Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Thực trạng và giải pháp công tác quản lý thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.77 KB, 116 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá với yêu cầu
hội nhập khu vực và thế giới, các thành phần kinh tế đang phát triển nhanh chóng và
đa dạng.
Với vị trí là người “gác cửa” nền kinh tế đất nước, ngành Hải quan đã góp phần
quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du
lịch... phát triển. Ngành hải quan là cơ quan được Nhà nước giao trọng trách quản lý
về lĩnh vực ngoại thương nói chung, quản lý và tập trung các khoản thu liên quan đến
hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh. Quản lý Nhà nước về mặt hải quan là một
mặt của công tác quản lý Nhà nước về kinh tế với vai trò nòng cốt trong thực thi
chính sách kinh tế của Nhà nước, đặc biệt là với hoạt động nhập khẩu.
Đất nước ta hiện nay, với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá, ngành thuế nói
chung và thuế nhập khẩu nói riêng tương đối nhạy cảm với tình hình phát triển của
các nước trong khu vực cũng như của thế giới. Tuy nhiên, trong thực tế tình trạng
thất thu thuế đang trong chiều hướng gia tăng trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là
trong lĩnh vực nhập khẩu hàng hoá.
Trong thời gian qua, tuy đã đạt được những kết quả khả quan trong công tác quản
lý thu thuế nhập khẩu, nhưng do lưu lượng hàng hoá nhập khẩu qua cửa khẩu ngày
càng gia tăng, các thủ đoạn trốn lậu thuế và gian lận thương mại ngày càng tinh vi và
phức tạp nên tình trạng thất thu thuế là không thể tránh khỏi.
Là sinh viên học chuyên ngành Quản trị kinh doanh Thương mại sắp ra trường,
sau một thời gian thực tập tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội, được sự hướng dẫn
của thầy giáo và cán bộ tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội em chọn đề tài: “Thực
trạng và giải pháp công tác quản lý thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan thành
phố Hà Nội”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích rõ việc thực hiện chính sách
thu thuế nhập khẩu của Tổng cục Hải quan nói chung và của Cục Hải quan thành
phố Hà Nội nói riêng, từ đó tìm ra những nguyên nhân và các giải pháp hoàn thiện
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B


1
Chuyên đề tốt nghiệp

hơn nữa đối với việc thực hiện chính sách thu thuế nhập khẩu, nâng cao nguồn thu
thực hiện đường lối hội nhập kinh tế thế giới.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề về thuế nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế mở.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan
thành phố Hà Nội.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế nhập khẩu tại Cục
Hải quan thành phố Hà Nội
Do thời gian nghiên cứu và trình độ thực tiễn còn hạn chế nên chuyên đề không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và
những người quan tâm để chuyên để được hoàn chỉnh hơn.

Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THUẾ NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
TRONG NỀN KINH TẾ MỞ
I. Tổng quan về thuế, thuế nhập khẩu và vai trò của nó trong nền kinh
tế quốc dân
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về thuế
Ra đời và tồn tại cùng Nhà nước, từ khi hành thành đến nay thuế đã trải qua
quá trình phát triển và hoàn thiện lâu dài, đồng thời người ta đã đưa ra rất nhiều các
khái niệm về thuế trên các góc độ khác nhau:
Các nhà kinh điển cho rằng: “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng

không bù lại” và “thuế cấu thành phần thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản
hay thu nhập của người chịu thuế” (Lênin toàn tập - tập 15).
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra khái niệm thuế như sau: Thuế
là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ ngân sách Nhà
nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trên góc độ quản lý thuế, người ta đưa ra khái niệm về thuế như sau: Thuế là
hình thức huy động nguồn tài chính cho Nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước. Nguồn từ thuế là một phần thu nhập của các chủ thể trong xã hội. Để
có nguồn thu đó, Nhà nước dung quyền lực chính trị của mình bắt buộc các thể nhân
và pháp nhân đóng góp thông qua việc ban hành các luật thuế
Dựa vào sự khái quát kể trên cho thấy bản chất của thuế thể hiện trên ba khía
cạnh sau:
Thứ nhất, xét về hình thức biểu hiện, thuế là khoản nộp, là sự chuyển giao thu
nhập, là sự vận động của nguồn tài chính từ các thể nhân và pháp nhân vào trong tay
Nhà nước.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp

Thứ hai, xét về nội dung kinh tế, thuế là sự thể hiện, phản ánh quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước với các chủ thể khác khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài
chính
Thứ ba, xét về tính chất, thuế là hình thức động viên gắn liền với quyền lực
chính trị của Nhà nước, là khoản nộp có tính chất bắt buộc được pháp luật quy định
(về mức thu và thời hạn)
Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm về thuế như sau: Thuế là sự chuyển giao thu
nhập có tính chất bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ
và thời hạn được pháp luật quy định, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với

các chủ thể khác khi Nhà nước tham gia phân phối nguồn tài chính.
1.2. Khái niệm về thuế nhập khẩu
1.2.1. Quá trình hình thành thuế nhập khẩu
Khi hoạt động nhập khẩu ra đời, ban đầu chỉ là lệ phí mổi lần qua biên giới.
Xã hội phát triển, hoạt động thương mại diễn ra ngày càng rộng khắp, không chỉ giữa
các nước trong khu vực mà còn trên toàn thế giới. Hoạt động nhập khẩu có ảnh
hưởng đến nền kinh tế - xả hội của mỗi quốc gia. Cùng với xu hướng phát triển
chung, hoạt động nhập khẩu ngày càng phức tạp. Các quốc gia đã sử dụng công cụ
thuế để kiểm soát và điều tiết hoạt động nhập khẩu và coi đây là công cụ quản lý có
hiệu quả nhất.
Hoạt động nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế - chính trị - xã hội
của mổi quốc gia. Cùng với xu hướng phát triển chung, hoạt động nhập khẩu ngày càng
phức tạp. Các quốc gia đã sử dụng công cụ thuế để kiểm soát và điều tiết hoạt động nhập
khẩu và coi đây là công cụ quản lý hoạt động nhập khẩu có hiệu quả nhất.
Thuế nhập khẩu là một bộ phận của thuế quan. Thuế quan là biện pháp tài
chính mà các nước dùng để can thiệp vào quá trình hoạt động ngoại thương, buôn
bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Ngày nay thuế nhập khẩu là loại
thuế thu vào hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu qua biên giới của mổi nước, kể cả hàng hoá
nhập từ khu chế xuất của nước đó. Thuế nhập khẩu nhằm 3 mục tiêu chính:
* Tạo nguồn thu hợp lý cho ngân sách Nhà nước.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
4
Chuyên đề tốt nghiệp

* Thiết lập hàng rào thuế quan để bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp
lý có chọn lọc, hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ở trong nước.
* Kiểm soát hoạt động ngoại thương, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với việc mở rộng quan hệ kinh tế ngoại thương trong điều kiện nền kinh
tế mở, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá mậu dịch được Quốc hội khoá
VIII thông qua thàng 12 năm 1987 và có hiệu lực thi hành từ năm 1988. Kể từ ngày

đó, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung vào tháng 7 năm
1993 và tháng 5 năm 1998 (có hiệu lực từ 1/1/1999). Căn cứ vào Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
Quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp
thứ 10, Luất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được sửa đổi và bổ sung. Hiện nay áp
dụng Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14
tháng 06 năm 2005, có những quy định mới về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phù
hợp với thời kỳ mới và phù hợp với các quy định của các tổ chức kinh tế khu vực và
thế giới mà Việt Nam tham gia.
1.2.2. Khái niện thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là loại thuế quan đánh vào các loại hàng hoá, dịch vụ nhập
khẩu vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế nhập khẩu có thể đánh vào thành
phẩm hoặc đầu vào nhập khẩu (nguyên vật liệu và bán thành phẩm).
Như vậy, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu nhằm các mục tiêu sau:
 Bảo hộ sản xuất trong nước.
 Hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
 Tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
 Kích thích đầu tư sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất thay thế nhập khẩu.
 Công cụ gia tăng sức mạnh thương lượng với các đối tác.
2. Đặc điểm
2.1. Đặc điểm của thuế
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của
thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp

Nghiên cứu về thuế, người ta nhận thấy thuế có những đặc trưng riêng để phân biệt
với các công cụ tài chính khác như sau:
2.1.1. Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong

xã hội cho Nhà nước mang tính chất bắt buộc phi hình sự
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt
thuế với các hình thức huy động tài chính khác của ngân sách Nhà nước.
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ,
được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động
viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới
hình thức thuế - như một nhà kinh tế định nghĩa – là một phương thức phân phối của
Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế
được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những
quyền nào khác cho người nộp thuế.
Tính chất bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với
lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện
trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu
phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển
giao.
Thứ hai, trong xã hội văn minh, nhu cầu của các thành viên cộng đồng về
.hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Phần lớn hàng hoá này do Nhà nước sản
xuất và cung cấp. Để duy trì hoạt động đó bù đắp các chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá
công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo khẩu phần để người sử
dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu phần. Mặt khác, hàng
hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị
trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy, trong việc cung cấp hàng hoá công cộng
đã xuất hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc
thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng,
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp


Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn không” phải
chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính chất bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu
hiện phạm pháp, mà hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác
của ngân sách Nhà nước như phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền.
Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt bằng tiền chỉ xẩy
ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích
Nhà nước hoặc cộng đồng.
Hình thức phí, lệ phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính
chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thừa
hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
2.1.2. Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính
chất hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối
giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không
hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và hàng hoá
công cộng do Nhà nước phải cung cấp. Người nộp thuế cũng không đòi hỏi Nhà nước
phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản
chuyển giao thu nhập cho Nhà nước. Mặt khác, mức độ cung cấp dịch vụ công cộng
của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức độ
chuyển giao cũng thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được trả trực
tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẻ nhận được một phần các dịch vụ
công công mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
7

Chuyên đề tốt nghiệp

không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho Nhà nước. Đặc điểm
này giúp ta phân biệt sực khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí.
2.1.3. Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định
trước bằng luật pháp
Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh
sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên những cơ sở pháp
luật nhất định và đã được xác định trước trong luật thuế là: đối tượng chịu thuế, đối
tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thuế suất, thời hạn cụ thể và những chế tài mang
tính cưỡng chế khác.
2.1.4. Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời
kỳ nhất định
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền kinh
tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của ngân
sách Nhà nước…
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của Nhà
nước, tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân
tộc …
Do thuế chịu sự ràng buộc các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội như vậy nên
người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và nội
dung bên trong của thuế, Từ những thuộc tính đó, giúp ta phân biệt thuế với các hình
thức động viên khác của ngân sách Nhà nước trên nhiều phương diện khác nhau.
2.2. Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Một là, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu nhằm động viên một phần giá trị
mới nằm trong giá cả hàng hoá trao đổi qua biên giới một nước, người nộp thuế là
các tổ chức, cá nhân có hàng hoá nhập khẩu, còn người chịu thuế là người tiêu dùng
các hàng hoá đó, họ mua hàng hoá với giá cả trong đó có cả thuế. Với cơ chế này,

người kinh doanh hàng hoá nhập khẩu khi bán hàng hoá cũng là lúc họ thu hộ thuế
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp

nhập khẩu cho Nhà nước (qua giá bán hàng hoá) và nộp khoản thuế nhập khẩu này
cho Nhà nước, tức là nộp hộ người tiêu dùng hàng hoá. Do đó, thuế nhập khẩu cũng
là một loại thuế điều tiết vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu,
thông qua cơ chế giá hàng hoá và dịch vụ. Thuế nhập khẩu “được che đậy” trong giá
bán hàng hoá nên người chịu thuế (người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu) ít có cảm
giác mình bị Nhà nước đánh thuế.
Hai là, thuế nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương. Thuế nhập
khẩu là một công cụ quan trọng của nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương
thông qua việc kê khai, kiểm tra, tính thuế đối với các hàng hoá nhập khẩu. Việc đánh
thuế thường căn cứ vào giá trị và chủng loại hàng hoá nhập khẩu. Giá trị của hàng hoá
được xác định làm căn cứ tính thuế nhập khẩu giá trị của hàng hoá tại cửa khẩu nhập đầu
tiên (đối với thuế nhập khẩu). Thuế nhập khẩu thu vào các nhóm hàng, mặt hàng nhập
khẩu. Đối với các loại hàng hoá nhập khẩu khác nhau thì có các mức thuế khác nhau, có
biểu thuế khác nhau và có suất thuế khác nhau ... và những điều này đã được quy định
rõ trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Các hàng hoá nhập khẩu qua cửa khẩu,
biên giới Việt Nam; hàng hoá trao đổi được đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường
trong nước, thì được áp dụng Luật thuế nhập khẩu.
Ba là, thuế nhập khẩu là một khoản thu nhập của ngân sách Nhà nước chịu sự tác
động của các yếu tố về chính trị và xã hội, kinh tế trong những thời kỳ nhất định.
Các yếu tố về chính trị, xã hội tác động đến thuế nhập khẩu như là: thể chế
chính trị của Nhà nước, tập quán tiêu dùng của các lớp dân cư, truyền thống văn hoá,
xã hội của dân tộc...
Các yếu tố về kinh tế tác động đến thuế nhập khẩu là: tốc độ tăng trưởng kinh
tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của các
dòng vốn đầu tư nước ngoài...

Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
9
Chuyên đề tốt nghiệp


3. Vai trò
3.1. Vai trò của thuế
3.1.1. Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực vật chất
cho Nhà nước
Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng các hình
thức khác nhau:
- Phát hành thêm tiền để trang trải các nhu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà
nước.
- Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước.
- Bán một phần tài sản quốc gia
- Thu thuế
- Hạn chế bớt tính luỹ thoái của một số loại thuế so với thu nhập có được
Phát hành thêm tiền chi tiêu là cách thức đơn giản nhất. Song việc phát hành
thêm tiền để chi tiêu thiếu cơ sở vật chất đảm bảo sẽ dẫn đến hậu quả lạm phát đưa nền
kinh tế đến bên bờ vực thẳm, càng làm khó khăn thêm cho ngân sách Nhà nước.
Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước vừa chịu những ràng buộc về
kinh tế và chính trị từ phía người cho vay, vừa phải tìm nguồn để hoàn trả cả gốc lẫn
lãi. Do đó, nói chung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, để huy động tập
trung nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, vai trò quan trọng
thuộc về thuế. Sử dụng công cụ thuế để huy động sự đóng góp có ưu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng
nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát
sinh nguồn thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế đem lại nguồn thu lớn cho Nhà
nước.
- Phương thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng phương pháp

chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy Nhà nước đảm bảo thực hiện sự
công bằng trong việc phân bổ gánh nặng của các khoản chi tiêu công cộng.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp

- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã
hội được tập trung vào trong tay Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện
pháp kinh tế - xã hội. Mặt khác, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách
nhanh chóng, thường xuyên và ổn định.
- Tính ưu thế động viên thông qua thuế so với các công cụ tài chính khác là
ở chổ: Thuế kết hợp giửa phương thức cưỡng bức, được quy định dưới
hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm
của các chủ thể kinh tế đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
3.1.2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những
khuyết tật vốn có. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp của Nhà nước vào quá
trình hoạt động của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình can thiệp đó, Nhà nước đã sử
dụng các biện pháp hành chính, mang tính chất cưỡng chế và hàng loạt các đòn bẩy kinh
tế, đặc biệt là thuế. Cùng với việc mở rộng chức năng của Nhà nước, thuế trở thành một
công cụ quan trọng để thực hiện điều tiết nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Nhà nước có khả năng sử dụng thuế để
điều tiết nền kinh tế quốc dân. Điều đó xuất phát từ cơ sở của chức năng điều chỉnh
của thuế. Vì lợi ích của xã hội, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm thuế đối với thu nhập
của các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp, để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của
các lĩnh vực, các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế.
Thuế có thể được sử dụng để điều tiết việc làm, thất nghiệp và lạm phát. Khi
nền kinh tế có mức thu nhập cao thì cùng với việc mở rộng các khoản chi tiêu của
chính phủ, thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm. Trong thời kỳ

nền kinh tế lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các khoản chi tiêu của chính phủ, thuế
lại được gia tăng để giảm tổng cầu và hạn chế gia tăng lượng tiền trong lưu thông.
Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính
sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy sự hoà nhập kinh tế
trong khu vực và thế giới. Thông qua điều chỉnh mức thu thuế xuât nhập khẩu mà gây
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp

nền áp lực tăng giá hàng nhập khẩu, giảm khả năng cạnh tranh so với hàng sản xuất
trong nước, từ đó điều chỉnh khối lượng hàng hoá đưa vào để thực hiện bảo hộ nền
sản xuất trong nước và bảo về lợi ích của thị trường nội địa. Mặt khác, tác động đánh
thuế nhập khẩu cũng gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước tạo nên sự
lựa chọn của họ trong tiêu dùng. Ngoài ra người ta còn sử dụng công cụ thuế để kích
thích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hay ít nhất là giảm đển mức thấp nhất
tính kèm hiểu quả của sản xuất trong nước. Chẳng hạn, trong trường hợp để hạn chế
xuất khẩu những loại hàng hoá mà giá cả của chúng bị ấn định bởi giá cả bất lợi của
thị trường thế giới, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, thì có thể sử dụng thuế xuất
khẩu để kích thích chuyển các nguồn lực từ sản xuất hang xuất khẩu sang sản xuất
hang hoá tiêu dung nội địa.
3.1.3. Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối
Một trong những “khiếm khuyết” của nền kinh tế thị trường là sự chênh lệch
ngày càng lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Kinh tế thị trường
càng phát triển thì khoảng cách giàu – nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng. Với
những đặc điểm nổi bật của cơ chế thị trường là: sự cởi mở, sự năng động, sự độc lập
tự chủ, thì tình trạng chênh lệch giàu – nghèo là khó tránh khỏi. Sự chênh lệch về thu
nhập và về mức sống giửa các tầng lớp dân cư không chỉ liên quan đến vấn đề đạo
đức và công bằng xã hội mà còn tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các
tầng lớp dân cư, làm mất đi ý nghĩa của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước tình hình

đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân phối thu nhập, của
cải xã hội. Thuế là một công cụ có tác động trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giửa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần
thông qua thuế gián thu, mà điển hình là thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này do đánh
thuế cao vào các hang hoá, dịch vụ cao cấp, đắt tiền, mà chỉ với những người có thu
nhập cao mới sử dụng hoặc sử dụng nhiều hơn, qua đó điều tiết bớt phần thu nhập
của họ.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp

3.1.4. Thuế còn là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt
động sản xuất, kinh doanh
Vai trò này xuất hiện do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong thực
tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, cơ quan thuế
và các cơ quan có liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, qui mô các
cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được
phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẻ phát hiện những việc làm
sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, hoặc
phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ.
Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà còn có thể kết hợp kiểm tra, kiểm
soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý
Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
3.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
3.2.1. Thuế nhập khẩu góp phần thực hiện bảo hộ nền sản xuất trong
nước
Thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước. Bảo hộ là bảo
vệ và trợ giúp các doanh nghiệp trong điều kiện cần thiết, là việc Nhà nước thông qua
các chính sách tạo ra môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi giúp các doanh nghiệp
có điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.

Trên thực tế, thuế nhập khẩu là một khoản chi phí nằm trong giá gốc của hàng
hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Giá cả là phương tiện
thực hiện cạnh tranh có hiệu quả cao. Giá hàng nhập khẩu cao hay thấp phụ thuộc
nhiều vào chính sách thuế nhập khẩu. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu là cần thiết
để bảo hộ sản xuất trong nước.
3.2.2. Thuế nhập khẩu là nguồn thu lớn trong tổng thu ngân sách Nhà
nước
Tại điều 11, Luật Hải quan quy định về nhiệm vụ của ngành Hải quan như
sau: “Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương
tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp

chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị
chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu”.
Nhà nước sử dụng công cụ quản lý bằng Hải quan, định ra các chính sách, luật
pháp nhằm điều chỉnh hoạt động nhập khẩu, nhập cảnh, đảm bảo cho việc phát triển
các mối quan hệ quốc tế về kinh tế, văn hoá, góp phần tăng cường sự giao lưu và hơp
tác quốc tế, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Quản lý Nhà nước về Hải quan là tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát Hải
quan tại biên giới, cửa khẩu và bất cứ nơi nào có hàng hoá nhập khẩu, phương tiện
vận tải nhập cảnh, bao gồm nhiều mặt hoạt động trong đó hai mặt hoạt động chủ yếu
là thu thuế nhập khẩu và chống buôn lậu, gian lận thương mại.
Do vậy, quản lý Nhà nước bằng công cụ Hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu
là yêu cầu tất yếu. Chức năng quản lý đó ở hai mặt: Quản lý bằng chính sách, luật
pháp và bằng hoạt động kiểm tra, giám sát thông qua thực hiện khai báo thủ tục Hải
quan. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, thuế nhập khẩu chiếm trên 70%

tổng số thu thuế xuất nhập khẩu. Riêng Việt Nam hiện nay, thuế xuất nhập khẩu
chiếm khoảng 1/3 tổng thu của ngân sách Nhà nước. Việt Nam là một nước có nền
kinh tế dang phát triển, hoạt động nhập khẩu hàng hoá diển ra rất sôi động. Có rất
nhiều mặt hàng, công nghệ, máy móc thiết bị... mà Việt Nam chưa sản xuất được,
phải nhập khẩu từ nước ngoài về, đây là một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
3.2.3. Thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện nhiệm vụ quản lý
Nhà nước về Hải quan
Khi thực hiện nhiệm vụ thu thuế nhập khẩu, Hải quan đã kiểm tra các hoạt
động nhập khẩu và điều tiết vĩ mô hoạt động nhập khẩu, vừa kích thích nhập khẩu,
vừa hướng dẫn tiêu dùng trong nước.
Trong số các công cụ kinh tế mà Nhà nước sử dụng thì thuế nhập khẩu là một
công cụ linh hoạt và hiệu quả nhất để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của
mình. Thuế nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng thông qua
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp

việc điều chỉnh thuế suất. Với biểu thuế nhập khẩu và chính sách miễn giảm thuế
nhập khẩu, Nhà nước có thể thực hiện kiểm soát và hướng dẫn hoạt động nhập khẩu
cho phù hợp với đường lối phát triển trong từng giai đoạn nhằm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
3.2.4. Thuế nhập khẩu góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước trong quan hệ quốc tế, góp phần đảm bảo bình
đẳng và công bằng xã hội
Thuế nhập khẩu của Nhà nước là công cụ cần thiết khi Nhà nước tham gia ký
kết các điều ước, điều khoản với các nước thành viên cũng như các nước có quan hệ
ngoại giao với Việt Nam. Đồng thời, khi dùng thuế nhập khẩu có thể loại bỏ các hạn
chế định lượng cũng như hàng rào phi thuế quan khác khi Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới – WTO. Các cam kết của Việt Nam với một số nước đem lại
những lợi thế cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu và mang lại lợi

ích cho người tiêu dùng. Nhà nước quy định các mức thuế suất tùy theo mức độ quan
hệ của Việt Nam với các quốc gia đó. Các mức thuế mà Nhà nước áp dụng trong điều
tiết quan hệ với các đối tác là: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu
đãi đặc biệt. Việt Nam đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tê như:
ASEAM, ASEM, APEC, WTO, Khi tham gia các tổ chức này thì Việt Nam đều phải
có những cam kết về thu thuế nhập khẩu từ các quốc gia thành viên. Vì vậy, thuế
nhập khẩu là một công cụ tốt để Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại
với các quốc gia khác.
Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào các hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu
từ các quốc gia hay vùng lãnh thổ, dựa vào lợi thế về mặt hàng nhập khẩu có sức
cạnh tranh cao. Do đó, thuế nhập khẩu đã đem lại lợi thế cho các hàng hoá, dịch vụ
sản xuất trong nước, mang lại công bằng trong kinh doanh. Bên cạnh đó, thuế nhập
khẩu còn góp phần bình ổn an ninh trật tự và công bằng trong xã hội.
II. Các loại thuế nhập khẩu cơ bản và phương pháp tính
1. Các loại thuế nhập khẩu cơ bản
1.1. Theo phương pháp tính thuế nhập khẩu
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp

Theo phương pháp tính thuế nhập khẩu thì hiện nay có 3 phương pháp đánh
thuế cơ bản: Thuế nhập khẩu theo giá trị hàng hoá, thuế nhập khẩu tuyệt đối, thuế
nhập khẩu hổn hợp.
1.1.1. Thuế nhập khẩu tính theo giá trị hàng hoá
Thuế nhập khẩu theo giá trị hàng hoá được tính bằng tỷ lệ % so với giá trị
hang hoá nhập khẩu. Thuế nhập khẩu theo giá trị hàng hoá được sử dụng phổ biến ở
các nước hiện nay. Ưu điểm của phương pháp đánh thuế nhập khẩu này là gắn giá trị
hàng hoá nhập khẩu của doanh nghiệp, không bị xói mòn bởi lạm phát, thuế suất dễ
điều chỉnh nên mang tính linh hoạt, dễ hài hoà hoá khi tham gia các liên kết kinh tế
quốc tế. Nhược điểm của thuế nhập khẩu theo giá trị hang hoá là khó chống lại nạn

khai man giá trị tính thuế (fault invoicing), khai báo Hải quan thiếu chính xác, gian
lận thương mại.
1.1.2. Thuế nhập khẩu cố định
Thuế nhập khẩu cố định (thuế nhập khẩu tuyệt đối) là thu một khoản tiền cố
định trên một đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Thuế nhập khẩu cố định có ưu điểm dễ áp
dụng hơn và ngăn chặn được hiện tượng làm hoá đơn giả cũng như định ra các loại
giá nội bộ doanh nghiệp. Thuế nhập khẩu cố định cũng dễ áp thuế khi thông quan
hàng hoá nhập khẩu,chống được hiện tượng gian lận thuế. Tuy nhiên, thuế cố định
thường bị xói mòn bởi lạm phát, vì lý do này, các biểu thuế mới thường được tính
theo giá trị hàng hoá (ad valorem). Thuế quan cố định thường rất nặng.
Ví dụ: 2$ tiền thuế cho 2 chiếc áo sơ mi sẽ nặng hơn rất nhiều đối với áo sơ
mi rẻ tiền so với những áo sơ mi mốt và đắt tiền. Vì vậy, những người tiêu dùng
nghèo hơn thường chịu thuế nặng hơn. Hàng nhập khẩu từ Việt Nam và các nước
đang phát triển, có chất lượng thấp hơn trên thị trường, thường chịu thuế nặng hơn và
bị cản trở nhiều hơn.
1.1.3. Thuế nhập khẩu hổn hợp
Thuế nhập khẩu hổn hợp vừa tính theo tỷ lệ % so với giá trị hàng hoá, dịch vụ
vừa thu một khoản tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng hoá nhập khẩu.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
16
Chuyên đề tốt nghiệp

Ví dụ: (1% + 2$)/một đơn vị hàng hoá nhập khẩu.
Phương pháp đánh thuế nhập khẩu hỗn hợp sẽ trung hoà ưu điểm và nhược
điểm của hai phương pháp đánh thuế nhập khẩu trên. Vừa không bị xói mòn bởi lạm
phát vừa ngăn chặn được các hiện tượng gian lận thuế.
1.2. Theo mục đích đánh thuế
Theo mục đích đánh thuế, thuế nhập khẩu được chia thành: thuế nhập khẩu tài
chính, thuế nhập khẩu bảo hộ.
1.2.1. Thuế nhập khẩu tài chính

Thuế nhập khẩu tài chính là thuế nhập khẩu nhằm vào mục tiêu tăng thu cho
ngân sách quốc gia, còn mục đích bảo hộ chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà
một quốc gia không trồng cũng như không chế biến cà phê đánh vào cà phê nhập
khẩu có mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách. Hay một quốc gia không nuôi
trồng thuỷ hải sản cũng như không chế biến thuỷ hải sản đánh vào thuỷ hải sản có
mục đích là tăng nguồn thu cho ngân sách.
1.2.2. Thuế nhập khẩu bảo hộ
Thuế nhập khẩu bảo hộ là thúê nhập khẩu nhằm bảo hộ các các ngành sản xuất
trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu. Chẳng hạn, một thuế
suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc máy là
2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó sau thuế là 2.400.000 VNĐ. Giả sử không có
khoản thuế nào khác nữa thì các nhà nhập khẩu phải bán chiếc máy này ít nhất phải ở
mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm bảo có lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các
nhà sản xuất trong nước nếu muốn bán được mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở
mức khoảng 2.000.000 VNĐ cộng với một lợi nhuận hợp lý; nhưng do Nhà nước đã
áp thuế nhập khẩu đối với máy móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức
cao hơn, có thể ở ngưỡng như giá bán ra của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và
như vậy họ sẽ có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về
mặt tài chính. Nói chung thuế quan bảo hộ được tính toán và đưa ra khi người ta cho
rằng ở mức thuế suất thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp

quyết liệt từ hàng nhập khẩu và thị phần về cơ bản sẽ nằm trong tay các nhà nhập
khẩu.
Ranh giới giữa thuế quan tăng thu ngân sách và thuế quan bảo hộ là khá mỏng
manh và nhiều khi không thể phân biệt được. Thuế quan tăng thu ngân sách thuần túy
chỉ có thể có khi quốc gia đó không có bất kỳ cơ sở sản xuất, gia công, chế biến nào
có liên quan đến mặt hàng nhập khẩu đó. Ngoài trường hợp này ra thì các loại thuế

quan tăng thu ngân sách không nhiều thì ít đều có tính chất bảo hộ cho sản xuất trong
nước, ngoài chức năng tăng thu cho ngân sách, nhưng tính chất bảo hộ không rõ nét
như ở thuế quan bảo hộ.
1.3. Theo mức thuế
Theo mức thuế, thuế nhập khẩu được chia thành: Mức thuế tối đa, mức thuế
tối thiểu, mức thuế ưu đãi.
1.3.1. Thuế nhập khẩu có mức thuế tối đa
Thuế nhập khẩu theo mức thuế tối đa được áp dụng cho những hàng hoá có
xuất xứ từ các nước chưa có quan hệ thương mại bình thường.
1.3.2. Thuế nhập khẩu có mức thuế tối thiểu
Thuế nhập khẩu có mức thuế tối thiểu là thuế áp dụng cho những hàng hoá có
xuất xứ từ các nước có quan hệ thương mại bình thường. Áp dụng đối với hàng hóa
nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện quy
chế tối huệ quốc cũng như không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với
quốc gia đó. Thuế suất thông thường luôn luôn cao hơn so với thuế suất ưu đãi và
thuế suất ưu đãi đặc biệt của cùng mặt hàng đó.
1.3.3. Thuế nhập khẩu có mức thuế ưu đãi
Thuế nhập khẩu có mức thuế ưu đãi được áp dụng cho các hàng hoá xuất xứ
từ các nước có thoả thuận hợp tác . Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ
từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện quy chế tối huệ quốc (MFN) trong
quan hệ thương mại với quốc gia đó. Thuế suất ưu đãi thông thường được quy định
cụ thể cho từng mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do cơ quan chức năng ban
hành.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
18
Chuyên đề tốt nghiệp

2. Phương pháp tính thuế nhập khẩu
Theo khoản 2, Điều 8, Luật thuế nhập khẩu quy định:
“Số thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế

nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính thuế và nhân với thuế xuất của
từng mặt h àng ghi trong Biểu thuế tại thời điểm tính thuế
Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số thuế nhập khẩu phải
nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan
nhân với mức thuế quy định trên một đơn vị hang hoá tại thời điểm tính thuế”
2.1. Phương pháp áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm
 Căn cứ tính thuế: số lượng hàng hoá nhập khẩu, trị giá tính thuế, thuế suất
- Số lượng hàng hoá nhập khẩu: Số lượng hàng hoá nhập khẩu làm căn cứ tính
thuế là số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu.
- Trị giá tính thuế:
Trị giá tính thuế được tính bằng đồng Việt Nam.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng tiền nước ngoài dùng để xác định trị giá
tính thuế là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế, được đăng trên Báo
Nhân dân, đưa tin trên trang điện tử hàng ngày của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
trường hợp vào các ngày không phát hành Báo Nhân dân, không đưa tin lên trang
điện tử hoặc có phát hành, có đưa tin lên trang điện tử nhưng không thông báo tỷ giá
hoặc thông tin chưa cập nhật đến cửa khẩu trong ngày thì tỷ giá tính thuế của ngày
hôm đó được áp dụng theo tỷ giá tính thuế của ngày liền kề trước đó.
Trường hợp đối tượng nộp thuế kê khai trước ngày đăng ký Tờ khai hải quan
thì tỷ giá tính thuế được áp dụng theo tỷ giá tại ngày đối tượng nộp thuế đã kê khai,
nhưng không quá 3 ngày liền kề trước ngày đăng ký Tờ khai hải quan.
Đối với các đồng ngoại tệ chưa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố
tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng thì xác định theo
nguyên tắc tỷ giá tính chéo giữa tỷ giá đồng đô la Mỹ (USD) với đồng Việt Nam và
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp

tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ với các ngoại tệ đó do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

công bố tại thời điểm tính thuế.
Công thức tính:
Căn cứ số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong Tờ
khai hải quan, trị giá tính thuế và thuế suất từng mặt hàng để xác định số thuế phải
nộp theo công thức sau:
Số thuế
xuất khẩu,
thuế nhập
khẩu phải
nộp

=
Số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu,
nhập khẩu ghi trong Tờ
khai hải quan

x
Trị giá tính thuế
tính trên một đơn
vị hàng hóa

x
Thuế suất của
từng mặt hàng
Trường hợp số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực tế có chênh lệch so
với hoá đơn thương mại do tính chất của hàng hoá, phù hợp với điều kiện giao hàng
và điều kiện thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá thì số thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu phải nộp được xác định trên cơ sở trị giá thực thanh toán cho hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu và thuế suất từng mặt hàng.

- Số lượng từng loại hàng hoá thực tế nhập khẩu được ghi trong tờ khai hàng
hoá nhập khẩu của tổ chức, cá nhân. Giá tính thuế được xác định theo quy định của
Bộ Tài chính.
- Thuế suất của từng mặt hang là thuế suất áp dụng đối với từng mặt hàng cụ
thể, được quy định trong luật thuế nhập khẩu.
- Tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm phát sinh hàng nhập khẩu.
2.2. Phương pháp áp dụng thuế tuyết đối
Căn cứ tính thuế:
Một là, Số lượng hàng hoá nhập khẩu:
Số lượng hàng hoá nhập khẩu làm căn cứ tính thuế là số lượng từng mặt hàng
thực tế nhập khẩu trong Danh mục hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối
Hai là, Mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá
Công thức tính:
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
20
x
tỷ giá
hối
đoái
Chuyên đề tốt nghiệp

Việc xác định số thuế phải nộp đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối thực
hiện theo công thức sau:
Số thuế nhập
khẩu phải nộp

=
Số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế nhập khẩu ghi
trong Tờ khai hải quan


x
Mức thuế tuyệt đối quy
định trên một đơn vị
hàng hoá
3. Cơ sở định giá tính thuế
Đối với hàng nhập khẩu, đó là giá mua tại cửa khẩu nhập (C), kể cả phí vận
chuyển (F) và phí bảo hiểm (I) quốc tế, theo giá CIF. Nếu nhập khẩu bằng đường bộ,
đó là giá mua theo điều kiện biên giới Việt Nam (DAF).
Giá tính thuế nhập khẩu áp dụng đối với khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất
tại Việt Nam, đó là giá bán thực tế khi mua, bán tại cửa khẩu khu chế xuất.
4. Thuế suất thuế nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu: Thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được quy
định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và
thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương
mại với Việt Nam (nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ nêu ở đây do Bộ Công
thương thông báo). Thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do Bộ Tài chính ban hành. Đối tượng nộp thuế tự khai và
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về xuất xứ hàng hóa.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với
Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo
thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
Điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt:
- Hàng hoá nhập khẩu có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu
với Việt Nam. Trừ hàng hóa có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ đã
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B

21
Chuyên đề tốt nghiệp

có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam nhưng tổng giá trị lô
hàng (FOB) không vượt quá 200 USD thì không phải có C/O;
- Hàng hoá nhập khẩu phải là những mặt hàng được quy định cụ thể trong
thoả thuận và phải đáp ứng đủ các điều kiện đã ghi trong thoả thuận;
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) phải phù hợp với qui định của
pháp luật hiện hành về xuất xứ hàng hoá;
- Các điều kiện khác (nếu có) để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt thực
hiện theo quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn riêng cho từng nước, nhóm nước
hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam có thoả thuận về thuế suất ưu đãi đặc biệt.
- Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ quốc và không
thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam. Thuế suất thông thường
được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương
ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.
Thuế suất thông thường = Thuế suất ưu đãi x 150%
Việc phân loại hàng hoá để xác định các mức thuế suất phải tuân thủ theo
đúng các nguyên tắc phân loại hàng hoá, được thực hiện theo văn bản hướng dẫn
riêng do Bộ Tài chính quy định.
Ngoài việc chịu thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông
thường, nếu hàng hóa nhập khẩu quá mức vào Việt Nam, có sự trợ cấp, được bán phá
giá hoặc có sự phân biệt đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thì bị áp dụng
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế để tự vệ
và được thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn riêng
Nguyên tắc áp dụng thuế suất:
Thứ nhất, Việc áp thuế suất phải căn cứ vào mã hàng nhập và kết quả kiểm
hoá thực nhập đối chiếu với số kê khai trên bộ chứng từ, hồ sơ kèm theo...
Thứ hai, Nếu hồ sơ do bộ phận kiểm hoá chuyển đến mà chưa đủ yếu tố để

tính thuế thì yêu cầu bổ sung thêm cho đủ
Thứ ba, Căn cứ vào biểu thuế hiện hành theo luật định
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
22
Chuyên đề tốt nghiệp

Thứ tư, Trường hợp kết quả kiểm hoá không xác định được chỉ tiêu cụ thể thì
phải yêu cầu giám định tại cơ quan giám định chất lượng hàng hoá có thẩm quyền.
III. Công tác quản lý thuế nhập khẩu hiện nay ở nước ta
1. Mục tiêu của công tác quản lý thuế nhập khẩu
Quản lý thuế nhập khẩu là một trong những nội dung quan trọng của công tác
quản lý tài chính Nhà nước, quản lý thuế nhập khẩu không thể tách rời quản lý thuế
nói riêng và quản lý Nhà nước nói chung.
Công tác quản lý thuế nhập khẩu nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản như sau:
Một là, Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước
trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Ở Việt Nam hiện nay, số thu bằng thuế nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng số thu thuế cùng như tổng số thu của ngân sách Nhà nước. Vì vậy, làm
tốt công tác quản lý thuế nhập khẩu sẻ có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động
đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước.
Mặt khác, các chính sách về thuế nhập khẩu có tác động lớn đến thu nhập của
các tổ chức kinh tế và cá nhân, qua đó tác động đến quá trình phát triển kinh tế - cơ
sở tạo ra nguồn thu thuế nhập khẩu trong tương lại. Để tăng cường và ổn định số thu
của ngân sách Nhà nước, trong công tác quản lý thuế nhập khẩu cũng cần phải chú ý
duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn thu.
Hai là, phát huy tốt nhất vai trò của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế.
Vai trò của thuế nhập khẩu là rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nhưng vai trò đó không mang tính khách quan, mà nó là kết quả của những tác động
từ phía con người. Những tác động đó được thực hiện thông qua những nội dung,
những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế nhập khẩu. Các công việc cụ thể là:

- Hướng dẫn các doanh nghiệp để thực hiện đúng các văn bản chính sách mới
(Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu; Luật Hải quan; Luật quản lý thu thuế), nâng cao ý
thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp, triển khai thực hiện chế độ
kế toán mới trong đó đã chủ động xây dựng và áp dụng có kết quả các phần mềm tin
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
23
Chuyên đề tốt nghiệp

học, vì vậy chất lượng công tác kế toán thuế nhập khẩu được nâng cao một bước, hạn
chế được nhiều sai sót, nhầm lẩn trong việc theo dõi nợ đọng và cưỡng chế thuế.
- Tổ chức tập huấn để triển khai Hiệp định GATT/WTO cùng với việc rà soát
để sắp xếp bố trí cán bộ làm công tác thuế cho phù hợp.
Ba là, tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ luật pháp để
thực hiện sự tác động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của
các tổ chức kinh tế và dân cư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện những
tác động của Nhà nước đến nền kinh tế. Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra,
thanh tra việc chấp hành luât thuế nhập khẩu cùng với việc tăng cường tính pháp chế
của luật thuế nhập khẩu, ý thức chấp hành của các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo
thói quen chấp hành pháp luật trong mọi tầng lớp dân cư.
Như vậy, trên đây là ba mục tiêu cơ bản của công tác quản lý thuế nhập khẩu.
2. Nội dung của cơ bản của công tác quản lý thuế nhập khẩu
2.1. Đối tượng chịu thuế và nộp thuế nhập khẩu
Thứ nhất, Tất cả hàng hoá và dịch vụ được phép nhập khẩu qua cửa khẩu
biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa vào thị
trường trong nước đều đối tượng chịu thuế nhập khẩu.
Thứ hai, đối tượng không chịu thuế nhập khẩu là hàng hoá nhập khẩu không
thuộc diện chịu thuế nhập khẩu sau khi làm thủ tục Hải quan gồm:
- Hàng quá cảnh và mườn đường qua lãnh thổ Việt Nam
- Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu, bao gồm các hình thức:

+ Hàng được vận chuyển từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu không qua
cửa khẩu Việt Nam.
+ Hàng hoá vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu qua cửa khẩu
Việt Nam, nhưng không làm thủ tục nhập khẩu mà xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
+ Hàng hoá vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu qua cửa
khẩu Việt Nam, đưa vào kho ngoại quan, nhưng không làm thủ tục nhập khẩu và xuất
khẩu ở Việt Nam
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
24
Chuyên đề tốt nghiệp

- Hàng hoá từ nước ngoài nhập vào khu chế xuất và hàng hoá từ khu chế
xuất xuất khẩu ra nước ngoài (trực tiếp hoặc qua cửa khẩu Việt Nam) hoặc
hàng hoá đưa từ khu chế xuất này đến khu chế xuất khác trong lãnh thổ
Việt Nam.
Thứ ba, Đối tượng nộp thuế nhập khẩu. Tất cả các tổ chức, cá nhân có hàng
hoá nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuê nhầp khẩu đều là đối tượng nộp thuế nhập
khẩu. Trường hợp nhập khẩu uỷ thác thì tổ chức nhận uỷ thác chịu trách nhiệm nộp
thuế nhập khẩu cho cơ quan Hải quan thay cho người uỷ thác.
2.2. Miến thuế, giảm thuế, hoàn thuế nhập khẩu.
2.2.1. Miễn thuế nhập khẩu
* Hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu được quy định miễn thuế trong các trường
hợp sau đây:
- Hàng viện trợ không hoàn lại theo dự án viện trợ.
- Hàng tạm nhập – tái xuất, tạm xuất – tái nhập để tham gia hội chợ triển
lãm.
- Hàng hoá là tài sản di chuyển được miễn thuế hoặc trong tiêu chuẩn hàng
lý miễn thuế của khách nhập cảnh tại cửa khẩu Việt Nam.
- Hàng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng quyền miễn thuế
trừ theo quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với các công ước

quốc tế mà Việt Nam ký kết.
- Hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để phục vụ gia công cho phía
nước ngoài, rồi xuất khẩu theo hợp đồng đã ký.
* Xét miễn thuế nhập khẩu
Hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu được xét miễn thuế nhập khẩu là các trường
hợp sau đây:
- Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng,
nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo.
- Hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên
nước ngoài hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Lê Thị Linh Lớp: Thương mại 46B
25

×