Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và khả năng tái sinh của các loài cây gỗ trong thảm thực vật sau nương rẫy ở xã tam hiệp, huyện yên thế, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 106 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



ĐỖ THANH HUYỀN




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC
VÀ KHẢ NĂNG TÁI SINH CỦA CÁC LOÀI CÂY GỖ
TRONG THẢM THỰC VẬT SAU NƢƠNG RẪY Ở XÃ
TAM HIỆP, HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC
Mã số: 60.42.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thế Hƣng







THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng với
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thế Hưng (Trường ĐHQG Hà Nội ).
Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào.


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 04 năm 2012
Tác giả


Đỗ Thanh Huyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thế Hưng (Trường
ĐHQG Hà Nội) đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thiện luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Ban Chủ nhiệm khoa
Sinh - KTNN, khoa Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,
cùng các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi

trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ Hạt kiểm lâm huyện Yên thế, các tổ
chức, cá nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập và hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên,
giúp đỡ tôi về nhiều mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Thái Nguyên, ngày 20 tháng 04 năm 2012
Tác giả


Đỗ Thanh Huyền


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng, biểu đồ v
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
4. Cấu trúc của luận văn 3

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Khái niệm thảm thực vật 4
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài 4
1.2.1. Thế giới 5
1.2.2. Ở Việt Nam 5
1.3. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 8
1.3.1. Thế giới 8
1.3.2. Việt Nam 10
1.4. Những công trình nghiên cứu về khả năng tái sinh phục hồi rừng 11
1.4.1. Khái niệm về tái sinh 11
1.4.2. Nghiên cứu về tái sinh 12
1.5. Nghiên cứu về tái sinh, phục hồi thảm thực vật sau nương rẫy 17
1.5.1. Thế giới 17
1.5.2. Việt Nam 19
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 21
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu 21
2.3. Nội dung nghiên cứu 21
2.3.1. Hiện trạng các trạng thái thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 21
2.3.2. Năng lực tái sinh tự nhiên của các loài cây gỗ trong thảm thực vật
phục hồi sau nương rẫy 22
2.3.2.1. Độ thường gặp cây tái sinh 22
2.3.3. Nghiên cứu qui luật phân bố cây tái sinh 22

2.3.4. Đánh giá khả năng tái sinh và phục hồi tự nhiên của các trạng thái
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 22
2.3.5. Một số biện pháp lâm sinh phục hồi thảm thực vật sau nương rẫy 22
2.4. Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Phương pháp điều tra 22
2.4.2. Thu thập số liệu 24
Chƣơng 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI VÙNG
NGHIÊN CỨU 29
3.1. Điều kiện tự nhiên 29
3.1.1. Vị trí địa lý 29
3.1.2. Đặc điểm địa hình 31
3.1.3. Đất đai 32
3.1.4. Điều kiện khí hậu 33
3.1.5. Điều kiện thủy văn 33
3.1.6. Tài nguyên khoáng sản 34
3.1.7. Tài nguyên rừng 35
3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 36
3.2.1. Điều kiện kinh tế 36
3.2.2. Điều kiện xã hội 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1. Hiện trạng các thảm thực vật sau nương rẫy tại khu vực nghiên cứu 42
4.1.1. Các trạng thái thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 42
4.1.2. Đặc điểm các trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại khu vực nghiên cứu 42
4.2. Năng lực tái sinh tự nhiên của các loài cây gỗ trong thảm thực vật
phục hồi sau nương rẫy 62
4.2.1. Độ thường gặp cây tái sinh 62

4.2.2. Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh 64
4.2.3. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh 66
4.3. Nghiên cứu qui luật phân bố cây tái sinh 68
4.3.1. Phân bố cây gỗ tái sinh theo cấp chiều cao 68
4.3.2. Phân bố cây gỗ tái sinh theo mặt phẳng ngang 70
4.4. Đánh giá khả năng tái sinh và phục hồi tự nhiên của các trạng thái
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 73
4.4.1. Chiều hướng biến đổi của các trạng thái thảm thực vật tại khu
vực nghiên cứu 73
4.4.2. Đánh giá khả năng tái sinh và phục hồi tự nhiên của các trạng
thái thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 74
4.5. Đề xuất một số biện pháp lâm sinh phục hồi các thảm thực vật sau
nương rẫy 75
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78
1. Kết luận 78
2. Kiến nghị 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 87


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1.
TTV

Thảm thực vật
2.
NR
Nương rẫy
3.
OTC
Ô tiêu chuẩn
4.
ODB
Ô dạng bản
5.
KVNC
Khu vực nghiên cứu
6.
[2]
Thứ tự tài liệu tham khảo.
7.
3.1
Số liệu bảng, chữ số đầu là thứ tự chương, chữ số
sau dấu chấm là số thứ tự bảng trong chương.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 4.1. Thành phần các taxon thực vật ở khu vực nghiên cứu

Bảng 4.2. Sự phân bố các họ, chi, loài trong các trạng thái
Bảng 4.3. Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu
Bảng 4.4. Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật
Bảng 4.5. Độ thường gặp cây tái sinh tại các trạng thái thảm thực vật
Bảng 4.6.Cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh ở các thảm thực vật KVNC
Bảng 4.7. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh
Bảng 4.8. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao ở khu vực nghiên cứu
Bảng 4.9. Phân bố cây gỗ tái sinh theo mặt phẳng ngang ở 3 thảm thực vật

Biểu đồ 4.1. Phân bố của các bậc taxon ở khu vực nghiên cứu
Biểu đồ 4.2. Tỷ lệ các loài, chi, họ trong các trạng thái thảm thực vật
Biểu đồ 4.3. Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu
Biểu đồ 4.4. Sự phân bố dạng sống thực vật tại các trạng thái thảm thực vật
Biểu đồ 4.5. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao ở khu vực nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa, rừng đã được coi là tài sản vô cùng quý báu mà thiên nhiên ban
tặng cho con người bởi vì nó có vai trò rất quan trọng đối với sự sống còn
của chúng ta. Rừng được mệnh danh là lá phổi xanh của trái đất cung cấp
dưỡng khí duy trì sự sống cho con người và các loài động vật trên trái đất.
Rừng không những là nguồn cung cấp lâm sản quý cho con người mà rừng
giúp hạn chế thiên tai. Đặc biệt, rừng là khu bảo tồn thiên nhiên vô giá với
hàng nghìn loài chim, thú Từ đó giúp giữ cân bằng sinh thái và duy trì sự
đa dạng sinh học.
Trong giai đoạn hiện nay, thế giới đang phải hứng chịu nhiều hậu quả
nặng nề do sự biển đổi khí hậu mang lại. Những hậu quả đó có nguồn gốc tự

sự huỷ hoại rừng. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế
giới có 11 triệu ha rừng bị phá huỷ, riêng khu vực Châu Á Thái Bình
Dương hàng năm có 1,8 triệu ha rừng bị phá mất, tương đương mỗi ngày
mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới.
Rừng nước ta được các nhà nghiên cứu thực vật đánh giá là giàu nhất nhì
thế giới với sự đa dạng sinh học cao. Nhưng hiện nay, rừng đã giảm đáng kể
về cả số lượng và chất lượng. Năm 1943, diện tích rừng ở Việt Nam ước tính
có khoảng 14,3 triệu ha (Maurand, 1943), với tỷ lệ che phủ là 43,8% (chiếm
42% diện tích tự nhiên của cả nước). Đến năm 1993 chỉ còn 9,5 triệu ha, tỷ lệ
che phủ là 28% diện tích đất tự nhiên. Và đến nay chỉ còn 6,5 triệu ha (tương
đương 19,7%). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự duy thoái rừng ở Việt Nam
nhưng nguyên nhân chủ yếu là đốt nương làm rẫy (40-50%) [67].
Trước tình hình đó, Chính phủ, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và
chính quyền các cấp cũng đã có những chính sách chỉ đạo thực thi quyết liệt
để đối phó và cải thiện tình hình. §ộ che phủ của rừng những năm gần đây đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
tăng từ 24% năm 1981 lên 33% năm 1999 ( Jyki và cộng sự ), đến cuối năm
2002 thì độ che phủ đã đạt 35,8% diện tích tự nhiên và tiếp tục tăng lên
38,2% năm 2007. Diện tích rừng đã tăng song chủ yếu vẫn là rừng trồng, rừng
non. Rừng giàu, rừng nguyên sinh tiếp tục bị suy giảm. Rừng nguyên thuỷ chỉ
còn chưa đến 10%. Như vậy, khó có thể thực hiên được muc tiêu đề ra là đến
năm 2020, đưa độ che phủ của rừng lên 45% kể cả diện tích cây công nghiệp
lâu năm [67].
Bắc Giang là tỉnh miền núi có diện tích tự nhiên 3.823 km
2
, chiếm 1,2%
diện tích tự nhiên của Việt Nam. Trong đó, đất lâm nghiệp có rừng chiếm

28,9%, bao gồm: quy hoạch cho rừng phòng hộ chiếm 12,6%, rừng đặc dụng
là 7,8% và rừng sản xuất là 79,6%. Rừng được tập trung chủ yếu ở các huyện
Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế. Huyện Yên Thế có tổng diện
tích đất lâm nghiệp trên 150.000 ha chiếm 52% tổng diện tích tư nhiên. Nơi
đây có tập quán canh tác nương rẫy theo kiểu du canh du cư. Hiện nay, tập
quán này đang dần được loại bỏ thay vào đó là nhà nước đã giao đất giao rừng
đến từng hộ dân để quản lý và sử dụng đúng mục đích. Tuy nhiên, kiểu canh
tác nương rẫy trước kia đã để lại hậu quả không nhỏ, nó không chỉ làm mất
khá nhiều diện tích rừng mà còn làm giảm chất lượng rừng, thay thế rừng tự
nhiên (có độ đa dạng sinh học cao) bằng rừng trồng (có độ đa dạng rất thấp).
Chỉ trong 5 năm (từ năm 2005 đến 2010) mà diện tích rừng tự nhiên tại Yên
Thế đã giảm gần một nửa từ 1.706,8 ha nay còn 940,5 ha, trong đó hoạt động
canh tác nương rẫy là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm này
[65, 66, 67].
Ở Bắc Giang đang có chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về thảm thực vật sau nương rẫy ở
địa phương. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và khả
năng tái sinh của các loài cây gỗ trong thảm thực vật sau nương rẫy ở xã
Tam Hiệp, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang nhăm nghiên cứu quá trình tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
sinh tự nhiên của một số trạng thái thảm thực vật làm cơ sở khoa học cho việc
đề xuất được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp tác động vào rừng
thúc đẩy quá trình tái sinh theo chiều hướng có lợi.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và khả năng tái sinh của các loài cây gỗ
trong thảm thực vật sau nương rẫy ở xã Tam Hiệp, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc
Giang nhằm đưa ra những đóng góp khoa học làm cơ sở cho việc tác động các

biện pháp lâm sinh trong việc khoanh nuôi phục hồi rừng.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm qui luật tái sinh rừng sau canh tác nương rẫy.
Bổ sung tư liệu về tái sinh rừng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh thích hợp đối với thảm thực vật phục hồi sau canh tác nương rẫy tại
vùng nghiên cứu.

4. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan tài liệu
Chương 2. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khu vực nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và đề nghị




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm thảm thực vật
Khái niệm về thảm thực vật đã được rất nhiều các nhà khoa học trong và
ngoài nước đưa ra. Theo J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp
thực bì của Trái đất và các bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Theo

Thái Văn Trừng (1978) [54] cho rằng thảm thực vật là các quần hệ thực
vật phủ trên mặt đất như một tấm thảm xanh. Còn Trần Đình Lý (1998)
[40] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể
hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên toàn bộ bề mặt Trái đất…
Như vậy, dù hiểu theo khái niệm nào đi nữa thì thảm thực vật cũng là
một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ thể. Thảm thực vật chỉ có ý
nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như: thảm thực vật cây bụi,
thảm thực vật thứ sinh, thảm thực vật Ba Vì, thảm thực vật Yên Thế…
Thảm thực vật thứ sinh là các trạng thái thảm thực vật xuất hiện sau khi
thảm thực vật nguyên sinh bị mất đi do các nguyên nhân khách quan hay chủ
quan: có thể do biến dộng của vỏ trái đất hay do con người khai thác, chiến
tranh, đốt rừng làm nương rẫy Thảm thực vật thứ sinh hình thành theo thời
gian thường bao gồm các trạng thái sau: thảm cỏ, thảm cây bụi, rừng non,
rừng trưởng thành, rừng già. Cấu trúc của thảm thực vật thứ sinh và thảm thực
vật nguyên sinh rất khác nhau ở thành phần thực vật, cấu trúc tầng tán, khả
năng phát triển, sinh khối, hoàn cảnh rừng và nhiều yếu tố khác.
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài
Trên Trái đất có rất nhiều vùng sinh thái đã và đang tồn tại, trong đó mỗi
vùng sinh thái sẽ hình thành nên thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt giữa
các thảm thực vật biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
và động thái của nó. Trong đó, thành phần loài là một dấu hiệu quan trọng của
quần xã thực vật. Vì vậy trong nghiên cứu sinh thái thảm thực vật, nắm được
thành phần loài là một nội dung rất quan trọng.
1.2.1. Thế giới
Trên thế giới, có rất nhiều các nhà khoa học đã có những công trình
nghiên cứu liên quan đến thành phần loài.

Theo Engler (1882) thì số loài thực vật là khoảng 275000 loài. Ở Liên
Xô (cũ) như Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp
(1933), Creepva (1978)… theo các tác giả thì việc nghiên cứu thành phần
loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu quan trọng trong phân loại loại hình
thảm thực vật.
Ramakrishman (1981-1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây Bắc Ấn Độ khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài ưu
thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian
bỏ hoá.
Long Chun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài.
Như vậy, những nghiên cứu về thành phần loài của các tác giả trên thế
giới tập trung nghiên cứu và đánh giá thành phần loài ở một vùng và khu vực
cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong mối tương quan với điều kiện địa
hình và khí hậu. Tuy vậy, cần có những công trình nghiên cứu cụ thể hơn
rộng rãi hơn nhằm mục đích có thể đánh giá chính xác thành phần loài thực
vật đặc trưng của một khu vực hoặc một quốc gia.
1.2.2. Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật ở Việt Nam cũng
rất nhiều.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Thái Văn Trừng (1978) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài thực
vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [54].
Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ Trinh
nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam có tannin [37].

Hoàng Chung (1980) [8] nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã
công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ.
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) khi nghiên cứu hệ thực vật Tây
Nguyên đã thống kê được 3210 loài, chiếm gần 1/2 số loài đã biết của toàn
Đông Dương [3].
Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) trong “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê số
loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài gần đạt số lượng 12000 loài theo dự
đoán của các nhà khoa học [23].
Lê Mộng Chân (1994) điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba
Vì đã phát hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó gặp 7 loài được mô tả lần đầu tiên [6].
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1994) nghiên cứu thành phần loài, dạng
sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123 loài
thuộc 47 họ khác nhau [12].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc điểm
sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử dụng đã phát
hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài [29].
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét: trong các trạng thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ
thành loài của tầng cây bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria,
Prismatomeris, Pavetta (họ Cà phê - Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc
đào - Apocynaceae); chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem - Myrsinaceae) [55].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về
khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và
1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524 chi, 378 họ [50].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Lê Đồng Tấn (2000) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng tự nhiên sau

nương rẫy ở Sơn La đã kết luận: kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài; tuổi 10
có 56 loài; tuổi 14 có 53 loài [48].
Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành
phần loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét
rằng: do ảnh hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng
cây gỗ trên một đơn vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn
định [17].
Trần Đình Đại (2001) căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây
Bắc Bộ (Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1050 chi và 3074 loài thuộc
6 ngành thực vật bậc cao có mạch [20].
Đặng Kim Vui (2002) [58] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1 - 2 tuổi,
thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hoà thảo có số
lượng lớn nhất là 10 loài, tiếp đến là họ Thầu dầu (6 loài)…; giai đoạn 3 - 5
tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 - 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai
đoạn 11 - 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ.
Nguyễn Thế Hưng (2003) đã thống kê trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu ở huyện Hoành Bồ, Thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài
thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch [30].
Phạm Ngọc Thường (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự
nhiên sau nương rẫy ở Bắc Kạn kết luận: quá trình phục hồi sau nương rẫy
chịu tác động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái như nguồn giống, địa
hình, thoái hoá đất, con người. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục hồi
của thảm thực vật cây gỗ, trên đất tốt nhiều nhất 11 - 25 loài, trên đất xấu 8 -
12 loài [53].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống
kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi,
654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý
như: Lim, Dẻ, Trai, Nghiến…[15]
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La
đã thu được 452 loài thuộc 326 chi, 153 họ [36].
1.3. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Nghiên cứu tổ hợp dạng sống của một vùng góp phần quan trọng đánh
giá đặc điểm sinh thái vùng đó bởi vì dạng sống là kết quả của quá trình thích
nghi của thực vật với các điều kiện sống. Dạng sống không thể hiện mối quan
hệ thân thuộc trong phân loại loài vì ở các loài ở các họ khác nhau có thể biểu
hiện cùng một dạng sống.
Người đầu tiên đề cập đến khái niệm dạng sống của thực vật là Warming
(1901). Từ đó đến nay đã tồn tại nhiều cây phân loại dạng sống, nguyên tắc để
mô tả và phân chia dạng sống thực vật đó là tìm những phản ứng biểu hiện
qua hình dáng bên ngoài của thực vật với môi trường sống, sự khác nhau chỉ
là sử dụng bao nhiêu dấu hiệu để phân chia.
1.3.1. Thế giới
Đầu tiên là Humbon (1805) đã đề nghị phân loại thực vật theo hình dạng
ngoài vã đã xác định được 19 dạng thực vật, trong số đó có các kiểu như hoà
thảo, dương xỉ, dây leo (Dẫn theo Hoàng Chung, Quần xã học thực vật, 2005).
Warming (1901) là người đầu tiên đưa ra khái niêm dạng sống thực vật.
I.K.Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường xanh;
thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên mặt
đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có thời
kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm (Dẫn theo Hoàng Chung, Quần xã học thực vật, 2005).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
G.N.Vưxoxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều
năm và lớp cây hàng năm.
Braun - Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đó chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn.
Trong rất nhiều cách phân loại dạng sống thì bảng phân loại dạng sống
của Raunkiaer (1934) là được nhiều người công nhận. Ông đã dùng vị trí chồi
so với mặt đất và đặc điểm của nó vào thời kỳ khó khăn nhất cho sự sinh
trưởng của thực vật (tức là lúc điều kiện khó khăn nhất loài đó tồn tại ở dạng
nào) để làm cơ sở phân loại.
Raunkiaer đó chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Cở sở phân chia dạng sống của Raunkiaer là sự khác nhau về khả năng
thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm, từ tổ hợp các dấu hiệu
thích nghi ông chi chọn một dấu hiệu là vị trí chồi nằm ở đâu trên mặt đất
trong suốt thời gian bất lợi trong năm. Trong nhóm 5 dạng sống đó ông còn
chia ra các nhóm gồm tất cả 30 nhóm dạng sống. Ông đã xây dựng phổ chuẩn
của các dạng sống ở các vùng khác nhau trên Trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm
bảo tính khoa học, đơn giản, dễ áp dụng. Vì vậy trong công trình nghiên cứu
của mình tôi cũng phân chia dạng sống khu vực nghiên cứu theo Raunkiaer.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
Xêrêbriacốp (1962,1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính
chất sinh thái học hơn của Raunkiaer. Ngoài việc sử dụng những dấu hiệu
hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều
lần hay một lần trong cả đời của cá thể. Trong bảng phân loại ông có chia ra
các đơn vị, bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ trong đó bao gồm cả dạng
sống của thực vật có hoa, hạt trần và không bao gồm cây thuỷ sinh.
Canon (1911) là người đầu tiên đưa ra bảng phân loại dạng sống cây
thuộc thảo, sau đó hàng loạt bảng đó được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm
phần dưới đất đúng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu
thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm
của cây. (Dẫn theo Hoàng Chung, Quần xã học thực vật, 2005).
1.3.2. Việt Nam
Doãn Ngọc Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật
thuộc họ Hoà thảo. Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của
Raunkiaer khi phân chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [54].
Hoàng Chung (1980) khi thống kê thành phần dạng sống cho loại hình
đồng cỏ Bắc Việt Nam, ông đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân
loại kiểu đồng cỏ sa van, thảo nguyên [8].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn, tỉnh Hoà Bình
cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp
của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dựng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số
dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác
giả không xếp phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản mà
chỉ coi đây là những dạng phụ [7].
Phan Nguyên Hồng (1991) [25], khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật
rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây
bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B),
ký sinh (K), bì sinh (B).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thân (1995) đã xây
dựng phổ dạng sống của hệ thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương là:
SB = 57,8 Ph + 10,5Ch + 12,4 He + 8,3Cr + 11,0Th
Phạm Hồng Ban (2000) [1], nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh
thái sau nương rẫy vùng Tây Nam, Nghệ An ®· phân chia dạng sống, phổ
dạng sống là:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Phạm Ngọc Thường (2003) [53], khi nghiên cứu thảm thực vật sau nương
rẫy ở Thái Nguyên, Bắc Kạn đã cho kết quả phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 56,37Ph + 12,73Ch + 14,23He +8,80Cr + 7,87Th
Nguyễn Thế Hưng (2003) [30], khi nghiên cứu dạng sống thực vật
trong các trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ, Quảng Ninh đã kết luận về
phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 60,9 Ph + 8,02 Ch + 13,27 He + 7,47 Cr + 10,8 Th
Vũ Thị Liên (2005) [36], phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực
vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết quả phổ
dạng sống như sau:
SB = 69,69Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi
Bắc Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu
cây bụi, kiểu cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu
nửa bụi, kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ
rễ cái sống lâu năm [9].
1.4. Những công trình nghiên cứu về khả năng tái sinh phục hồi rừng
1.4.1. Khái niệm về tái sinh
Tái sinh rừng (Foresty regeneration) là một thuật ngữ được nhiều nhà khoa

học sử dụng để mô tả sự tái tạo (phục hồi) của lớp cây con dưới tán rừng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [33], tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp là
quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo nghĩa rộng, là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng. Tái sinh được coi là
một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng. Vai trò lịch sử
của thế hệ cây con là thay thế thế hệ cây gỗ già cỗi.
Theo Nguyễn Xuân Lâm (2000) [35], tái sinh rừng là sự xuất hiện một
thế hệ cây con của những loài cây gỗ dưới tán rừng hoặc trên đất rừng (sau
khi làm nương rẫy), thế hệ cây tái sinh này sẽ lớn dần lên thay thế thế hệ cây
gỗ già cỗi.
Căn cứ vào nguồn giống, người ta chia 3 kiểu tái sinh như sau: tái sinh
nhân tạo, tái sinh bán nhân tạo và tái sinh tự nhiên. Trong đó, tái sinh tự nhiên
có nguồn hạt (nguồn giống) hoàn toàn tự nhiên
Như vậy, tái sinh rừng là một khái niệm chỉ khả năng và quá trình thiết lập
lớp cây con dưới tán rừng. Đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây con đều
có nguồn gốc từ hạt và chồi có sẵn, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo thì
cây con cũng phải mọc từ nguồn hạt do con người gieo trước đó. Nó được phân
biệt với các khái niệm khác (như trồng rừng) là sự thiết lập lớp cây con bằng
việc trồng cây giống đã được chuẩn bị trong vườn ươm. Vì đặc trưng đó nên tái
sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của các hệ sinh thái rừng.
1.4.2. Nghiên cứu về tái sinh
1.4.2.1. Thế giới:
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre.ad, 1930;

Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert,
1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969). Do tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên
trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của
rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và
tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở
các kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh. Công trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith
(1961, 1963) với phương thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở
Bắc Borneo ; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh
dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng
cao vòm lá ở Andamann Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng
phương thức đối với tái sinh đã được Baur (1976) [2], tổng kết trong tác
phẩm: Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Aubreville (1938) đã
khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết
nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị
hạn chế. Vì vậy, lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho
các biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh
doanh đã đề ra.
P. W. Richards (1952) [66], Bernard Rollet (1974) nghiên cứu về phân
bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đã tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân
bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: cây tái sinh có dạng phân bố cụm,

một số ít có phân bố Poison.
G.N. Baur (1976) [2], cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến
phát triển của cây con còn đối với sự nẩy mầm và phát triển của cây mầm ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
hưởng này không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cây tái sinh. Ở những quần tụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển
nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới,
tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn.
Xannikov (1967) và Vipper (1973) trong nghiên cứu tái sinh rừng nhận
thấy, tầng cây cỏ và cây bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố
dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh
của các loài cây gỗ. Những quần tụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng
khoáng do đó thảm cỏ và thảm cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của
nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa,
rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ là nhân tố
gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách
lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ô đo
đếm từ 1 đến 4 m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ thuận lợi trong điều tra nhưng số
lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng. Để giảm
sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950) đã đề nghị một
phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể
thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng
khác nhau [Theo P.W. Richards].
X.V. Belov (1983) nhấn mạnh phải áp dụng thống kê toán học để điều tra

và đánh giá tái sinh. Việc phân tích chi tiết lý luận các phương pháp thống kê
toán học trong điều tra và đánh giá tái sinh rừng được trình bày rõ trong các
công trình nghiên cứu của G. Smith (1967) và V.I. Vasilevich. (Dẫn theo
Phạm Ngọc Thường, 2003 [53] ).
Như vậy, các công trình nghiên cứu về tái sinh trªn thế giới chủ yếu tập
trung vµo phương pháp nghiên cứu, ảnh hưởng của các nhân tố đến cây tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
sinh, quy luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi, đặc biệt ở rừng nhiệt đới. Đó là
cơ sở để xây dựng các phương thức lâm sinh hợp lý nhằm thúc đẩy quá trình
tái sinh có hiệu quả ,bền vững.
1.4.2.2. ViÖt Nam
Một số kết quả nghiên cứu về tái sinh thường được đề cập trong các công
trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học và một phần
công bố trên các tạp chí.
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch
rừng đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái
sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) [27] đã phân chia khả
năng tái sinh thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu.
Vũ Đình Huề (1975) [28] đã tổng kết: tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc
Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng
nguyên sinh, tổ thành loài cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán
rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh
theo đám được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên
mặt đất rừng. Với những kết quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái

sinh áp dụng cho các đối tượng rừng lá rộng miền Bắc nước ta.
Thái Văn Trừng (1978) [54] trong “ Thảm thực vật rừng Việt Nam” đã
nhấn mạnh một nhân tố sinh thái trong nhóm nhân tố khí hậu đã khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên của các xã hợp trong thảm thực vật
rừng, đó là ánh sáng.
Vũ Tiến Hinh (1991) khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên của rừng
tự nhiên ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận xét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
hệ số tổ thành tính theo % số cây của tấng tái sinh và tầng cây cao có liên
quan chặt chẽ. Các loài có hệ số tổ thành ở tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ
thành ở tầng tái sinh cũng vậy [26].
Nguyễn Vạn Thường (1991) [52], đã tổng kết và đưa ra kết luận về tình
hình tái sinh tự nhiên ở một số khu rừng miền Bắc Việt Nam như sau: Hiện
tượng tái sinh dưới tán rừng của các loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục, không
mang tính chất chu kỳ. Sự phân bố số cây tái sinh không đồng đều, số cây
mạ có chiều cao nhỏ hơn 20 cm chiếm ưu thế rõ rệt so với lớp cây ở các cấp
kích thước khác nhau. Những loài cây gỗ cứng sinh trưởng chậm chiếm tỷ lệ
thấp và phân bố tản mạn, thậm chí còn vắng bóng trong thế hệ sau trong
rừng tự nhiên.
Năm 1993, Đinh Quang Diệp nghiên cứu tái sinh tự nhiên ở rừng khộp
vùng Easup, DaKLac đã kết luận: độ tàn che, độ dày rậm của thảm tươi, thảm
mục, lửa rừng và điều kiện lập địa là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến số
lượng và chất lượng cây tái sinh dưới rán rừng, lửa rừng là nguyên nhân gây
nên hiện tượng chây chồi. Quy luật phân bố cây trên mặt đất theo tác giả là
khi tăng diện tích thì lớp cây tái sinh có phân bố cụm [19].
Lê Mộng Chân (1994) [6], khi điều tra tổ thành loài cây ở vùng núi cao
vườn quốc gia Ba Vì, ông cho rằng tình hình tái sinh tốt là 4100- 7440 cây/ha.

Cây có triển vọng chiếm trên 60%, thành phần cây tái sinh phần lớn là những
cây chịu bóng.
Năm 1994, Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự khi nghiên cứu về khoanh nuôi
và phục hồi rừng đã cho rằng, nghiên cứu quá trình tái sinh phải nắm chắc các
yếu tố môi trường và các quy luật tự nhiên tác động lên thảm thực vật. Qua đó
xác định các điều kiện cần và đủ để tác động của con người đi đúng hướng.
Quá trình đó được gọi là xúc tiến tái sinh tự nhiên [43].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Để đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền
Bắc, Trần Xuân Thiệp (1995) [51], nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về
lượng, chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả
kết luận: rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện
có, lớn nhất so với các vùng khác cßn rừng Tây Bắc phần lớn là diện tích
rừng phục hồi sau nương rẫy.
Lê Ngọc Công (2004) [15], khi nghiên cứu quá trình phục hồi bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên cho rằng giai đoạn đầu
của quá trình diễn thế phục hồi rừng (giai đoạn 1- 6 năm) mật độ cây tăng lên
sau đó giảm. Quá trình này bị chi phối bởi quy luật tái sinh tự nhiên, quá trình
nhập cư và quá trình đào thải của các loài cây.
Tóm lại, có nhiều công trình nghiên cứu về tái sinh rừng ë Việt Nam
nhưng tổng kết thành qui luật tái sinh cho từng loại rừng thì còn rất ít.
1.5. Nghiên cứu về tái sinh, phục hồi thảm thực vật sau nƣơng rẫy
1.5.1. Thế giới
F. A. Bazzaz (1968) khi nghiên cứu quá trình diễn thế phục hồi thảm
thực vật trên đất sau trồng trọt bỏ hoang ở vùng núi cao Shawnee, Illios (Mỹ)
đã đi đến kết luận rằng xói mòn đất có ảnh hưởng lâu dài đến diễn thế, ảnh
hưởng này thể hiện ở mật độ cây, tổng diện ngang của rừng đang phục hồi

(Dẫn theo Lê Đồng Tấn, 2000 [48]).
H. Lamprecht et al (1989), Warner (1991), Rouw (1991) khi nghiên cứu
diễn thế đều cho rằng: đầu tiên đám nương rãy được các lào cỏ xâm chiếm,
nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng lân cận hỗ
trợ cho việc hình thành quần tụ các loài cây gỗ. Những cây gỗ tiên phong chết
đi sau 5-10 năm và được thay dần bằng các cây rừng mọc chậm, ước tính phải
mất hàng trăm năm thì nương rãy cũ mới chuyển thành loại hình rừng gần với
dạng rừng nguyên sinh ban đầu. (Dẫn theo Phạm Ngọc Thường, 2003 [53]).

×