Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐỀ TÀI GIÚP HỌC SINH LỚP 8 VÀ LỚP 9 CÓ PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.42 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“GIÚP HỌC SINH LỚP 8 VÀ LỚP 9 CĨ PHƯƠNG PHÁP GIẢI BÀI TẬP
VẬT LÍ “
A- PHẦN MỞ ĐẦU.
I .ĐẶT VẤN ĐỀ :
“ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”
Thấm nhuần lời dạy của người, việc đào tạo thế hệ trẻ vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, những chủ nhân tương lai của đất nước là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, là trọng trách lớn lao đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo . Mà người thực
hiện là mỗi cán bộ giáo viên, đội ngũ tiên phong, then chốt trong phong trào
“ nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài ’’ mà nghị quyết
Trung ương 2 đã đề ra.
Trước vai trò to lớn của người giáo viên đứng trên bục giảng là truyền thụ
trí thức cho học sinh, trước nhu cầu đổi mới không ngừng của phương pháp dạy
học theo hướng tích cực hố hoạt động của học sinh, học sinh chủ động lắm kiến
thức, phát huy năng lực sáng tạo ở người học , thì việc tìm ra một hướng đi
đúng, kích thích được óc quan sát, mong muốn nhận thức , khả năng tìm tịi,
sáng tạo , phát hiện cái mới, khả năng tự hình thành phương pháp học của học
sinh là trăn trở không ngừng của người thầy giáo .
Là giáo viên dạy bộ môn vật lý ở trường phổ thông cơ sở, hiểu rõ phương pháp
bộ môn , nắm được người thầy là người giữ vai trò chỉ đạo trong truyền thụ tri
thức, tổ chức các hoạt động động lĩnh hội tri thức. Thì việc điều khiển các hoạt
động nhận thức của học sinh trên lớp cũng như ý thức tự học ở nhà như thế nào
để học sinh có thể tiếp cận được những nội dung kiến thức một cách dễ dàng
nhất , hiệu quả nhất , hứng thú nhất , nhưng lại sâu sắc nhất là một câu hỏi lớn
đặt ra địi hỏi mỗi người thầy phải có lời giải đáp.
Xuất phát từ những trăn trở đó mà chúng tơi là nhóm giáo viên giảng dạy bộ
mơn vật lý tại trường trung học cơ sở Liên Phương đã quyết tâm cùng nhau thực
hiện sáng kiến kinh nghiệm là làm thế nào để “giúp học sinh lớp 8c và lớp 9 có
phương pháp giải bài tập vật lí “


II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1


1. Lý do khách quan:
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ mơn
nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng, bên
cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên mơn, việc phát huy tính tích cực của học
sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, xét cho cùng, công việc giáo dục phải
được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát triển ý
thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối
ưu của giáo dục.
Trong khn khổ chương trình THCS , bài tập Vật lí thường là những
vấn đề khơng q phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lơ gíc, bằng
tính tốn hoặc thực nghiệm dựa trên cơ sở những quy tắc, tính chất , định luật
vật lí ... đã học. Từ đó, giúp hs giải được bài tập Vật lí là một khâu quan trọng
trong q trình dạy và học Vật lí.
Việc giải bài tập Vật lí giúp củng cố đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ
bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ năng kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào
thực tiễn, là biện pháp quý báu để phát triển năng lực tư duy của học sinh, có tác
dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng, đạo đức lớn. Vì thế trong việc giải bài
tập Vật lí mục đích cơ bản cuối cùng khơng phải chỉ tìm ra đáp số, tuy điều này
cũng quan trọng và cần thiết, mục đích chính của việc giải là ở chỗ người làm
bài tập hiểu được sâu sắc hơn các khái niệm, định luật Vật lí, vận dụng chúng
vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống, trong lao động.
2. Lý do chủ quan:
Qua thực tế giảng dạy Vật lí ở trường THCS Liên Phương, đặc biệt là dạy
Vật lí 8, 9 cho thấy học sinh cịn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi giải
các bài tập Vật lí, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Có những em nhận thức cịn sai, có những em hiểu vấn đề nhưng lại không biết

diễn đạt hoặc trình bày khơng lơ gic , khơng khoa học....
Mặt khác, do phân phối chương trình khơng có nhiều thời lượng cho tiết giải bài
tập, thường là nồng ghép trong tiết lí thuyết. Mà học sinh thì lại rất ít được thâm
2


nhập thực tế nên khả năng áp dụng kiến thức đã học vào giải bài tập còn hạn
chế.
Vừa qua, cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học chung của ngành
giáo dục, đồng thời qua việc tự kiểm tra, tổng kết tình hình dạy học Vật lí tại
trường, chúng tơi đã triển khai chuyên đề ‘ giúp HS có phương pháp giải bài tập
vật lí’ cho HS và đã thấy được tác dụng giáo dưỡng và giáo dục rất lớn đối với
học sinh khi giải bài tập Vật lí. Từ đó vận dụng vào q trình giảng dạy, chúng
tơi thấy có hiệu quả hơn so với trước đây, chất lượng học sinh được nâng cao rõ
rệt.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định làm sáng kién kinh nghiệm:
““giúp học sinh lớp 8 và lớp 9 có phương pháp giải bài tập vật lí “
nhằm giúp học sinh nắm chắc được kiến thức cơ bản, mở rộng và hiểu sâu kiến
thức, biết vận dụng vào thực tế. Từ đó nâng cao được chất lượng học tập bộ
mơn, xây dựng cho các em hứng thú và lịng u thích học tập bộ mơn , giúp
cho q trình giảng dạy nói chung và mơn vật lí nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất.
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
I.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu lí luận về phương pháp giải bài tập Vật lí.
2. Nghiên cứu lí luận về sử dụng bài tập vật lí trong dạy học Vật lí.
3. Nghiên cứu chương trình nội dung kiến thức các bài học Vật lí ở cấp THCS.
3. Nghiên cứu sự tiếp thu kiến thức đã học của học sinh và khả năng vận dụng
các kiến thức đó vào giải quyết các bài tập cụ thể.
4. Nghiên cứu các dạng bài tập điển hình và cách giải quyết các dạng bài tập đó
trong phạm vi chương trình vật lí THCS, đặc biệt là phân loại bài tập vật lí.

Sơ đồ phân loại bài tập vật lí
* Phân loại theo phương tiện giải :

3


Bài tập vật lí

Bài tập
giải thích
hiện
tượng
Bài tập dự
đốn hiện
tượng

Bài tập
định tính

Bài tập
định lượng

Bài tập thí
nghiệm

Bài tập
đồ thị

Bài tập thí
nghiệm


* Phân loại theo mức độ
Bài tập vật lí

Bài tập tập dượt

Bài tập tổng hợp

Bài tập sáng tạo

II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN
1. CÁC GIẢI PHÁP:
 KHẢO SÁT THỰC TẾ.
 TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ.
 HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP VẬT LÍ Ở NHÀ .
 KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG.
4


1.1. KHẢO SÁT THỰC TẾ.
Trước khi thực hiện đề tài, qua giảng dạy ở trường THCS Liên Phương, qua
tìm hiểu và trao đổi với đồng nghiệp và đánh giá nhận thức của HS chúng tơi
nhận thấy :
- Có nhiều học sinh ham mê học bộ mơn Vật lí, nhưng khi làm các bài tập
vật lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, có thể nói hầu như
các em chưa biết cách giải cũng như trình bày lời giải.
Thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:
+ Học sinh chưa có phương pháp tổng quan để giải một bài tập Vật lí.
+ Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí ....
+ Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa mới không dành

nhiều thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập ( đặc
biệt là chương trình vật lí ở các lớp: 6, 7, 8), dẫn đến học sinh khơng có điều
kiện bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập
Vật lí.
1.2. TỔ CHỨC CHUN ĐỀ.
Ngồi việc nắm vững kiến thức, để có kỹ năng tốt trong việc giải bài tập
Vật lí địi hỏi học sinh phải nắm vững phương pháp giải cũng như cách trình bày
lời giải, phải có kỹ năng phân loại được các dạng bài tập.
Vì vậy để giúp học sinh lớp 8 và lớp 9 nắm vững phương pháp giải một
bài tập vật lí, trong năm học này chúng tơi đã kết hợp với tổ chuyên môn tổ chức
cho học sinh học chuyên đề “giúp học sinh lớp 8 và lớp 9 có phương pháp
giải bài tập Vật lí ”.
Trong chuyên đề này chúng tôi chia thành 3 nội dung, hướng dẫn học
sinh:
 Trình tự giải một bài tập vật lí.
 Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
 Áp dụng phương pháp giải bài tập vật lí vào một số bài tập cơ bản.
1.2.1. Trình tự giải một bài tập vật lí.
5


- Phương pháp giải một bài tập Vật lí phụ thuộc nhiều yếu tố: mục đích
yêu cầu của bài tập, nội dung bài tập, trình độ của các em, v.v... Tuy nhiên trong
cách giải phần lớn các bài tập Vật lí cũng có những điểm chung.
- Thơng thường khi giải một bài tập vật lí cần thực hiện theo trình tự sau
đây:
a) Hiểu kỹ đầu bài.
- Đọc kỹ đầu bài: bài tập cho biết gì? Cần phải tìm gì?
- Bài liên quan tới những kiến thức gì đã học ( Định lí, tính chất... gì? )
-Tóm tắt đầu bài bằng cách dùng các ký hiệu chữ đã qui ước để viết các

dữ kiện và ẩn số, đổi đơn vị các dữ kiện cho thống nhất(nếu cần thiết ).
- Vẽ hình , nếu bài tập có liên quan đến hìng vẽ hoặc nếu cần phải vẽ hình
để diễn đạt đề bài. Cố gắng vẽ đúng tỉ lệ xích càng tốt. Trên hình vẽ cần ghi rõ
dữ kiện và cái cần tìm.
b) Phân tích nội dung bài tập, lập kế hoạch giải.
- Tìm sự liên hệ giữa những cái chưa biết (ẩn) và những cái đẵ biết (dữ
kiện)
- Nếu chưa tìm được trực tiếp các mối liên hệ ấy thì có thể phải xét một số
bài tập phụ để gián tiếp tìm ra mối liên hệ ấy.
- Nếu là bài định tính cần phân tích kỹ hiện tượng và những hiện tượng,
kiến thức có liên quan từ đó tìm ra mối liên hệ và định hướng giải.
- Phải xây dựng được kế hoạch giải.
c) Thực hiện kế hoạch giải.
- Tơn trọng trình tự phải theo để thực hiện các chi tiết của dự kiến, nhất là
khi gặp một bài tập phức tạp.
- Thực hiện một cách cẩn thận các phép tính số học, đại số hoặc hình học.
Nên hướng dẫn học sinh làm quen dần với cách giải bằng chữ và chỉ thay giá trị
bằng số của các đại lượng trong biểu thức cuối cùng.
- Chỉ rõ tính chất, định luật... đã sử dụng.

6


- Khi tính tốn bằng số, phải chú ý đảm bảo những trị số của kết quả đều
có ý nghĩa.
d) Kiểm tra đánh giá kết quả.
- Kiểm tra lại trị số của kết quả: Có đúng khơng? Vì sao? Có phù hợp với
thực tế khơng? Bài giải có thuyết phục không ? Lập luận đã chặt chẽ chưa ?
- Kiểm tra lại các phép tính: có thể dùng các phép tính nhẩm và dùng cách
làm trịn số để tính cho nhanh nếu chỉ cần xét độ lớn của kết quả trong phép tính.

- Nếu có điều kiện, nên phân tích, tìm một cách giải khác, đi đến cùng
một kết quả đó. Kiểm tra xem cịn con đường nào ngắn hơn không.
1.2.2.Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
Xét về tính chất thao tác của tư duy, khi giải các bài tập vật lí, người ta
thường dùng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
a) Giải bài tập bằng phương pháp phân tích.
- Theo phương pháp này, xuất phát điểm của suy luận đại lượng cần tìm.
Người giải phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan với những đại
lượng Vật lí nào khác và một khi biết sự liên hệ này thì biểu diễn nó thành
những cơng thức tương ứng. Nếu một vế của cơng thức là đại lượng cần tìm cịn
vế kia chỉ gồm những dữ liệu của bài tập thì cơng thức ấy cho ra đáp số của bài
tập. Nếu trong cơng thức cịn những đại lượng khác chưa biết thì đối với mỗi đại
lượng đó, cần tìm một biểu thức liên hệ với nó với các đại lượng Vật lí khác; cứ
làm như thế cho đến khi nào biểu diễn được hồn tồn đại lượng cần tìm bằng
những đại lượng đã biết thì bài tốn đã được giải xong.
Như vậy cũng có thể nói theo phương pháp này, ta mới phân tích một bài
tập phức tạp thành những bài tập đơn giản hơn rồi dựa vào những quy tắc tìm lời
giải mà lần lượt giải các bài tập đơn giản này. Từ đó tìm dần ra lời giải của các
bài tập phức tạp nói trên.
 Thí dụ ta hãy dùng phương pháp phân tích để giải bài tập sau:
 Đề bài:

7


“ Người ta dùng một loại dây hợp kim đồng có tiết diện 10 mm 2 và có điện
trở suất là 0,4.10-4 Ω m để làm một lò sưởi điện sưởi ấm một gian phòng. Hỏi
cần phải lấy chiều dài của dây dẫn này là bao nhiêu để duy trì nhiệt độ của
phịng ln ln khơng đổi nếu mỗi giờ gian phòng này bị mất một nhiệt
lượng bằng 2 970 000J qua các cửa sổ và các bức tường. Biết nguồn điện

cung cấp cho lị sưởi có điện áp là 220V”.
 Hướng dẫn giải:
- Đại lượng cần tìm ở đây là chiều dài của dây hợp kim. Ta tìm mối liên
hệ giữa chiều dài của dây dẫn với các đại lượng khác trong bài.
- Ta biết rằng muốn nhiệt độ của phịng ln ln khơng đổi thì trong mỗi
giờ nhiệt lượng lò sưởi cung cấp phải bằng nhiệt lượng mà phòng mất đi. Nhiệt
lượng do lò sưởi cung cấp tương đương với điện năng mà lò sưởi tiêu thụ. Điện
năng lại phụ thuộc điện trở của dây hợp kim đồng. Điện trở này lại do chiều dài
của dây qui định.
* Nếu gọi chiều dài của dây là l, điện trở của dây là R, điện trở suất của
nó là ρ và tiết diện của nó là S, thì chiều dài của dây dẫn liên hệ với điện trở
l
R = ρ
S

của nó bằng cơng thức:
Do đó:

l=

R.S
ρ

(1)

* Trong biểu thức của chiều dài có một đại lượng mới chưa biết đó là điện
trở R của dây. Điện trở này đo bằng tỉ số của hiệu điện thế U với cường độ dòng
điện I qua dây:

R=


U
I

(2)

* Đại lượng mới chưa biết là cường độ dịng điện I thì liên hệ với các đại
lượng khác bằng định luật Ơm và bằng cơng thức biểu diễn năng lượng A do
dòng điện toả ra. Ta đã dùng định luật Ôm trong (2). Vậy mối liên hệ giữa I và
A là:
A = I.U.t
trong đó t là thời gian dịng điện chạy qua dây; từ đó suy ra:
8


I=

A
U .t

(3)

* Trong cơng thức trên, điện năng tính ra Jun. Điện năng này tương
đương với nhiệt lượng Q mà dòng điện cung cấp (và với nhiệt lượng mà gian
phòng mất đi) trong thời gian t theo biểu thức:
Q =A

(4)

ở vế phải của biểu thức (4), tất cả các đại lượng đều đã biết. Bây giờ cần

thay thế biểu thức sau vào biểu thức trước và cứ thế đi dần từ biểu thức cuối lên
biểu thức đầu:
I=

- Thay (4) vào (3) được:

Q
U .t



U 2 .t
R=
Q



l=

- Thay (3) vào (2) được:
- Thay (2) vào (1) được

U 2 .t.S
Q.ρ

(3)’
(2)’
(1)’

-Thay các đại lượng trên bằng các trị số của chúng vào (1)’

+Với:U = 220 V
t = 1h = 3600s
S = 10 mm2 = 10.10-4 m2
Q = 2 970 000 J
ρ = 0,4.10-4 Ω m

+ Ta được:
l=

2202.3600.1,5.10−4
= 220(m)
2970000.0, 4.10−4

- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
b) Giải bài tập bằng phương pháp tổng hợp.
Theo phương pháp này, suy luận không bắt đầu từ các đại lượng cần tìm
mà bắt đầu từ các đại lượng đã biết có nêu trong bài. Dùng cơng thức liên hệ các
đại lượng này với các đại lượng chưa biết, ta đi dần đến công thức cuối cùng
trong đó chỉ có một đại lượng chưa biết là đại lượng cần tìm.
9


Theo phương pháp tổng hợp, bài tập nêu trong ví dụ trên có thể giải như
sau:
* Muốn nhiệt độ trong phịng ln ln khơng đổi thì nhiệt lượng do dịng
điện qua lò sưởi toả ra trong một thời gian t nào đó (ở đây là 1giờ) phải bằng
nhiệt lượng Q mà gian phịng mất đi trong thời gian đó.
Theo định luật Jun - Len xơ thì.
Q = I2.R.t


(1)

trong đó R là điện trở của dây dẫn của lò sưởi, I là cường độ dòng điện qua lò
sưởi.
* Theo định luật Ôm, ta có:

U
R

I=

(2)

* Nhưng điện trở của dây dẫn lại phụ thuộc kích thước và bản chất của
R=ρ

dây dẫn theo cơng thức:

l
S

(3)

trong đó ρ là điện trở suất, l là chiều dài của dây dẫn, S là tiết diện của dây dẫn.
* Thay các biểu thức (2) và (3) vào biểu thức (1), ta được:
U 2 .t
l
ρ.
S


(4)

U 2 .t.S
Q.ρ

(1)’

Q=

l=

- Từ đó rút ra:

- Thay các đại lượng trên bằng trị số của chúng, ta được:
l=

2202.3600.1,5.10−4
= 220(m)
2970000.0, 4.10−4

- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
Như vậy dùng phương pháp tổng hợp, ta cũng tìm được chiều dài của dây
lị sưởi như khi dùng phương pháp phân tích.
Nhìn chung, khi giải bất kỳ một bài tốn vật lí nào ta đều phải dùng cả hai
phương pháp: phân tích và tổng hợp. Phép giải bắt đầu bằng cách phân tích các
điều kiện của bài tập để hiểu được đề bài. Phải có một sự tổng hợp kèm theo
10


ngay để kiểm tra lại mức độ đúng đắn của sự phân tích các điều kiện ấy. Muốn

lập được kế hoạch giải, phải đi sâu vào phân tích nội dung vật lí của bài tập.
Tổng hợp những dữ kiện đã cho với những quy luật vật lí đã biết, ta mới xây
dựng được lời giải và kết quả cuối cùng.
Như vậy ta có thể nói là trong q trình giải bài tập vật lí ta đã dùng
phương pháp phân tích - tổng hợp.
1.2.3.áp dụng phương pháp giải bài tập vật lí vào một số bài tập cơbản.
1.Bài tốn 1.
Bỏ một quả cầu đồng thau khối lượng 1 kg được nung nóng đến 100 o C
vào trong thùng sắt có khối lượng 500g đựng 2kg nước ở 20 o C. Bỏ qua sự trao
đổi nhiệt với mơi trường .Tìm nhiệt độ cuối cùng của nước.
Biết nhiệt dung riêng của đồng thau, sắt, nước lần lượt là:
c1= 380 J/kg.K; c2=460 J/kg.K; c3= 4200 J/kg.K.
 Hướng dẫn giải:
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Tóm tắt:
m1 = 1 kg
- Khối lượng của quả cầu đồng thau,

c1 = 380 J/kg.K

thùng sắt và nước.

t1 = 100o C

- Nhiệt độ ban đầu của quả cầu đồng

m2 = 500g = 0,5 kg

thau, thùng sắt và nước.


c2 = 460 J/kg.K

- Nhiệt dung riêng của chất cấu tạo

t2 = 20o C

nên các vật.

m3 = 2kg
c3 = 4200 J/kg.K
t3 = t 2
t?

* Phân tích bài tốn.
- Đây là bài toán trao đổi nhiệt của một hệ vật (gồm 3 vật). Điều quan
trọng phải hiểu rằng bài toán yêu cầu tìm nhiệt độ cuối cùng của nước, nhưng
11


cũng là nhiệt độ chung của hệ khi kết thúc q trình trao đổi nhiệt. Để giải bài
tốn này cần áp dụng phương trình cân bằng nhiệt:
Qtoả ra =Qthu vào
- Do vậy phải xác định được những vật nào là vật toả nhiệt, những vật nào
là vật thu nhiệt, viết được cơng thức tính nhiệt lượng toả ra vào hay thu vào của
các vật:
Q = mc ∆ t
-Với lưu ý rằng trong bài toán này nhiệt độ ban đầu của hai vật thu nhiệt
( thùng sắt và nước) là bằng nhau( t2 = t3).
- Trên cơ sở phương trình cân bằng nhiệt vừa lập được kết hợp với dữ
kiện đã cho của bài toán để suy ra đại lượng cần tìm (t).

*Bài giải.
- Nhiệt lượng do quả cầu bằng đồng thau toả ra khi hạ nhiệt độ từ 100 o C
đến to C (nhiệt độ khi có cân bằng nhiệt) là:
Q1 = m1.c1(t1 – t)
- Nhiệt lượng mà thùng sắt (Q 2) và nước (Q3) thu vào để tăng nhiệt độ từ
20o C đến to C là:

Q2 = m2.c2(t – t2)

(1)

Q3 = m3.c3(t –t2)

(2)

- Áp dụng phương trình cân bằng nhiệt ta có:
Q1 = Q2 + Q3

(3)

từ (1),(2) và (3) ⇒ m1.c1(t1 – t) = m2.c2(t –t2) + m3.c3(t –t2)
⇔ t ( m1c1 + m2c2 + m3c3 ) = m1c1t1 + ( m2c2 + m3c3 ) t2


t=

m1c1t1 + ( m2 c2 + m3 c3 )t2
m1c1 + m2 c2 + m3 c3

- Thay các đạt lượng trên bằng trị số của chúng ta được:

1.380 + (0,5.460 + 2.4200).20

t = 1.380 + 0,5.460 + 2.4200

≈ 19, 2(o C )

- Vậy nhiệt độ cuối cùng của nước là 19,2 oC.
2.Bài toán 2.

12


Hai người cùng xuất phát một lúc từ hai địa điểm A và B cách nhau75km.Người
thứ nhất đi xe máy từ A về B với vận tốc 25km/h.Người thứ hai đi xe đạp từ B
ngược về A với vân tốc V2=12,5km/h.Hỏi sau bao lâu hai người gặp nhau và xác
định chỗ gặp nhau đó.Coi chuyển động của hai người là u.
*Tìm hiểu các điều kiện đà cho của bài và phân tích :.
? Bài toán cho biết gì ? yêu cầu tìm gì?
? Bài thuộc dạng toán gì ? Có những đại lợng nào tham gia? Mối quan hệ giữa
các đại lợng ấy là gì ?
*Bi gii.
Gi S1v S2 l quãng đường mỗi người đã đi cho đến lúc gặp nhau.G là điểm gặp
nhau.
A→

G
S1

←B
S2


Ta có : S1 = V1.t
Hay S1 = 25.t
S2 = V2.t
Hay S2 = 12,5.t
Khi hai người gặp nhau thì :S1 +S2 = 75km
75

Hay :25.t +12,5.t = 75 ⇒ t = 25 + 12,5 = 2 giờ
Vậy sau 2 giờ hai người gặp nhau.
Vị trí gặp nhau cách A một đoạn :AG = S1 = 25.2 =50km
3.Bài toán 3.
Một ấm điện có hai điện trở: R 1 = 4 Ω và R2 = 6 Ω . Nếu bếp chỉ dùng một
điện trở R1 thì đun sơi ấm nước trong 10 phút. Tính thời gian cần thiết để đun sôi
ấm nước trên khi:
a. Chỉ dùng R1.
b. Dùng R1 nối tiếp R2.
c. Dùng R1 song song R2.
(Biết khơng có sự mất nhiệt ra mơi trường và mạng điện có hiệu điện thế
khơng đổi).
 Hướng dẫn giải:
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Cho biết giá trị của hai điện trở.
13


- Thời gian đun sôi nước khi chỉ dùng điện trở R1.
- Tóm tắt:

R1 = 4 Ω ;


R2 = 6 Ω

t1 = 10 phút
t2 ?
t3 ? khi R1nt R2.
t4 ? khi R1//R2.
* Phân tích bài tốn.
-Bài tốn này xuất phát từ định luật Jun-len xơ với biểu thức:
Q =I2.R.t

(1)

trong đó nhiệt lượng mà nước thu vào bằng nhiệt lượng do các điện trở toả ra.
- Theo điều kiện đầu bài thì nếu sử dụng biểu thức (1) của định luật Junlen xơ, thì việc giải bài tốn rất phức tạp hoặc khơng thực hiện được. Vậy ở bài
tốn này mối liên hệ giữa các đại lượng để tìm cấu trúc cơng thức rất quan trọng,
đóng vai trị quyết định đến sự thành công.
- Như ta đã biết từ công thức (1). Ta có thể viết được một số biểu thức
tương đương trên cơ sở mối liên hệ của một số đại lượng trong công thức với
các đại lượng khác, để việc tính tốn khơng làm bài tốn phức tạp.
U = I.R nên (1) ⇔ Q = U.I.t

Thật vậy: vì

mặt khác theo định luật Ôm: I =

U
R

U2

.t
nên (2) ⇔ Q =
R

(2)
(3)

- Từ đây nên chọn công thức nào để giải bài tốn, điều này địi hỏi sự
nhanh nhạy, suy diễn cao.
Nếu chọn (2) thì vẫn cịn đại lượng I chưa biết, do đó chọn cơng thức (3)
- Cần biểu diễn các đại lượng cần tính.
+ Giá trị điện trở của ấm trong 4 trường hợp:
1/ R = R1
2/ R = R2
3/ R = R1 + R2
1

1

1

R .R

1
2
4/ R = R + R hay R = R + R
1
2
1
2


14


-Với chú ý rằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra trong 4 trường
hợp là như nhau.
- Hiệu điện thế trong các trường hợp là không đổi.
* Bài giải.
- Gọi thời gian đun sôi nước trong 4 trường hợp lần lượt là: t1, t2, t3, t4.
- Do khơng có sự mất nhiệt ra mơi trường nên nhiệt lượng cần để đun sôi
nước bằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra.
U2
.t
Q=
R

- Áp dụng công thức:

(Theo cơng thức (3) )

cho các trường hợp ta có:
a. Chỉ dùng dây R1:

Q1 =

U2
t1
R1

(1)


b.

Q2 =

U2
t2
R2

(2)

Chỉ dùng dây R2:


U2
U2
t1 =
t2
R1
R2



t2 =

từ (1) và (2)

c. Khi dùng R1 nối tiếp R2:

R2

6
t1 = .10 = 15( ph)
R1
4

U2
t3
Q3 =
R1 + R2



U2
U2
t1 =
t3
R1
R1 + R2



từ (1) và (3)

t3 =

(3)

R1 + R2
4+6
t1 =

.10 = 25( ph)
R1
4

d. Khi dùng R1 song song R2:
 1
1 
+
÷t4
 R1 R2 

2
Q4 = U 

từ (1), (2) và (4)



(4)

1 1 1
= +
t4 t1 t2

1.3. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP VẬT LÍ Ở NHÀ.
15


Qua thực tế giảng dạy Vật lí ở trường THCS, tơi nhận thấy với cấu trúc
của chương trình Vật lí THCS có rất ít các tiết bài tập, thêm nữa thời lượng của

một tiết học trên lớp có hạn ( 45 phút ), học sinh chủ yếu tiếp thu kiến thức về lí
thuyết một cách cơ bản hoặc giải các bài tập đơn giản và số tiết học chỉ có 1
tiết/tuần đối với các khối lớp 6, 7, 8 và 2 tiết / tuần đối với lớp 9. Như vậy
không có đủ lượng thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến thức cũng
như rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do đó bên cạnh việc tổ chức
các chuyên đề thì một trong những biện pháp tốt nhất để rèn luyện kỹ năng giải
bài tập cho học sinh để học sinh có thể thường xuyên được luyện giải nhiều
dạng bài tập khác nhau, cũng như tiếp xúc với các dạng bài tập có tính chất mở
rộng và nâng cao, để từ đó học sinh có thể vận dụng một cách linh hoạt các cách
giải từng dạng bài tập đó là : “Hướng dẫn học sinh học tập vật lí ở nhà.”
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và giáo
dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em rèn
luyện thói quen làm việc tự lực, giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng, kỹ
xảo. Ngược lại nếu việc học tập ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ
làm cho các em quen thói cẩu thả, thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm
vụ của mình dẫn đến nhiều thói quen xấu làm cản trở đến việc học tập.
Công việc học tập của học sinh ở nhà có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, khơng có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù đấy là cơng việc do chính giáo viên giao cho học sinh phải tự
mình hồn thành, tự kiểm tra cơng việc mình làm.
+ Cơng việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực
của học sinh.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn :
trước hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi
giai đoạn có một nội dung cơng việc cụ thể.

16



Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn vào việc dạy học trên
lớp của giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến
thức của học sinh mà giao cho các em những cơng việc có tính chất bổ sung
phục hồi tài liệu đã học như : nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình ….
Trong khi dạy về vần đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các
bài tập ở nhà. Chính việc giao bài làm một cách có hệ thống đảm bảo cho việc
học tập của học sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự lực
giải quyết các bài tập kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các bài tập
dễ. Việc học sinh hồn thành tốt các bài tập ở nhà khơng những chỉ giúp các em
nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, mà còn
giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh
những bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần
phải giao cho học sinh những bài làm mang những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp
thu chi thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được việc tiếp thu một cách tích cực,
tự lực đối với những tri thức mới.
Ta có thể giao bài tập về nhà cho học sinh bằng nhiều hình thức :
+ Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao bài tập sau tiết học.
+ Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo …
+ Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề .
Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà
có kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và
phù hợp :
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
+ Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc
chuyển biến trong học tập, ...
1.4. TỔ CHỨC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG :
Sau khi tiến hành tố chức phổ biến chuyên đề “ giúp HS có phương pháp
giải bài tập vật lí” và động viên , khích lệ, yêu cầu HS tham gia áp dụng chuyên
17



đề này vào việc giải bài tập. Chúng tôi thấy tinh thần học tập bộ môn của HS
tăng lên rõ rệt. Các em chăm chỉ hơn, làm bài tập đều hơn. Qua phản ánh khi gọi
các em lên bảng, gọi phát biểu và qua kiểm tra vở bài tập thấy sự chuyển biến rõ
rệt trong cách trình bày và trong cách lập luận, giải quyết bài toán.
Để kiểm tra đánh giá cụ thể hiệu quả đạt được của chuyên đề chúng tôi đã
thường xuyên tiến hành kiểm tra đánh giá năng lực của HS thông qua kiểm tra
miệng, kiểm tra vấn đáp, kiểm tra 15 phút, 45 phút, kiểm tra nhanh, làm trên
phiếu học tập... đặc biệt là qua bài kiểm tra khảo sát chất lượng học kỳ. Thực tế
cho thấy các em càng được cọ sát nhiều thì năng lực tư duy cũng như kỹ năng
làm bài càng được trau dồi , củng cố và nâng cao hơn , các em chủ động và tích
cực hơn trong lĩnh hội tri thức và trong quá trình tham gia làm bài tập.
2. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN :
Sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng cho tất cả các đối tượng giáo viên
dạy vật lý lớp 8, 9 .Tuy nhiên với những giáo viên có trình độ cao và có phương
pháp giảng dạy tốt thì hiệu quả thu được sẽ cao hơn nhiều .
Trong quá trình thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này chúng tôi gặp rất
nhiều thuận lợi:
- Được ban giám hiệu tạo điều kiện tốt nhất và giúp đỡ hoàn thành tốt
chuyên đề.
- Được các đồng nghiệp trong và ngồi nhóm hưởng ứng tích cực.
- Được HS tin tưởng và nhiệt tình tham gia với mong muốn lĩnh hội kiến
thức một cách tốt nhất , mong muốn tự xây dựng được phương pháp giải
bài tập vật lí cho riêng mình.
- Trong nhóm có những đồng chí giảng dạy nhiều năm nên hiểu rõ những
thuận lợi và khó khăn trong q trình thực hiện.
Tuy vậy cũng khơng tránh khỏi một số khó khăn như :
- Thời gian tổ chức chuyên đề cịn ngắn
- Học sinh đã quen trình bày tuỳ tiện nên cần giúp các em có hệ thống.


18


- Thời lượng trong phân phối chương trình dành cho tiết luyện tập cịn ít nên
HS ít có cơ hội luyện tập trên lớp .

III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
1. Kết quả thực hiện :
Từ việc “ Giúp học sinh có phương pháp giải một bài tập vật lý “nêu trên,
trong năm học 200– 200 thấy đa số học sinh đã vận dụng một cách linh hoạt vào
việc giải bài tập, học sinh có khả năng tư duy tốt hơn, có kỹ năng vận dụng kiến
thức vào giải bài tập tốt hơn, linh hoạt hơn.
Cụ thể thông qua khảo sát chất lượng học sinh sau khi “Giúp học sinh lớp
8 và lớp 9 có phương pháp giải bài tập Vật lý” đã thu được kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài.
* Kết quả khảo sát sau khi thực hiện đề tài.
Qua so sánh đối chứng kết quả thấy tỉ lệ điểm: Khá, Giỏi , trung bình đều
tăng, nhất là điểm giỏi và điểm khá . Điểm yếu giảm rõ rệt. cụ thể là:
2. Bài học kinh nghiệm :
Trong quá trình giảng dạy bộ mơn Vật lí ở trường THCS việc hình thành
cho học sinh phương pháp, kỹ năng giải bài tập Vật lí là hết sức cần thiết, để từ
đó giúp các em đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận
dụng tốt kiến thức vào thực tế, phát triển năng lực tư duy cho các em, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể là :
+ Giúp học sinh có thói quen phân tích đầu bài, hình dung được các hiện
tượng Vật lí xảy ra trong bài tốn sau khi tìm hướng giải.
19



+ Trong một bài tập giáo viên cần hướng cho học sinh nhiều cách giải
(nếu có thể ). Để kích thích sự hứng thú, say mê học tập cho học sinh rèn thói
quen tìm tịi lời giải hay cho một bài tốn Vật lí.
+ Khắc sâu cho học sinh nắm chắc các kiến thức bổ trợ khác. Có như vậy
việc giải bài tập Vật lí của học sinh mới thuận lợi và hiệu quả.

Để làm được điều này:
- Giáo viên cần tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, thường
xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Nắm vững chương trình bộ mơn tồn cấp học.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nghiên cứu kỹ các kiến thức cần nhớ
để ôn tập, nhớ lại kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, lần lượt nghiên cứu kỹ
các phương pháp giải bài tập sau đó giải các bài tập theo hệ thống từ dễ đến khó,
so sánh các dạng bài tập để khắc sâu nội dung kiến thức và cách giải. Trên cơ sở
đó học sinh tự hình thành cho mình kỹ năng giải bài tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà nhóm giáo viên lý trường THCS Liên
Phương chúng tôi đã rút ra được từ thực tế qua q trình giảng dạy bộ mơn Vật
lí nói chung, cũng là kinh nghiệm rút ra được sau khi thực hiện đề tài này nói
riêng.

C. KẾT LUẬN .
Mơn Vật lí là một mơn khoa học thực nghiệm địi hỏi người học
phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của mình trong quá trình
lĩnh hội tri thức. Chính vì vậy lựa chọn phương pháp dạy học bộ mơn vật lí,
người giáo viên cần căn cứ vào phương pháp đặc thù của khoa học lấy hoạt
động nhận thức của học sinh làm cơ sở xuất phát, thầy chỉ đạo, trị chủ động,
tích cực tiếp thu tri thức , vận dụng linh hoạt vào thực hành và vào trong đời
sống.

20



Sau thời gian nghiên cứu tìm hiểu, được sự quan tâm giúp đỡ của ban
giám hiệu nhà trường cũng như tổ chun mơn nhóm chúng tơi đã thực hiện
được đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Giúp học sinh lớp 8 và lớp 9 có phương
pháp giải bài tập vật lí” với mong muốn: phát triển năng lực duy rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo cho học sinh trong việc học tập bộ mơn Vật lí. Nhằm nâng cao chất
lượng bộ mơn nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
1.

21



×