Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
THÂN THỊ HUỆ
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ KHẢ NĂNG
TÁI SINH CỦA CÁC LOÀI CÂY GỖ TRONG THẢM THỰC VẬT
TỰ NHIÊN VÀ RỪNG TRỒNG Ở XÃ
BIỂN ĐỘNG, HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC
Mã số: 60.42.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THẾ HƢNG
THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào.
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 04 năm 2012
Tác giả
Thân Thị Huệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thế Hƣng
người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu để
tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sinh – KTNN,
khoa Sau đại học (Đại học Thái Nguyên), Viện sinh thái và Tài nguyên sinh
vật (Viện Khoa học và Công Nghệ Việt Nam) đã nhiệt tình giảng dạy và giúp
đỡ tôi trong học tập nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn uỷ ban nhân dân xã Biển Động, Trạm kiểm
lâm xã Biển Động, phòng thống kê huyện Lục Ngạn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình, bạn bè
đã luôn động viên cổ vũ tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mông nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa
học, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 04 năm 2012
Tác giả
Thân Thị Huệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt iii
Danh mục các bảng iv
Danh mục các hình vẽ, đồ thị v
MỞ ĐẦU 0
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Giới hạn nghiên cứu 3
4. Đóng góp mới của luận văn 3
Chƣơng 1:TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. Một số khái niệm liên quan 5
1.1.1. Thảm thực vật 5
1.1.2. Khái niệm rừng 5
1.1.3. Tái sinh rừng 6
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam 8
1.2.1. Trên thế giới 8
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 16
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 28
2.1. Đối tượng nghiên cứu 28
2.2. Nội dung nghiên cứu 28
2.3. Phương pháp nghiên cứu 28
2.3.1. Phương pháp ô tiêu chuẩn 28
2.3.2. Phương pháp điều tra diện rộng (điều tra theo tuyến) 30
2.3.3. Phương pháp thu thập số liệu 30
2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
2.3.5. Phương pháp điều tra trong nhân dân 31
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU 32
3.1. Điều kiện tự nhiên 32
3.1.1. Vị trí địa lý 32
3.1.2. Địa hình 34
3.1.3. Đặc điểm thổ nhưỡng 34
3.1.4. Khí hậu thủy văn 35
3.1.5. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng 36
3.2. Tình hình kinh tế xã hội vùng nghiên cứu 36
3.2.1. Dân sinh 36
3.2.2. Sản xuất nông, lâm nghiệp 38
3.2.3. Giao thông thủy lợi 38
3.2.4. Văn hóa, giáo dục, y tế 39
3.2.5. Quốc phòng – An ninh 40
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42
4.1. Thành phần loài, thành phần dạng sống của thực vật 42
4.1.1. Thành phần loài thực vật 42
4.1.2. Dạng sống 52
4.2. Khả năng tái sinh tự nhiên của các loài cây gỗ trong hai trạng thái thảm
thực vật nghiên cứu 58
4.2.1. Đặc điểm cấu trúc tổ thành và mật độ cây gỗ tái sinh 58
4.2.2. Sự phân bố cây gỗ tái sinh theo các cấp chiều cao 62
4.2.3. Phân bố cây gỗ tái sinh theo mặt phẳng nằm ngang 64
4.2.4. Nguồn gốc và chất lượng của cây gỗ tái sinh 66
4.2.5. Biến động về mật độ cây gỗ tái sinh theo vị trí địa hình 69
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC 79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Viết đầy đủ
D
1,3
Đường kính thân cây tại vị trí 1,3m
TTV
Thảm thực vật
KVNC
Khu vực nghiên cứu
SL
Số lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Hiện trạng dân số xã Biển Động 37
Bảng 4.1. Số lượng và tỷ lệ (%) taxon thực vật ở khu vực nghiên cứu 42
Bảng 4.2. Số lượng và tỷ lệ (%) các họ, các chi, các loài trong các trạng thái
thực vật nghiên cứu 44
Bảng 4.3. Sự biến động về số loài trong các họ thực vật ở khu vực nghiên cứu . 45
Bảng 4.4. Sự biến động về số chi trong các họ thực vật ở khu vực nghiên cứu 45
Bảng 4.5. Số loài trong các họ giàu loài nhất ( từ 4 loài trở lên) trong các trạng
thái thực vật nghiên cứu 46
Bảng 4.6. Một số chỉ tiêu về cấu trúc hệ thống của các thảm thực vật 47
Bảng 4.7.Sự phân bố số loài trong các họ thực vật ở rừng tái sinh tự nhiên 48
Bảng 4.8. Sự phân bố số chi trong các họ thực vật ở rừng tái sinh tự nhiên 48
Bảng 4.9. Sự phân bố các loài trong các họ thực vật ở rừng trồng 50
Bảng 4.10. Sự phân bố các chi trong các họ thực vật ở rừng trồng 50
Bảng 4.11. Sự phân bố các nhóm dạng sống thực vật trong các trạng thái
thảm thực vật nghiên cứu 53
Bảng 4.12. Thành phần dạng sống trong từng trạng thái thảm thực vật 54
Bảng 4.13. Cấu trúc tổ thành, mật độ cây gỗ tái sinh của các trạng thái thảm
thực vật nghiên cứu 59
Bảng 4.14. Mật độ cây gỗ tái sinh theo các cấp chiều cao của các trạng thái
thảm thực vật nghiên cứu 62
Bảng 4.15. Nguồn gốc và chất lượng cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm
thực vật 67
Bảng 4.16. Sự biến động về mật độ cây gỗ tái sinh theo vị trí địa hình của các
trạng thái thảm thực vật 69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1. Cách bố trí các ô dạng bản trong các ô tiêu chuẩn 29
Hình 4.1. Biểu đồ taxon thực vật ở khu vực nghiên cứu 43
Hình 4.2. Biểu đồ về số họ, số chi và số loài thực vật trong các trạng thái thực
vật nghiên cứu 44
Hình 4.3. Các nhóm dạng sống thực vật trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu 53
Hình 4.4. Thành phần các nhóm dạng sống của các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu 54
Hình 4.5. Sự biến động mật độ cây gỗ tái sinh qua các cấp chiều cao trong
các trạng thái thảm thực vật nghiên cứu 63
Hình 4.6. Nguồn gốc của cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm thực vật 67
Hình 4.7. Chất lượng cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm thực vật 68
Hình 4.8. Sự biến động mật độ cây gỗ tái sinh theo vị trí địa hình của các
trạng thái thảm thực vật 69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng là tài nguyên quý giá của nước ta, rừng không những là cơ sở của sự
phát triển kinh tế mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, đóng góp vào
sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và sự tồn tại của Trái Đất. Rừng là
nơi cung cấp nguồn gen thực vật phong phú, là nơi ở của nhiều loài động vật
quý hiếm. Rừng không chỉ cung cấp nguyên liệu như gỗ, củi, lâm sản ngoài
gỗ cho một số ngành sản xuất mà quan trọng hơn là các lợi ích của rừng trong
việc duy trì và bảo vệ môi trường đó là điều hòa khí hậu, hạn chế xói mòn và
bồi lắng, bảo vệ bờ biển, điều tiết nguồn nước và hạn chế lũ lụt.
Mặc dù các lợi ích môi trường do rừng đem lại là rất đáng kể nhưng việc
quản lý bền vững tài nguyên rừng vẫn là những thách thức.
Trong giai đoạn 1990- 2000 tổng diện tích rừng trên toàn thế giới mất đi
là 8,9 triệu ha và trong giai đoạn 2000- 2005 là 7,5 triệu ha (FAO 2005a).
Ở Việt Nam, diện tích rừng cũng bị giảm đi nhanh chóng trong giai đoạn
1943- 1990. Diện tích rừng mất đi trong giai đoạn này là khoảng 5 triệu ha.
Trong giai đoạn 1990- 2005 diện tích rừng được cải thiện đáng kể. Diện tích
rừng toàn quốc hiện nay khoảng 13.118.773 ha, trong đó rừng tự nhiên là
10.348.591 ha và diện tích rừng trồng là 2.770.182 ha, rừng mới trồng là
342.730 ha, độ che phủ rừng là 38,7% tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008
(Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn).
Hậu quả của mất rừng đã gây nên rất nhiều tác hại đối với môi trường,
đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy vấn đề bảo vệ
nguồn tài nguyên rừng, khôi phục và phát triển các hệ sinh thái rừng là nhiệm
vụ cấp bách hiện nay ở nước ta cũng như ở các nước trên thế giới.
Hiểu rõ vai trò to lớn của rừng và hiện trạng rừng ở nước ta, ngay từ
những thập niên 60 của thế kỷ XX Đảng và nhà nước đã có nhiều trương trình
trồng rừng như trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán, chương trình 327,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
chương trình 135… đặc biệt là kỳ họp thứ 3 quốc hội khóa 10 (tháng 5/1998)
đã thông qua nghị quyết trồng mới 5 triệu ha rừng đến năm 2010 để nâng độ
che phủ rừng của cả nước lên trên 40%. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng hiện nay là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi trung du phía Bắc có diện tích rừng và
tiềm năng rừng rất lớn nhưng nhiều năm qua do nhiều nguyên nhân khác nhau
dẫn đến diện tích rừng và tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp và suy giảm.
Rừng tự nhiên có trữ lượng gỗ cao thay vào đó là rừng trồng với độ đa dạng
thấp và đồi núi trơ trọi, các hệ sinh thái rừng bị phá huỷ, tính chất đất đai bị
thay đổi làm suy giảm chất lượng đất rừng, suy giảm đa dạng sinh học, cuộc
sống của người dân bị đe doạ. Việc khai thác và sử dụng quá mức, công tác
quản lý bảo vệ rừng kém hiệu quả làm cho rừng giảm sút nhanh chóng cả về
số lượng và chất lượng. Những tác động này đã ảnh hưởng lớn đến khả năng
tồn tại của rừng, làm xáo trộn các quy luật cấu trúc và tái sinh tự nhiên của
rừng, diễn thế rừng đi theo chiều hướng tiêu cực, đất đai bị thoái hoá, rừng có
sức sản xuất thấp và kém ổn định.
Thực tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp nhằm phục hồi rừng, quản lý
rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy đủ
về bản chất quy luật diễn thế của hệ sinh thái rừng, là cơ sở quan trọng nhất,
giúp các nhà lâm nghiệp có thể chủ động trong việc xác lập các kế hoạch và
biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần quản lý và kinh
doanh rừng lâu bền.
Để góp phần quản lý, bảo vệ và tăng cường phát triển diện tích rừng, tích
cực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở địa phương dựa trên cơ sở
khoa học, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần loài và khả
năng tái sinh của các loài cây gỗ trong thảm thực vật tự nhiên và rừng
trồng ở xã Biển Động, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thành phần loài và khả năng tái sinh của các loài cây gỗ,
nhằm xác định những sự khác biệt giữa thảm thực vật phục hồi tự nhiên và
một số mô hình trồng rừng trên địa bàn xã Biển Động, huyện Lục Ngạn, tỉnh
Bắc Giang, làm cơ sở cho phương hướng trồng rừng và bảo vệ rừng hợp lý,
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
3. Giới hạn nghiên cứu
3.1. Giới hạn khu vực nghiên cứu
Khu vực nghiên cứu là xã Biển Động, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Đây là xã miền núi nằm ở phía Đông tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc
Giang 60 km.
3.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hai trạng thái thảm thực vật:
- Rừng tái sinh tự nhiên tại thôn Biển Dưới, xã Biển Động, huyện Lục
Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
- Rừng trồng hỗn giao thông và keo tại thôn Biển Trên, xã Biển Động,
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
3.3. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu một số đặc điểm: thành phần loài, thành phần dạng sống và khả
năng tái sinh của cây gỗ trong hai trạng thái thảm thực vật rừng tái sinh tự
nhiên và rừng trồng hỗn giao thông và keo tại xã Biển Động, huyện Lục
ngạn, tỉnh Bắc Giang.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu xác định được thành phần loài, thành phần dạng sống của hai
trạng thái thảm thực vật nghiên cứu tại xã Biển Động, huyện Lục ngạn, tỉnh
Bắc Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Nghiên cứu được khả năng tái sinh của các loài cây gỗ và đề xuất một
số biện pháp lâm sinh để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên thực vật tại
địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Thảm thực vật
Thảm thực vật (vegetation) là khái niệm rất quen thuộc, có nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo
J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp thực bì của trái đất và các
bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Thái Văn Trừng (1978) [49] cho
rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên mặt đất như một tấm
thảm xanh. Trần Đình Lý (1998) [35] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ
lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên
toàn bộ bề mặt trái đất.
Như vậy thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ
thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như:
thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn…
Thảm thực vật thứ sinh là các trạng thái thảm thực vật xuất hiện sau khi
thảm thực vật nguyên sinh bị tác động làm thay đổi hoặc bị phá hoại. Thảm
thực vật thứ sinh thường bao gồm các trạng thái sau: thảm cỏ, thảm cây bụi,
rừng tái sinh tự nhiên ở các giai đoạn khác nhau (rừng non, rừng trưởng thành,
rừng già…). Nếu so sánh ta sẽ thấy thảm thực vật thứ sinh sẽ khác biệt so với
thảm thực vật nguyên sinh ở thành phần thực vật, cấu trúc tầng tán, năng lực
phát triển, sinh khối, hoàn cảnh rừng và nhiều yếu tố khác.
1.1.2. Khái niệm rừng
Ngay từ thủa sơ khai con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về
rừng. Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng
phát triển những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành học
thuyết về rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Theo Tansley (1953): Rừng là một hệ sinh thái
- Theo Sucasep (1964): Hệ sinh thái rừng đồng nghĩa với quần lạc sinh
địa rừng.
Quần lạc sinh địa rừng là một khoảng đất bất kỳ có sự đồng nhất về
thành phần, cấu trúc và đặc điểm các thành phần tạo nên nó và về mối quan
hệ giữa chúng với nhau, có nghĩa là đồng nhất về thực vật che phủ về thế giới
động vật và vi sinh vật cư trú tại đó, về các điều kiện tiểu khí hậu, thủy văn,
về đất đai, về các kiểu trao đổi chất và năng lượng với các thành phần của nó
với các hiện tượng tự nhiên khác (V.N Sucasep1964).
Hệ sinh thái rừng (Forest ecosystem): là một hệ sinh thái mà thành phần
nghiên cứu chủ yếu là sinh vật rừng ( các loài cây gỗ, cây bụi, thảm tươi, hệ
động vật và vi sinh vật rừng) và môi trường vật lý của chúng (khí hậu và đất).
Nội dung nghiên cứu hệ sinh thái rừng bao gồm cả cá thể, quần thể, quần xã
và hệ sinh thái, về mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cây rừng và giữa
chúng với các sinh vật khác trong quần xã, cũng như mối quan hệ lẫn nhau
giữa những sinh vật này với hoàn cảnh xung quanh tại nơi mọc của chúng
(E.P. Odum 1986, G. Stephan1980).
Theo khoản 1 điều 3 của luật bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam năm
2004: Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật
rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố sinh vật khác, trong đó cây gỗ,
tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán
rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản
xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng (quy định trước đây được ghi
trong văn bản kỹ thuật lâm sinh là rừng phải có độ tàn che từ 0,3 trở lên).
1.1.3. Tái sinh rừng
Tái sinh rừng là quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
biểu hiện ở sự xuất hiện 1 thế hệ cây con của những loài cây gỗ dưới tán rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Theo nghĩa rộng: Tái sinh rừng là sự tái tạo một hệ sinh thái rừng mới
bảo đảm cho rừng tồn tại và phát triển. Căn cứ vào nguồn sống, người ta chia
3 mức độ tái sinh như sau:
- Tái sinh nhân tạo: nguồn giống do con người tạo ra bằng cách gieo
giống trực tiếp.
- Tái sinh bán nhân tạo: nguồn giống được con người tạo ra bằng cách
trồng bổ sung các cây giống, sau đó chính cây giống sẽ là tạo ra nguồn hạt cho
quá trình tái sinh.
- Tái sinh tự nhiên: nguồn hạt (nguồn giống) hoàn toàn tự nhiên. Theo
Phùng Ngọc Lan (1986) [28], tái sinh được coi là một quá trình sinh học mang
tính đặc thù của hệ sinh thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự
xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở nơi còn hoàn cảnh rừng.
Theo ông vai trò lịch sử của thế hệ cây con là thay thế thế hệ cây gỗ già cỗi.
Vì vậy, tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại thành phần
cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Ông cũng khẳng định tái sinh rừng có
thể hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng.
Như vậy, tái sinh rừng là một khái niệm chỉ khả năng và quá trình thiết
lập lớp cây con dưới tán rừng. Đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây
con đều có nguồn gốc từ hạt và chồi có sẵn, kể cả trong trường hợp tái sinh
nhân tạo thì cây con cũng phải mọc từ nguồn hạt do con người gieo trước đó.
Nó được phân biệt với các khái niệm khác (như trồng rừng) là sự thiết lập lớp
cây con bằng việc trồng cây giống đã được chuẩn bị trong vườn ươm. Vì đặc
trưng đó nên tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của các hệ
sinh thái rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
Trên thế giới, những công trình nghiên cứu về thảm thực vật đã được
công bố nhiều, trong đó tiêu biểu là các tác giả sau đây:
Theo Thái Văn Trừng (1978) [49], hệ thống phân loại đầu tiên về thảm
thực vật rừng nhiệt đới là của A.F.Schimper (1898), ông đã chia thảm thực vật
thành 3 quần hệ: quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi.
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến
Điện đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới và núi cao [49].
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ
và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ
rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền
núi; loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [49].
Maurand (1943) [55] nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia
thảm thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông
Dương và vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc
trong các vùng đó.
Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của các hệ thống phân loại thảm thực vật
nói trên là không thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố sinh thái với
thảm thực vật, hoặc là không làm nổi bật mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố
sinh thái với nhau.
Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật
thế giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế
giới thành 5 lớp quần hệ (Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp
quần hệ cây bụi, lớp quần hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo) [14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
1.2.1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nội dung được
tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên cứu
của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
Creepva (1978)… Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật.
Ramakrishman (1981 – 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Long chun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài .
Từ những dẫn liệu trên ta thấy những nghiên cứu về thành phần loài của
các tác giả trên thế giới đều tập trung nghiên cứu và đánh giá thành phần
loài ở một vùng và khu vực cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong
mối tương quan với điều kiện địa hình và khí hậu. Tuy vậy, số lượng các
công trình nghiên cứu còn chưa nhiều, cần có những nghiên cứu cụ thể hơn
rộng rãi hơn nhằm mục đích có thể đánh giá chính xác thành phần loài thực
vật đặc trưng của một khu vực hoặc một quốc gia.
1.2.1.3. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật
thường xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi
phần trên mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi;
thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh
trưởng và phát triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo
nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều năm và lớp cây hàng năm .
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [2].
Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật,
nhất là hệ thực vật của các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của
Raunkiaer (1934)
[8]
để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một
trong các dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác
nhau về khả năng thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm.
Từ tổ hợp các dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí
của chồi nằm ở đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác
nhau
trên trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13T
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng,
đảm bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
trên những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu
tố môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của
thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản… Vì lẽ đó, trong nghiên cứu của mình,
tôi cũng chọn lựa cách phân chia dạng sống này của Raunkiaer.
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất
sinh thái học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu
hiệu hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả
nhiều lần hay một lần trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và
lớp phụ. Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh.
Trong bảng phân loại này ông còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm,
nhóm phụ, tổ và các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm
phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu
thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm
của cây. Vì thế việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng
sống sẽ giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng
của môi trường
[8]
.
1.2.1.4. Những nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con
của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng,
chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy.
Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy
tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản
của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng
được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng
cây con, đặc điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành
lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
(Mibbre.ad, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946;
Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964;
Rollet, 1969). Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có
một số loài có giá trị nên trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài
cây có ý nghĩa nhất định [49].
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng
mưa thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều
kiện rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc
điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục
của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Vấn đề
tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các cách thức
xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu
rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức
chặt tái sinh. Công trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith (1961,
1963) với phương thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc
Borneo; Donis và Maudoux (1951, 1954) với công thức đồng nhất hoá tầng
trên ở Zaia; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh
dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần
nâng cao vòm lá ở Andamann [2].
Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với
tái sinh đã được Baur (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học
của kinh doanh rừng mưa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Aubreville (1938) nhận
thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Aubreville
đã khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết
nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị
hạn chế. Vì vậy lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho
thực tiễn sản xuất các biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng theo những
mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
Tuy nhiên, những kết quả quan sát của Davit và P.W. Richards (1933),
Bơt (1946), Sun (1960), Richards (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ lại khác
hẳn với nhận định của A.Obrevin. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục
của các loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong
một thời gian dài [55].
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ô
đo đếm thông thường từ 1 đến 4 m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi
trong điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình
hình tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên,
Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó
kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái
sinh ở các trạng thái rừng khác nhau [55].
Những công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt
đới đáng chú ý là công trình nghiên cứu của P. W. Richards (1952) [55],
Bernard Rollet (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái
sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1m x 1m; 1m x
1,5m) cây tái sinh có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poison. Ở châu
Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Taylo (1954), Barnard (1955) xác định số
cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
nhân tạo. Ngược lại các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
Châu Á như Bava (1954), Budowski (1956), Atinot (1965) lại nhận định dưới
tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do
vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh
có sẵn dưới tán rừng [10].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
thông qua độ tàn che của rừng, độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm
tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. G.N. Baur
(1976) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây
con còn đối với sự nẩy mầm và phát triển của cây mầm ảnh hưởng này không
rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở
những quần tụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn
có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật
độ cây tái sinh thường khá lớn nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thấp
thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng
phục hồi sau nương rẫy.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy tầng cây cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những
quần tụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và thảm
cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không
đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có
điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở
ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) [10].
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào
làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây
dựng các phương thức lâm sinh hợp lý.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hóa, số lượng loài thực vật tăng dần từ
ban đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ
thuộc vào tỷ lệ các loài nguyên thủy mà nó được sống sót từ thời gian đầu
của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ,
tần số canh tác của khu vực đó [1]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả
Lambertetal (1989), Warner (1991), Rouw (1991) đều cho thấy quá trình
diễn thế sau nương rẫy như sau: đầu tiên đám nương rẫy được các loài cỏ
xâm chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ
vùng lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ, tạo ra
tiểu hoàn cảnh thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con. Những loài
cây gỗ tiên phong chết đi sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài
cây rừng mọc chậm, ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ
mới chuyển thành loại hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương
rẫy từ 1- 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981 – 1992) đã
cho biết chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở
pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hóa. Long Chun
và cộng sự (1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy
tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương
rẫy bỏ hóa được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hóa 19
năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài [1].
Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế
giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy luật tái
sinh tự nhiên ở một số nơi. Đặc biệt sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái
sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý tài
nguyên rừng một cách bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
Rừng là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Vì vậy sử dụng rừng
hợp lý là rất cần thiết để bảo tồn nguồn tài nguyên này. Trong kinh doanh
rừng, nghiên cứu về rừng thì phân loại rừng là hướng đi hiệu quả. Công tác
phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam thực sự mới được tiến hành khi
người Pháp tiến hành khai thác thuộc địa (Việt Nam).
Năm 1918, nhà bác học Pháp, Quang Huy là người đầu tiên đưa ra 1
bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc Bộ Việt Nam ( đây được xem là bảng
phân loại thảm thực vật nhiệt đới Châu Á đầu tiên trên Thế Giới). Theo bảng
phân loại này rừng Miền Bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu.
Năm 1943, kỹ sư lâm học người pháp, Ronaldo đã chia Đông Dương
thành 3 vùng thảm thực vật: Thảm thực vật Bắc Đông Dương, thảm thực vật
Nam Đông Dương, thảm thực vật trung gian. Theo bảng phân loại này vùng
Đông Dương có 8 kiểu rừng.
Năm 1953 ở Miền Nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại rừng Miền
Nam Việt Nam của Maurand khi ông tổng kết về các công trình nghiên cứu
các quần thể rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Năm 1956, giáo sư người Việt Nam, Dương Hàm Hi đã xếp loại thảm
thực vật rừng Miền Bắc Việt Nam theo một bảng phân loại mới.
Năm 1962, ở Miền Nam Việt Nam còn xuất hiện một bản phân loại
thảm thực vật rừng Nam Trường Sơn.
Bản phân loại đầu tiên của ngành lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng Việt Nam là bản phân loại của cục điều tra và quy hoạch rừng thuộc
tổng cục lâm nghiệp Việt Nam (1960), rừng trên lãnh thổ Việt Nam được
chia thành 4 loại hình lớn
Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc
tỉa thưa.
Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo
kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái
sinh, tu bổ, cải tạo.
Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu,
chưa bị phá hoại, cần khai thác hợp lý [49].
Phân loại này không phân biệt được kiểu rừng nguyên sinh với kiểu
phụ thứ sinh và các giai đoạn diễn thế.
Năm 1970, Trần Ngũ Phương đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền Bắc
Việt Nam thành 3 đai lớn theo độ cao: Đai rừng nhiệt đới mưa mùa, đai rừng
Á nhiệt đới mưa mùa, đai rừng Á nhiệt đới mưa mùa núi cao.
Năm 1915, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, tại hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat, 1975), Thái
Văn Trừng đã đưa ra bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam phù hợp
nhất trên quan điểm sinh thái cho đến nay. Gồm 14 kiểu rừng sau:
1. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới: Phân bố ở Lạng Sơn,
Quảng Ninh, Hà Giang, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng.
2. Kiểu rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới: Phân bố ở Ba Chẽ ( Quảng
Ninh), An Châu, Biển Động ( Bắc Giang), Bến Chuông ( Thanh hóa), Quỳ
Châu (Nghệ An).
3. Kiểu rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới: Phân bố ở Nghệ An, Bắc
Giang, Đắc Lắc, Đồng Nai.
4. Kiểu rừng kín hơi khô nhiệt đới
5. Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới
6. Kiểu rừng cây lá kim hơi khô nhiệt đới
7. Kiểu trảng cây to, cây bụi cỏ cao, khô nhiệt đới
8. Chuông bụi gai hạn nhiệt đới