguồn đền bù của hộ 65
Bảng 3.17. Ý kiến của các hộ điều tra về mức độ tác động của thu hồi đất 68
Bảng 3.18. Kiến nghị của lao động trong các hộ bị thu hồi đất sản xuất 70
Bảng 3.19. Ý kiến của các hộ điều tra về kế hoạch trong thời gian tới 71
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH VẼ
Hình 3.1: Bản đồ địa giới hành chính thành phố Thái Nguyên 30
Hình 3.2: Bản đồ hiện trạng sử dụng đất thành phố Thái Nguyên 42
Hình 3.3: Hình ảnh trước khi thu hồi đất để triển khai các dự án 57
Hình 3.4: Các dự án đang triển khai trên địa bàn 67
Hình 3.5: Các dự án, các khu đô thị trên địa bàn thành phố 69
Hình 3.6: Các dự án được đầu tư trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 73
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu sử dụng tiền đền bù giải phóng mặt bằng của hộ 65
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội đã phát sinh
hàng loạt những vấn đề về nhu cầu sử dụng đất của các cơ quan, đơn vị, các thành
phần kinh tế. Vì chỉ có đất đai mới là tiền đề để tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế.
Đi đôi với nó, công tác quản lý đất đai ngày càng nảy sinh những phức tạp do nhu cầu
sử dụng ngày càng tăng của xã hội.
Sau Luật Đất đai năm 1993, cùng với sự phát triển chung của cả nước tốc độ đô
thị hoá tại thành phố Thái Nguyên diễn ra ngày càng nhanh, từ đô thị loại 2 trở thành
đô thị loại I trực thuộc tỉnh vào năm 2010. Chính vì sự phát triển đó mà diện tích dành
cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Quan hệ kinh tế đất đô thị cũng được
thương mại hóa theo quy luật của kinh tế thị trường.
Công tác thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng phục vụ cho lợi ích
quốc gia và lợi ích công cộng tại thành phố Thái Nguyên đã và đang gặp không ít những
khó khăn: Với khoảng 75 % số đơn khiếu kiện của công dân trên địa bàn thành phố đều
liên quan đến công tác thu hồi đất, giá đất và chính sách đền bù giải phóng mặt bằng.
Các dự án phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu quốc kế dân ngày càng gặp nhiều khó
khăn trong công tác thu hồi đất vì người dân bất hợp tác với chủ dự án hoặc người dân
đưa ra nhưng yêu cầu đòi hỏi mà thực tế luật pháp chưa qui định hoặc chính sách nhà
nước chưa thể đáp ứng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa người có đất nông nghiệp với
việc thực thi quyền lực nhà nước đã và đang là vấn đề bức xúc trong quá trình quản lý
và điều hành của chính quyền các đô thị nói chung và thành phố Thái Nguyên nói riêng.
Vì vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm cải thiện vấn đề nêu trên là một trong những nhiệm
vụ cấp bách mà chính quyền thành phố đã và đang hết sức quan tâm.
Nhằm góp phần làm sáng tỏ thực trạng sử dụng đất cũng như mong muốn tham
mưu, tìm ra những giải pháp có hiệu quả nhằm khắc phục những vấn đề bức xúc nêu
trên, tôi triển khai nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp công tác thu hồi đất
nông nghiệp tại thành phố Thái Nguyên”.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Tìm hiểu công tác quản lý đất đai và công tác thu hồi đất trên địa bàn thành phố.
- Đánh giá tác động và ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến biến
động sử dụng đất của thành phố và ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến
các hộ nông dân mất đất sản xuất.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trong công tác thu hồi
đất nông nghiệp cũng như cải thiện đời sống kinh tế của hộ nông dân mất đất nông nghiệp.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Nghiên cứu lý luận về “thu hồi đất” và “trình tự, thủ tục thu hồi đất” các khó
khăn và thuận lợi khi thực hiện các trình tự, thủ tục thu hồi đất để đề ra giải pháp khắc
phục vừa đảm bảo lợi ích và an toàn cho người sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi ích cho
toàn xã hội, đảm bảo cho công tác quản lý nhà nước về đất đai.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống của người dân bị thu hồi đất
nông nghiệp, từ đó rút ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong công tác
thu hồi đất nông nghiệp và đề ra các giải pháp để khắc phục.
- Thông qua các nghiên cứu kiến nghị cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
vực thu hồi đất giúp cho công tác này đạt hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới.
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC THU HỒI ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận về trình tự, thủ tục thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm “thu hồi đất” và “trình tự, thủ tục thu hồi đất”
1.1.1.1.Khái niệm “thu hồi đất”
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đất đai nước ta có cơ cấu đa dạng
như: đất nông nghiệp, đất rừng, đất công nghiệp, đất khai thác khoáng sản. Tất cả được
quản lý, sử dụng, khai thác một cách hợp lý khoa học sẽ trở thành nguồn lực lớn mạnh.
Điều 17 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “đất đai, rừng núi, sông, hồ, nguồn nước
tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời… đều thuộc sở hữu toàn dân”. Tính nhất quán trong quan niệm xây dựng chế độ
sở hữu toàn dân được tiếp tục khẳng định tại Điều 1 Luật Đất đai năm 2003: “…Nhà
nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai”. Trên tinh thần đó, Nhà nước ta trong
quá trình quản lý đã phân phối và phân phối lại quỹ đất quốc gia theo nhiều mục đích
sử dụng cho nhiều chủ sử dụng. Để thực hiện điều này, việc thu hồi đất để có quỹ đất
là hết sức cần thiết.
Thu hồi đất không chỉ hiểu một cách thuần tuý là Nhà nước sẽ tước đi quyền sử
dụng của các chủ sử dụng đất mà còn để thiết lập một quan hệ sử dụng đất phù hợp với
lợi ích Nhà nước và xã hội. Thực tế thu hồi đất là giai đoạn kết thúc việc sử dụng đất
của chủ thể này nhưng là bước kế tiếp sử dụng đất của một chủ thể khác. Do vậy các
quy định về thu hồi đất cần kết nối được ba lợi ích của ba chủ thể quan trọng là: Nhà
nước - người bị thu hồi đất - người được phân phối đất.
Giáo trình Luật Đất đai 2005 - Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về
thu hồi đất như sau: “thu hồi đất là văn bản hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp Luật Đất đai để phục vụ lợi ích của Nhà nước
của xã hội hoặc xử lý hành chính hành vi vi phạm pháp Luật Đất đai của người sử dụng
đất”. (Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Đất đai 2005)
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo khoản 5, điều 4, Luật Đất đai năm 2003 thì thu hồi đất được hiểu: “là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã
giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định
của luật này”.
Qua phân tích trên, thu hồi đất được hiểu dưới hai góc độ cơ bản, đó là:
Thứ nhất, Thu hồi đất là biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp Luật
Đất đai được thể hiện dưới hình thức là một quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về giao đất, cho thuê đất. Đây là quyết định thể hiện quyền lực
nhà nước nhằm thực thi một trong những nội dung của nhà nước về quản lý đất đai.
Một quyết định thu hồi đất không đúng thẩm quyền hoặc trái thẩm quyền không làm
chấm dứt quan hệ pháp Luật Đất đai. Mọi quyết định thu hồi đất phải tuân thủ quy
định về thẩm quyền thu hồi đất. Thẩm quyền thu hồi đất phải tuân thủ Điều 44 Luật
Đất đai năm 2003.
Thứ hai, việc thu hồi đất phải xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội hoặc là
biện pháp chế tài nhằm xử lý các vi phạm pháp Luật Đất đai của người sử dụng đất.
Điều này có nghĩa Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế theo các trường hợp quy
định tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007. Mặt khác, trong nhiều
lý do để Nhà nước thu hồi đất thì các vi phạm pháp Luật Đất đai của người sử dụng
đất chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đây là các trường hợp không tuân thủ các quy định của
Nhà nước về quản lý và sử dụng đất, vi phạm với quy mô và mức độ nghiêm trọng dẫn
tới hậu quả là Nhà nước phải tước đi quyền sử dụng đất của họ. Thu hồi đất là một
biện pháp cần thiết để chấm dứt sự vi phạm của người sử dụng đất và lập lại kỷ cương
trong quản lý Nhà nước về đất đai.
Như trên đã phân tích, thu hồi đất có thể được hiểu: “là văn bản hành chính của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp Luật Đất đai để
phục vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành chính hành vi vi phạm pháp
Luật Đất đai của người sử dụng đất”.
1.1.1.2. Khái niệm “trình tự, thủ tục thu hồi đất”
Cho đến nay, chưa có khái niệm thống nhất về trình tự thủ tục thu hồi đất.
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo từ điển tiếng Việt, “thủ tục là những việc phải làm theo một trật tự nhất
định để tiến hành một công việc mang tính chất chính thức”. Thông thường thì thủ tục
được hiểu là “trình tự, cách thức thực hiện những hành động cần thiết cho giải quyết
bất kỳ công việc nào đó trên thực tế”. (Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng, 2004, tr.960)
Trình tự là “thứ tự thực hiện công việc có sắp xếp trước sau”. (Từ điển tiếng Việt –
NXB Đà Nẵng, 2004, tr.1037)
Thực chất trình tự, thủ tục thu hồi đất chính là một dạng của trình tự, thủ tục
hành chính. Việc thiết lập trình tự, thủ tục hành chính để thực hiện các công việc của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về thu hồi đất một cách khoa học sẽ tạo điều kiện
bảo đảm cho tiến trình quản lý được thông suốt và có hiệu quả, đảm bảo hoạt động thu
hồi đất được diễn ra trong một khuôn khổ pháp lý, trật tự ổn định.
Trên thực tế khi giải quyết một công việc nhất định, các cơ quan nhà nước cần
phải thực hiện theo những nguyên tắc pháp lý được xác định một cách cụ thể - các quy
phạm thủ tục. Cho nên, thủ tục có thể được hiểu là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay
quy định chung phải tuân theo khi làm những việc nhất định. Như vậy, trình tự, thủ tục
hành chính là thứ tự thực hiện thẩm quyền trong quản lý nhà nước, là cách thức Nhà
nước áp dụng để làm cho các quy định của pháp luật được đảm bảo thống nhất trong
quá trình thực thi. Đây là một bộ phận cấu thành thể chế hành chính giúp cho các cơ
quan nhà nước thực hiện chức năng của mình, đồng thời giúp cho các cá nhân, tổ chức
thực hiện các quyền của mình một cách dễ dàng.
Từ những điều trên, có thể hiểu trình tự, thủ tục thu hồi đất là “tổng hợp các
quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm xác lập trình
tự về không gian, về thời gian, là cách thức giải quyết công việc phát sinh của cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình thu hồi đất”.
Trình tự thủ tục thu hồi đất có một số đặc thù sau:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục thu hồi đất là thứ tự giải quyết công việc của Nhà
nước và công việc của các chủ thể có liên quan. Theo Luật Đất đai năm 2003, thu hồi
đất có thể chia làm ba loại: thu hồi do nhu cầu của nhà nước, thu hồi vì lý do đương
nhiên và thu hồi do vi phạm pháp Luật Đất đai. Do vậy trình tự, thủ tục giải quyết
tương ứng cho mỗi loại là không giống nhau. Ví dụ: quy trình thực hiện thu hồi đất
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh
tế khác với thu hồi đất do vi phạm pháp Luật Đất đai ở một số thủ tục như bồi thường
hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi.
Thứ hai, các quy phạm pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất so với các quy
phạm về nội dung tương ứng có tính năng động hơn, đòi hỏi phải được thay đổi nhanh
hơn trước những yêu cầu mới. Trình tự, thủ tục là do nhà làm luật đặt ra, trong một
chừng mực nhất định, nó lệ thuộc vào nhận thức chủ quan của nhà lập pháp. Nếu nhận
thức đó là phù hợp với thực tế khách quan thì trình tự, thủ tục hành chính sẽ mang tính
tiến bộ, thiết thực phục vụ cho cuộc sống. Nếu nhận thức đó không phù hợp với yêu
cầu khách quan thì sẽ xuất hiện những trình tự, thủ tục lạc hậu, chúng sẽ là lực cản kìm
hãm bước đi lên của xã hội. Có thể nhận thấy rằng trước thời điểm Luật Đất đai năm
2003 ra đời, các văn bản pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất chưa đồng
bộ, nhiều quy định không phù hợp với thực tế, thủ tục còn rườm rà, rắc rối làm tốn
nhiều thời gian công sức, làm nản lòng không ít các nhà đầu tư, nhiều dự án công trình
đã phải “bỏ lửng” hoặc không thực hiện được. Từ thực tế đó, nhiều sai phạm đã nảy
sinh ở nhiều địa phương trong cả nước, một bộ phận không nhỏ cán bộ có thẩm quyền
giao đất, cho thuê đất đã lợi dụng sơ hở của pháp luật để gây phiền hà sách nhiễu dân.
Nhiều người dân bất chấp, làm ngơ trước các quy định đó bởi việc thực hiện theo đúng
các quy định là khó khăn, không phù hợp với thói quen lâu đời của người dân. Trước
những tồn tại và bất cập nêu trên, sự cần thiết khách quan đặt ra là phải có sự thay đổi
căn bản chính sách, pháp luật về thủ tục thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2003 và các văn
bản hướng dẫn thi hành ra đời đã tạo ra sự thay đổi lớn về trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Thứ ba, trình tự, thủ tục hành chính thực hiện thu hồi đất đã và đang góp phần
cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ
tục. Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể đầu tư trong việc tìm kiếm địa điểm đầu tư
và nhanh chóng có “đất sạch” đưa vào sử dụng. Nhằm chủ động xây dựng quỹ đất cho
đầu tư phát triển, Luật Đất đai năm 2003 quy định nhà nước thực hiện việc thu hồi đất,
bồi thường giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch kế hoạch sử dụng đất được công bố
hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch kế hoạch sử dụng
đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Luật Đất đai năm 2003 cũng quy
định Nhà nước thực hiện thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các
dự án đầu tư lớn. Đối với các trường hợp khác mà việc sử dụng đất phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất thì nhà đầu tư được tự thoả thuận với chủ đang sử dụng để nhận
chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất
với tổ chức kinh tế và cá nhân khác. Điều đó có nghĩa là, nhà đầu tư có thể chủ động
lựa chọn hình thức phù hợp để có quyền sử dụng đất mà không nhất thiết chờ đợi từ
Nhà nước. Hơn nữa, không nhất thiết cứ phải thông qua các quyết định hành chính
trong khi họ có thể thiết lập với nhau các quan hệ dân sự. Thời gian là tiền bạc, các
nhà đầu tư có thể đi bằng con đường nhanh nhất và ngắn nhất để có quyền sử dụng đất
như mong muốn. Đó chính là lý do Nhà nước cho phép nhà đầu tư tự tìm kiếm mặt
bằng trong kinh doanh mà không phải thực hiện quy trình thu hồi.
1.1.2. Ý nghĩa pháp lý của việc thu hồi đất
Xuất phát từ lý do thu hồi đất là một trong những nội dung của quản lý Nhà
nước về đất đai vì vậy sự can thiệp của Nhà nước dựa trên những chính sách quy định
cụ thể của pháp luật có một vai trò vô cùng quan trọng. Ý nghĩa pháp lý của việc thu
hồi đất là rất lớn bởi nó liên quan đến quyền và lợi ích của ba chủ thể: nhà nước - nhà
đầu tư - người bị thu hồi đất.
Thu hồi đất có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước, nó tác động không nhỏ đến lợi ích của ba chủ thể: Nhà nước – người có nhu cầu
sử dụng đất – người có đất. Vấn đề cần đặt ra ở đây là cần đảm bảo hài hoà lợi ích
giữa họ, tạo nên sự đồng thuận với chính sách của Đảng và Nhà nước. Để giải quyết
mối quan hệ này, nhà nước cần đồng thuận với dân, coi quyền sử dụng đất là một tài
sản của dân. Đối với người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất bao gồm các doanh
nghiệp, nhà đầu tư, các tổ chức sử dụng đất của Nhà nước và một bộ phận dân cư
trong xã hội cũng cần có sự điều tiết về việc hưởng lợi này. Cụ thể, đối với các doanh
nghiệp, nhà đầu tư, Nhà nước cần áp dụng chính sách buộc họ cam kết thực hiện việc
thu hút con em của người nông dân bị mất đất vào làm việc, coi đó như là sự “trả
công” về sự “hy sinh” đất canh tác cho các liên doanh sử dụng làm mặt bằng sản xuất
kinh doanh. Đối với một bộ phận dân cư hưởng lợi từ việc thu hồi đất, cần nhanh
chóng áp dụng chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai sau khi thu hồi
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhằm đảm bảo công bằng về lợi ích giữa các đối tượng này. Nếu Nhà nước giải quyết
được hài hoà và công bằng về lợi ích kinh tế giữa người bị thu hồi đất với các đối
tượng được hưởng lợi từ việc thu hồi đất thì việc bồi thường giải phóng mặt bằng
không quá khó khăn, phức tạp và gây nhiều khiếu kiện kéo dài như hiện nay.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng đất để xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế đất
nước là rất lớn, đòi hỏi cần có một hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng. Thu hồi đất là
vấn đề nhạy cảm và mang tính thời sự, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người
sử dụng đất, của nhà nước và các chủ thể khác có liên quan. Bởi vậy, quy định về trình tự,
thủ tục thu hồi đất sao cho phù hợp với thực tiễn khách quan rất quan trọng và cực kỳ cần
thiết, tạo điều kiện cho các thủ tục hành chính về thu hồi đất được minh bạch hoá, tránh
được tình trạng lạm dụng quyền trong quản lý của các cơ quan nhà nước trong quá trình
thực hiện, góp phần giảm thiểu các vi phạm pháp Luật Đất đai.
Thực tiễn cho thấy, trong nhiều trường hợp, nguyên nhân chủ yếu phát sinh các
tranh chấp, khiếu kiện khi thu hồi đất là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi
không công khai, không minh bạch nên không nhận được sự đồng tình của người dân.
Ở nhiều nơi, thu hồi đất diễn ra không rõ ràng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thông báo cho người sử dụng đất
biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường,
giải phóng mặt bằng, tái định cư. Có nhiều trường hợp, người bị thu hồi đất không
nhận được quyết định thu hồi đất mà chỉ có thông báo, không xây dựng khu tái định cư
trước khi thu hồi hoặc tiến hành thu hồi đất mà chưa có quyết định thu hồi đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền… Chính những điều này đã gây nghi ngờ về sự công
tâm của cán bộ thực thi, trong một số trường hợp quá trình thu hồi đất không công
khai, minh bạch là nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực, bớt xén làm “xói
mòn” lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thu hồi đất là một quá trình diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ảnh
hưởng không nhỏ tới các chủ thể có liên quan. Quá trình này bao gồm nhiều thủ tục, trải
qua nhiều giai đoạn. Thủ tục nào pháp luật quy định trước thì thực hiện trước, nó là cơ
sở để tiến hành những bước tiếp sau. Trong quá trình thực hiện, không được bỏ qua,
lãng quên hay đốt cháy giai đoạn. Bởi vì chính bản thân các thủ tục này sẽ tạo nên một
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
khung pháp lý, một trật tự ổn định trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của cơ
quan nhà nước. Trước khi ra quyết định thu hồi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
phải xác định và công bố chủ trương thu hồi đất, chuẩn bị hồ sơ địa chính cho khu đất bị
thu hồi; lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể về bồi thường hỗ trợ tái định cư
và cần phải thông báo về quyết định thu hồi. Đồng thời, các giai đoạn này cũng được
quy định cụ thể về chủ thể tiến hành, cần những công việc gì, thời gian cụ thể cho quá
trình thực hiện. Chỉ khi có một trình tự, thủ tục hành chính tốt thì việc thực hiện quyền
mới diễn ra nhanh chóng, an toàn, tạo điều kiện cho các chủ thể sử dụng đất hợp pháp
được thực hiện các quyền của mình một cách thuận lợi, dễ dàng, giúp cho người sử
dụng đất có cơ hội để được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra công việc của các
cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nghiêm túc chấp hành thủ tục và nhanh chóng bàn
giao đất để thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời hạn chế quan liêu, cửa quyền của một bộ
phận cán bộ quản lý đất đai, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như tính chuyên
nghiệp của các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện thu hồi đất.
1.1.3. Cơ sở pháp lý cho việc quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và
các vi phạm pháp luật thƣờng xảy ra khi thực hiện các thủ tục thu hồi đất
1.1.3.1. Cơ sở pháp lý
Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai đã và đang đặt ra một đòi hỏi
bức bách của các ngành, các cấp và của đại đa số quần chúng nhân dân với kỳ vọng có
cơ chế quản lý đất đai thông thoáng, hấp dẫn để khuyến khích, thu hút các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư và tất cả các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất nhanh chóng có
đất để sản xuất; thông qua đó nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, khơi dậy nguồn lực
phát triển đất nước.
Luật Đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực
ngày 01/7/2004 đã quy định thu hồi đất thành một mục riêng (Mục 4 chương II điều
38-45), cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành:
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai năm 2003.
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường hỗ
trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về việc sửa đổi bổ sung một số
điều của các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
- Các thủ tục hành chính về thu hồi đất đã được bổ sung và khá hoàn thiện, giải
quyết được nhu cầu về mặt pháp lý mà trước đó vấn đề này còn bị “buông lỏng”, “thả
trôi”. Điều đặc biệt là Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ đã
chính thức quy định về một chu trình hành chính trong thu hồi đất làm cơ sở cho các
địa phương trong cả nước triển khai đúng quy định của pháp luật khi thu hồi đất, thực
hiện các dự án đầu tư, phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. Các văn bản quy
phạm pháp luật như vậy đã tạo ra một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, giải quyết
khá tốt mối quan hệ đất đai ở khu vực nông thôn, bước đầu đã đáp ứng được các mối
quan hệ đất đai mới hình thành trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và ngày
càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng an ninh và ổn
định xã hội.
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ qui định bổ sung
về qui hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là một
Nghị định được ban hành nhằm thể chế hoá thêm trình tự thủ tục thu hồi bồi thường
đặc biệt là nhóm đất nông nghiệp nhằm khắc phục một số những bất cập mà những
văn bản nêu trên chưa khắc phục được.
Có thể khẳng định rằng sự ra đời của các văn bản pháp luật trên là tất yếu,
khách quan, có giá trị thực tiễn, nó đã tạo ra được hành lang pháp lý, tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình các chủ thể quản lý thực hiện trình tự, thủ tục thu
hồi đất.
1.1.3.2. Các vi phạm pháp luật thƣờng xảy ra khi thực hiện các thủ tục về
thu hồi đất
Về phía những người quản lý: Việc quy hoạch đất đai, thu hồi đất giải phóng
mặt bằng là công tác liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và cần có sự quan tâm đặc
biệt của nhà nước. Thực tế hiện nay, các vi phạm do các chủ thể quản lý thực hiện do
làm trái các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất diễn ra rất đa dạng
như: Định giá đất sai, phân loại đất không sát theo luật định, khai tăng diện tích đất,
tăng hộ để lấy tiền đền bù, bớt xén tiền đền bù…
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bên cạnh các sai phạm từ phía chính quyền, những hành vi vi phạm của người
dân gây cản trở quá trình thu hồi đất diễn ra không ít. ở nhiều nơi, người sử dụng đất
không bàn giao mặt bằng khi đã có quyết định thu hồi đất, nhiều hộ dân cản trở tiến độ
thi công công trình, “chây ì” không chịu nhận tiền bồi thường, không chịu di dời đến
nơi ở mới. Một số trường hợp người dân biểu thị sự không đồng tình và yêu cầu đòi
bồi thường giá cao hơn bằng cách gây áp lực với chính quyền và doanh nghiệp thông
qua các hành động mang tính tiêu cực, thái quá chống lại người thi hành công vụ, đòi
bồi thường quá đáng gây mất ổn định xã hội đã và vẫn đang xảy ra gây căng thẳng cho
các cấp chính quyền cũng như những cán bộ trực tiếp quản lý…
1.2. Chính sách khi thu hồi đất ở một số nƣớc và Việt nam
1.2.1. Chính sách khi thu hồi đất ở một số nƣớc
1.2.1.1. Ở Trung Quốc
Có thể nói, mục tiêu bao trùm lên chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là
hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị
ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là
không thể tránh khỏi thì cần có sự chuẩn bị cẩn thận phương án đền bù, trên cơ sở tính
toán đầy đủ lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu
hồi đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì người
nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường cho người bị thu hồi đất. Người
bị thu hồi đất được thanh toán ba khoản tiền: tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp về tái
định cư, tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất. Tiền bồi thường cho hoa màu, cho
các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức bồi thường cho giải tỏa mặt bằng được thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo
cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản lý giải phóng mặt
bằng được giao cho Cục quản lý tài nguyên đất ở địa phương đảm nhiệm. Tổ chức, cá
nhân được quyền sử dụng thửa đất nào sẽ trả tiền giải tỏa mặt bằng thửa đất đó.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi giải phóng mặt bằng, phương thức chủ
yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính đến chênh lệch giữa giá xây
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dựng lại nhà mới và nhà cũ; giá đất theo quy định và trợ cấp về giá tại thời điểm giải
phóng mặt bằng.
Việc bồi thường nhà ở cho dân ở thành phố khác với việc bồi thường cho dân ở
nông thôn, bởi có sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai ở thành thị và nông thôn.
Đối với nhà ở của người dân thành phố, nhà nước bồi thường bằng tiền là chính, với
mức giá do thị trường bất động sản quyết định qua các tổ chức trung gian để đánh giá,
xác định. Với nhà ở của người dân nông thôn, nhà nước thực hiện theo những cách
thức linh hoạt, theo đó mỗi đối tượng khác nhau sẽ có cách bồi thường khác nhau: tiền
bồi thường về sử dụng đất đai; tiền bồi thường về hoa màu; bồi thường tài sản tập thể.
Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở dĩ Trung Quốc có những
thành công nhất định trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dựa trên các yếu tố
sau: thứ nhất, đã xây dựng các chính sách và thủ tục rất chi tiết, ràng buộc đối với các
hoạt động tái định cư, đảm bảo mục tiêu tạo cơ hội phát triển cho người dân tái định
cư, tạo các nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư. Thứ hai, năng lực thể chế
của chính quyền địa phương khá mạnh. Chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm hoàn
toàn việc thực hiện chương trình bồi thường hỗ trợ tái định cư. Thứ ba, quyền sở hữu
đất tập thể làm cho việc thực hiện bồi thường hỗ trợ tái định cư có nhiều thuận lợi, đặc
biệt là ở nông thôn. Tiền đền bù cho đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia đình mà
được cộng đồng sử dụng để tìm kiếm, phát triển quỹ đất mới hoặc để phát triển kết cấu
hạ tầng.
Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm;
tốc độ tái định cư chậm, thiếu đồng bộ, giải phóng mặt bằng trước khi xây xong nhà tái
định cư
1.2.1.2. Ở Thái Lan
Cũng giống như ở nhiều nước khác trong khu vực châu Á, quá trình đô thị hoá
diễn ra nhanh chóng, mọi giao dịch về đất đai đều do cơ chế thị trường điều tiết. Tuy
nhiên, với những dự án do Chính phủ quản lý, việc đền bù được tiến hành thông qua
trưng cầu dân ý để định giá đền bù.
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Giá đền bù phụ thuộc vào từng khu vực, từng dự án. Nếu một dự án mang tính
chiến lược quốc gia thì nhà nước đền bù với giá rất cao so với giá thị trường. Nhìn
chung, khi tiến hành lấy đất của dân, nhà nước hoặc cá nhân đầu tư đều đền bù với
mức cao hơn giá thị trường.
1.2.1.3. Ở Hàn Quốc
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, trước tình trạng di dân ồ ạt từ các vùng
nông thôn vào đô thị, thủ đô Xơ-un đã phải đối mặt với tình trạng thiếu đất định cư
trầm trọng trong thành phố. Để giải quyết nhà ở cho dân nhập cư, chính quyền thành
phố phải tiến hành thu hồi đất của nông dân vùng phụ cận. Việc đền bù được thực hiện
thông qua các công cụ chính sách như hỗ trợ tài chính, cho quyền mua căn hộ do thành
phố quản lý và chính sách tái định cư.
Các hộ dân bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ do thành phố quản lý,
được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Xơ-un khoảng 5 km. Vào những
năm 70 của thế kỷ trước, khi thị trường bất động sản bùng nổ, hầu hết người dân có
quyền mua hoặc bán lại quyền mua căn hộ của mình với giá cao hơn nhiều lần so với
giá gốc
1.2.2. Chính sách thực hiện bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ để thực hiện thu
hồi đất ở Việt Nam
Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đang
được hoàn thiện để phù hợp với nhu cầu thực tế, từng bước nhằm đảm bảo quyền lợi
của người bị thu hồi đất, Nghị định 197/2004/NĐ-CP sau một thời gian thực hiện, đặc
biệt là sau sự ra đời của Nghị định 84/2007/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị định
69/2009/NĐ-CP của Chính phủ đã thể hiện được tính khả thi và vai trò tích cực của
các văn bản pháp luật. Vì thế, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong thời gian
qua đã đạt được một số kết quả nhất định, thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được xác định đầy đủ
chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao tạo điều kiện cho người dân bị
thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã được bổ
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sung và quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước
nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất.
Thứ ba, việc bổ sung quy định về quyền tự thỏa thuận của các nhà đầu tư cần
đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép cho các cơ quan hành chính trong
việc thu hồi đất.
Thứ tư, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ tái định cư đã giải quyết
được nhiều khúc mắc trong thời gian qua, giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện công tác bồi thường, tái định cư đạt hiệu quả.
Thứ năm, trên cơ sở thực hiện các quy định Luật Đất đai năm 2003, các Nghị
định hướng dẫn thi hành, sự định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình
thực tế các địa phương đã ban hành các văn bản pháp lý áp dụng cho địa phương mình,
làm cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hợp lý và đạt hiệu quả
cao hơn.
Thứ sáu, nhận thức của các cấp chính quyền về tầm quan trọng, ý nghĩa của
công tác thu hồi đất.
Bên cạnh những thành công như trên vẫn còn những tồn tại, vướng mắc khi tiến
hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong đó đặc biệt là vấn đề giá đền bù, gây những
bức xúc không nhỏ trong nhân dân. Những bất cập về chính sách bồi thường đã và
đang là tiền đề nảy sinh các mâu thuẫn trong xã hội. Vấn đề thu hồi đất đai, đền bù giải
toả vẫn được xem là nguyên nhân chính dẫn đến hàng loạt vấn đề về xã hội như gia
tăng nghèo đói, phát sinh bất công, gây mất ổn định xã hội, dẫn đến những khiếu kiện
của công dân. Từ đó không chỉ người dân bị điêu đứng mà nhiều dự án cũng phải dậm
chân tại chỗ hoặc phá sản do vướng mắc về công tác thu hồi đất và bồi thường giải
phóng mặt bằng.
Tóm lại, những vấn đề nảy sinh trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
là không thể tránh khỏi đối với bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển. Khắc phục những tồn tại đó sẽ đảm bảo sự ổn định, nâng cao điều kiện sống cho
người dân ở những khu vực có đất bị thu hồi, góp phần vào sự phát triển bền vững của
nền kinh tế. (Tạp chí Cộng sản tháng 6/2009)
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.2.3. Chính sách thực hiện bồi thƣờng hỗ trợ tái định cƣ ở tỉnh Thái Nguyên.
+ Về cơ chế chính sách
Để chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác bồi thường GPMB trên địa bàn tỉnh,
Tỉnh uỷ- HĐND- UBND tỉnh đã ban hành các cơ chế chính sách như sau:
- Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TU ngày 17 tháng 7 năm 2006 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường lãnh đạo công tác bồi thường GPMB.
- HĐND tỉnh Thái Nguyên có Nghị Quyết số 02/2005/NQ-HĐND ngày
25/7/2005 chuyên đề về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- UBND Tỉnh ban hành cơ chế, chính sách về đất đai, xây dựng, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư: Quyết định số 2690/QĐ-UB ngày 09/9/2002; Quyết định số
2044/2005/QĐ-UBND ngày 30/9/2005 Quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư; quyết định ban hành giá các loại đất hàng năm; quyết định ban hành đơn giá tài
sản, vật kiến trúc, cây cối hoa mầu gắn liền với đất… phục vụ công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đúng quy định pháp luật và gần đây nhất là Quyết định số 01/2010/QĐ-
UBND ngày 05/01/2010 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định thực hiện bồi
thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Chủ động phối hợp với các tổ chức: Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các cơ
quan truyền thông trong việc tuyên truyền vận động các đối tượng thực hiện chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi tiến hành GPMB.
- Thường xuyên chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc, các khiếu nại
tố cáo của công dân liên quan đến công tác BTGPMB; yêu cầu các ngành, các cấp
Chính quyền cơ sở nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức chấp hành pháp luật về
Đất đai, chấp hành nghiêm các quy định của Chính phủ, của UBND tỉnh về trình tự
thủ tục giải quyết công việc liên quan đến thu hồi đất, BTGPMB nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đất bị thu hồi để thực hiện
các dự án. Nhìn chung, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng hỗ trợ tái định cư từ
sau khi có Nghị định 197/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản quy định của tỉnh về
bồi thường GPMB trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cơ bản đã đáp ứng được mục tiêu,
yêu cầu đề ra.
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
+ Phổ biến và triển khai các văn bản về công tác BTGPMB
- Luật đai 2003 có hiệu lực thi hành; Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về Bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004
của Chính phủ về thi tiền sử dụng đất kèm theo thông tư hướng dẫn các Nghị định
trên được ban hành; UBND tỉnh đã giao cho sở Tài chính, sở Tài nguyên và Môi
trường mời chuyên gia cao cấp của Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên & Môi trường về
Thái Nguyên tập huấn 02 ngày cho UBND cấp huyện và chủ dự án trên địa bàn. Ngoài
lớp tập huấn tại tỉnh, Bộ Tài chính – Bộ Tài nguyên & Môi trường tổ chức tập huấn tại
Hà Nội, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và môi trường đã thông báo đến cấp huyện cùng
tham dự
- Các quyết định của UBND tỉnh ban hành cơ chế chính sách về đất đai, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư; đơn giá bồi thường tài sản, vật kiến trúc; đơn giá cây cối
hoa màu UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài chính, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Xây
dựng triển khai tập huấn đến các dự án lớn trên địa bàn.
- Quyết định 1883/2005/QĐ-UBND ngày 16/9/2005 của UBND tỉnh về hạn
mức đất ở khi giao đất và hạn mức công nhận đất ở; Quyết định 2044/2005/QĐ-
UBND ngày 30/9/2005 của UBND tỉnh về Thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. UBND tỉnh đã tổ chức tập
huấn đến cấp huyện và chủ dự án trên địa bàn. Sở Tài chính, Sở Tài nguyên & Môi
trường đã truyền đạt nội dung quyết định trên tới nhân dân qua chương trình phổ biến
pháp luật phát trên đài truyền hình 04 buổi.
- Chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho Sở Tài chính phối hợp với các ngành có liên
quan và UBND các huyện thảo luận, góp ý và lấy ý kiến nhân dân các xã, phường đại
diện cho 09 huyện, thành phố, thị xã trước khi UBND tỉnh ban hành Quyết định số
2044/2005/QĐ-UBND ngày 30/9/2005 và dự thảo chính sách bồi thường, hỗ trợ tái
định cư mới thay thế Quyết định số 2044/QĐ-UBND ngày 30/9/2005.
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư như công khai quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết, tiến độ thực hiện dự án,
quy trình thực hiện, công khai diện tích đất bị thu hồi và công khai phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đã được quy định tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và
Dự thảo mới thay thế quyết định số 2044/2005/QĐ-UBND đã đề cập.
+ Những tồn tại vƣớng mắc và nguyên nhân
* Những tồn tại vƣớng mắc
- Hệ thống các văn bản quy phạm: về lĩnh vực đất đai liên tục thay đổi dẫn tới
các cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải thay đổi phù hợp với
Luật Đất đai. Chính sách bồi thường, hỗ trợ GPMB theo Luật Đất đai và các văn bản
hướng dẫn mới có lợi cho người dân hơn chính sách bồi thường, hỗ trợ cũ. Điều này
làm cho người đã bị thu hồi đất trước đây cảm thấy thiệt thòi hơn so với chính sách
mới, tạo ra những thắc mắc đòi được bồi thường, hỗ trợ theo chính sách mới.
- Về hồ sơ đất đai: Có thể nói đây còn là một khâu yếu trong quản lý nhà nước
về đất đai gây nên những khó khăn cho việc triển khai thực hiện các chính sách bồi
thường, hỗ trợ GPMB khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định số 203/HĐBT ngày 21/12/1982 của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng,
quyết định số 142/QĐ-UB ngày 4/3/1984 của UBND tỉnh Bắc Thái đã quy định lộ giới
đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ song khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các
cấp chính quyền địa phương vẫn cấp đất ở cho các hộ vào phần đất thuộc lộ giới giao
thông đã quy định.
- Công tác đo đạc bản đồ và chỉnh lý hồ sơ đất đai chưa được thực hiện đầy đủ
và kịp thời, nên việc xác định vị trí ô thửa đất, chủ sử dụng đất mất rất nhiều thời gian
và kinh phí khi thực hiện thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ GPMB.
- Một số địa phương khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở không đúng
quy định, vượt trên hạn mức, không tách đất ở và đất vườn mà ghi chung trên giấy
chứng nhận là: chữ “T”, “thổ cư”, đất ở.
- Việc tách đất, chuyển nhượng chưa thực hiện đầy đủ theo quy trình của pháp
luật, khó khăn khi xác định chủ sử dụng đất để xác định bồi thường, hỗ trợ.
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Về tổ chức bộ máy: Chính phủ chưa có quy định rõ về mô hình, cơ cấu tổ
chức bộ máy làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: tại điều 41 Luật Đất đai
nói là việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái đinh cư do tổ chức phát triển quỹ đất
thực hiện nhưng Nghị định số 84/2007/NĐ-CP chỉ nói là tổ chức làm công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Nhận thức và thực hiện các văn bản pháp luật về đất đai, xây dựng, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư chưa có sự thống nhất, có chỗ, có nơi còn có nhiều cách
hiểu khác nhau.
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và
toàn thể nhân dân chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả thực hiện thu hồi và
GPMB còn thấp đặc biệt là ở cấp cơ sở.
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: bên cạnh hoạt động của cơ quan Thanh
tra Nhà nước theo quy định của pháp luật, đã thành lập các đoàn kiểm tra độc lập, song
việc tiếp nhận và giải quyết vẫn còn chậm, kéo dài.
* Nguyên nhân
Công tác quản lý nhà nước thuộc lĩnh đất đai qua nhiều thời kỳ có nhiều thay
đổi về cơ chế chính sách, đất đai luôn biến động theo sự phát triển của xã hội và theo
nhu cầu, mục đích sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất; dẫn đến việc ở
một số địa phương, thời gian nhiều năm trước đây cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ở chưa đúng quy định, cấp đổi giấy chứng nhận mới không thu hồi giấy cũ; việc
chỉnh lý biến động đất đai chưa kịp thời…
- Việc xử lý đối với các vi phạm Luật Đất đai chưa được kịp thời, thiếu kiên
quyết. Vẫn còn tình trạng quy hoạch treo, thu hồi đất cấp cho dự án treo không thực
hiện, nhân dân có nhu cầu sản xuất, xây dựng nhà ở nhưng không được cấp đất vì đất
nằm trong quy hoạch.
- Một số dự án đã thu hồi đất, đã phê duyệt phương án dự toán bồi thường song
không có kinh phí để chi trả cho nhân dân.