Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 122 trang )

LUẬN
VĂN:
Chất lượng cán bộ, công chức
chính
quyền cấp xã ở tỉnh Hưng Yên
MỞ
ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong hệ thống
chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, vấn đề này được Hiến pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi tại điều 118. Chính quyền cấp xã có chức năng: Bảo
đảm việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, quyết định của chính quyền Nhà nước cấp trên; quyết định và đảm bảo thực hiện
các chủ trương, biện pháp để phát huy mọi khả năng và tiềm năng của địa phương về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, không ngừng cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã và làm tròn nghĩa vụ của địa phương với
Nhà nước.
Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức
và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Sự vững mạnh của
chính quyền cấp xã là nền tảng cho sự vững mạnh của hệ thống chính quyền trong cả
nước và ngược lại. Khâu quan trọng quyết định sự vững mạnh của hệ thống chính quyền
cơ sở phải nói đến khâu cán bộ, hay nói cách khác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là then chốt
trong công tác xây dựng Đảng, trung tâm trong kiện toàn hệ thống Nhà nước.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân
dân, hàng ngày triển khai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết
hoặc kiến nghị lên chính quyền cấp trên những kiến nghị, ý kiến, nguyện vọng của nhân
dân.
Vì vậy, chất lượng hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ảnh
hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự


nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính quyền
cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính quyền cấp xã vững mạnh
thì phải xây dựng cán bộ, công chức có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp
đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc
lần thứ IX của
Đảng
(2001)
khẳng
định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng
lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ,
công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý
hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức
năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp
thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán
bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ
xã, phường, thị trấn [14].
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đã xác định từ nay đến năm 2005,
cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc trong đó ghi rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo
việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp
dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [15].

Thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành TW (khóa IX), Pháp
lệnh cán bộ, công chức (đã được sửa sổi, bổ sung năm 2000, 2003); Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010; Nghị định số
114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn; Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ Nội
vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày
21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn; Thông tư liên tịch số
34/2004/TTLT-BNV-BTC-BLĐXH
ngày 14
tháng 5 năm 2004 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết
định số 03/2004/QĐ- TTG ngày 07 tháng 01 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
đến năm 2010; Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn; QĐ số 40/2006/QĐ/TTCP ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ :phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn
2006-2010”; QĐ 106/2007/QĐ-TTCP ngày 13 tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ về việc xây dựng Đề án “Một số giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và
tạo nguồn đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Bắc (giai đoạn 2007 - 2010)
là cơ sở pháp lý quan trọng để làm tốt công tác cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Hưng Yên là một tỉnh miền núi nghèo, có địa hình phức tạp, chủ yếu là núi cao, độ
dốc lớn, xen kẽ với các thung lũng hẹp. Ngay từ khi thành lập tỉnh (tách ra từ tỉnh Lai
Châu năm 2004), tỉnh Hưng Yên có nhiều thuận lợi và khó khăn, trong đó khó khăn lớn
nhất là sự thiếu hụt trầm trọng và sự yếu kém của cán bộ, công chức trong toàn tỉnh nói
chung và cán bộ, công chức chính quyền cấp xã nói riêng, nên hiệu quả kinh tế - xã hội

của tỉnh không cao.
Trong những năm qua, cấp uỷ và chính quyền tỉnh Hưng Yên đã quan tâm tới
công tác cán bộ, nhưng thực tế năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức đang
còn thấp, nhất là năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Tỉnh, do tỉnh Hưng Yên còn thiếu hệ thống giải
pháp đồng bộ về nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu Chất lượng cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở tỉnh Hưng Yên là rất cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chất lượng cán bộ, công chức đã được nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà
nghiên cứu và nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều gốc
độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực trên như
sau:
PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên: Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
GS. Hồ Văn Thông: Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta được in
trong cuốn sách Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2, Nxb Tư tưởng văn
hóa, Hà Nội 1991;
Nguyễn Thị Hải: Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái
Bình trong điều kiện cải cách nền hành
chính
nhà nước, Hà Nội, 2001.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình nghiên cứu đề
cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn.
PGS, TS Bùi Tiến Quý: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000;

TS Thang Văn Phúc và TS Chu Văn Thành đồng chủ biên: Chính quyền cấp xã và
quản lý nhà nước cấp xã của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức Cán bộ
chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
TS Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên: Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở
Việt Nam của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001;
TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên: Thực hiện quy chế dân chủ
và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí Thông tin Chính
trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như:
TS Lê văn Hòe: Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các tỉnh miền
núi, Đề tài độc lập cấp nhà nước: Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
các tỉnh miền núi, Hà Nội, 2002;
PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: Thực trạng và giải pháp,
Tạp chí Cộng sản số 2/1999;
GS,TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ
sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002;
PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: thực trạng và giải pháp,
Tạp chí Cộng sản số 2/1999;
GS.TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ
sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002;
Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên là hết sức có giá trị đối với những
người đã và đang nghiên cứu về chất lượng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, đến nay đề tài:
Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Hưng Yên là công trình
nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện đối với cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở
tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã; đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã trong
những năm qua ở Hưng Yên, qua đó đưa ra những quan điểm, giải pháp để nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Hưng Yên trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng và hệ thống hóa một số quan điểm lý luận về chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã; xây dựng khái niệm và nêu ra những đặc điểm của chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã. Phân tích nội dung, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã cũng như
những nguyên nhân và xu hướng phát triển của cán bộ, công chức cấp xã ở Hưng Yên;
Đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở Hưng Yên trong những năm qua và chỉ ra nguyên nhân khách quan
và chủ quan của những hạn chế đó.
Dự báo và xây dựng những tiêu chuẩn về cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Hưng
Yên, đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm đảm bảo về chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã ở Hưng Yên hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Quan niệm về chính quyền cấp xã còn nhiều ý kiến khác nhau. Luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu chất lượng cán bộ, công chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân cấp xã.
Luận văn nghiên cứu cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Hưng Yên nhưng
chỉ giới hạn thời gian từ khi thành lập tỉnh Hưng Yên (năm 2004) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật
trong vấn đề chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp như: phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp để xử lý tài liệu thu thập.

5. Đóng góp của luận văn
5.1. Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước về cán bộ, công chức; công tác cán bộ và xây dựng cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã.
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của chất lượng cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã; khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã;
Có sự luận giải, đánh giá về chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Hưng
Yên hiện nay.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp
xã ở tỉnh Hưng Yên;
Với kết quả đạt được, đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và ứng dụng tại tỉnh Hưng Yên;
Các giải pháp đưa ra cũng có thể được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và áp dụng
rộng ngoài phạm vi tỉnh Hưng Yên. Qua đó, tác giả hy vọng sẽ được đóng góp một phần
nhỏ vào tiến trình quản lý nhà nước nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
tại Việt Nam.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà nước trong
việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Hưng Yên được hoàn thiện
hơn.
Các giải pháp của đề tài sẽ làm cơ sở để xây dựng mô hình về chất lượng cán bộ,
công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã đối với các lĩnh vực khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.

Chương
1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT
LƯỢNG
CÁN BỘ,
CÔNG
CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP

1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, TIÊU CHUẨN CỦA CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ; KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm, vị trí vai trò, đặc điểm, tiêu chuẩn của cán
bộ,

công
chức chính quyền
cấp xã
a) Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa tiến hành
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng ta cần
phải xây dựng cán bộ, công chức có chất lượng đồng bộ, phù hợp với những yêu cầu
mới đặt ra, đặc biệt là cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Để làm được điều đó trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã.
Quan niệm về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
* Quan niệm về cán bộ: Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng
mấy chục năm gần đây; được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Từ đó đến nay thuật ngữ cán bộ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều

từ điển có khái niệm cán bộ và được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể, nhưng tựu chung lại có thể quan niệm một cách chung nhất: "Cán
bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một
tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [38,
tr.20].
* Quan niệm về công chức:
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác, được hưởng
lương từ ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức, là người làm việc trong
hệ thống chính quyền nhà nước.
Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Tuy nhiên, do
đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm về công chức ở Việt Nam
cũng có đặc thù.
Trong một số nghị quyết của Đảng cũng như một số văn bản pháp quy, mặc dù
chưa ra định nghĩa rõ ràng nhưng đã có đề cập đến khái niệm về công chức. Theo Pháp
lệnh cán bộ công chức 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và 2003) thì công chức
được hiểu là:
Công dân Việt Nam, trong biên chế do được Nhà nước tuyển dụng, bổ
nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc liên tục trong các cơ
quan nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội hoặc trong
lực lượng vũ trang mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; được xếp vào ngạch bậc và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước [46, Điều 1].
Qua gần 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan
trọng về kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang đứng trước yêu
cầu đổi mới của sự phát triển. Đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn cũng được đặt ra.
Công chức là những người được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cơ quan đơn vị thuộc quân đội

nhân dân hay công an nhân dân mà không phải là hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
được phân loại theo chế độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành
chính trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [26, tr.18].
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX xác định: Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách
và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm
việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử và
cán bộ chuyên môn được ủy ban Nhân dân tuyển chọn; đội ngũ này có chế độ làm việc và
được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước. Cán bộ, công chức cơ
sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Tại Điểm g, h Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh cán bộ, công chức ngày 26/2/1998 (được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua
ngày 29/4/2003) quy định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban Nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn, những người được tuyển
dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban Nhân dân cấp xã được
gọi là cán bộ, công chức trong biên chế nhà nước; được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
Trên cơ sở lý luận về chính quyền (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân); cán bộ,
công chức cũng như các quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn thì cán bộ
công chức chính quyền cấp xã hiện nay bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau
đây

gọi
chung là
cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;

Cán bộ chuyên trách là những người dành phần lớn thời gian làm việc cho công
việc của mình để thực hiện nhiệm vụ và trọng trách mà nhân nhân dân giao phó.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp

vụ
thuộc
Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm có các chức danh sau
đây:
+ Trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng;
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Công chức cấp xã làm công tác chuyên môn, giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực như: văn phòng, thống kê; an ninh; quân sự; địa chính, xây
dựng; tài chính, kế toán; văn hóa, xã hội; tư pháp, hộ tịch; ngoài ra những công chức này
công thực hiện các nhiệm vụ khác khi được thường trực Uỷ ban nhân dân cấp xã giao.

chính quyền cấp xã, ngoài chức danh cán bộ chuyên trách, công chức
còn

đội ngũ cán bộ không chuyên trách và cán bộ thôn, bản bao gồm:
+ Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự.
+ Cán bộ Kế hoạch- Giao thông- Thuỷ lợi- Nông, Lâm, Ngư nghiệp.
+ Cán bộ Lao động-Thương binh-Xã hội.
+ Cán bộ Dân số- Gia đình và Trẻ em.

+ Thủ quỹ- Văn thư- Lưu trữ.
+ Cán bộ phụ trách đài truyền thanh
+ Cán bộ quản lý Nhà văn hoá.
+ Trưởng thôn, bản, tổ dân phố.
+ Công an viên ở thôn, bản, tổ dân phố.
Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã là những người không làm công việc thường
xuyên, liên tục, không hưởng lương từ ngân sách của nhà nước. Những người này họ
được hưởng phụ cấp hàng tháng do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau:
Khái niệm cán bộ chính quyền cấp xã: Cán bộ chính quyền cấp xã là công dân
Việt Nam trong biên chế; được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, gồm những người
được bầu giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật,
bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn.
Khái niệm công chức chính quyền cấp xã: Công chức chính quyền cấp xã là công
dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, được tuyển dụng,
giao
giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm
vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã: Cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước
theo quy định của pháp luật, làm việc tại Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã do
được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển dụng giao giữ chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất tốt, đạo đức
tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác để hoàn
thành nhiệm vụ.

b) Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã từng nêu cao vai trò của người
cán bộ. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống
trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [16, tr.473].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cán bộ, coi đây là vấn đề then chốt.
Người khẳng định: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [21, tr.269].
Khẳng định vị trí, vai trò của người cán bộ, đòi hỏi người cán bộ phải có những
đức tính tốt, Hồ Chí Minh cũng không cực đoan cho rằng cán bộ chỉ có tính tốt hay toàn
tính tốt, mà cán bộ trước hết cũng là con người, có thể có cả tính xấu. Nhưng người cán
bộ phải biết nhận biết, sửa chữa, loại bỏ tính xấu, phát triển tính tốt của mình; đồng thời
Hồ Chí Minh cũng không cho rằng cán bộ là nhân tố quyết định tất cả, mà "Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng nhân dân"[21, tr.197], còn vai trò quyết định của cán bộ là ở
chỗ nhận thức được để đi trước, làm gương, lãnh đạo.
Vai trò hết sức quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn thể hiện ở
chỗ: nếu thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể hoàn thành, cán bộ
có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém” [20, tr.240].
Cán bộ, công chức có vị trí, vai trò quan trọng đối với cơ quan, tổ chức. Cán bộ,
công chức là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ, công chức có quan
hệ mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu quả hoạt động
trong tổ chức, bộ máy phụ thuộc vào cán bộ. Cán bộ, công chức tốt sẽ làm cho bộ máy
hoạt động nhịp nhàng, cán bộ, công chức kém sẽ làm cho bộ máy tê liệt "Cán bộ là cái
dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy toàn bộ máy cũng tê liệt" [21, tr.54].
Đối với công việc "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [21, tr.269, 240].
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng nhận định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng" [12, tr.34].
Vốn quý nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là cán bộ. Cán bộ là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách
mạng. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống
trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, người đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [16, tr.478]. Năm 1922,
khi đã giành được chính quyền, Lênin khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm ra những
cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mệnh lệnh và quyết
định chỉ là mớ giấy lộn" [17, tr.449].
Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định:
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém" [21, tr.273].
Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) khẳng định trong công cuộc đổi mới đất nước
thì:
Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói chung
có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ sở. Cấp
cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật một phần
được quyết định bởi sự triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với
quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường,
thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ
cán bộ xã, phường, thị trấn [13, tr.21].
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có một ví trí vô cùng quan trọng trong hoạt
động quản lý điều hành ở cơ sở. Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người đại diện
cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo đúng chính sách và thẩm
quyền được giao. Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người hàng ngày trực

tiếp tiếp xúc với dân, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống và biến thành hành động cách mạng của quần chúng.
Chất lượng và số lượng tùy thuộc vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và tự rèn luyện một cách chủ động, sáng tạo của từng cá nhân và các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, Đoàn thể. Quan điểm này được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng;
đặc biệt gần đây nhất Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) nhấn mạnh:
Tích cực trẻ hóa và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cơ
sở. Phấn đấu từ nay đến năm 2005 có khoảng 70-80% cán bộ chuyên trách giữ
chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định; khoảng
80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với đồng
bằng, sơ cấp trở lên đối với miền núi [15].
Trên thực tế cán bộ, công chức chính quyền cấp xã hàng ngày cọ sát với thực tiễn
rất phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực nên họ cần phải có bản lĩnh, có bề dày kinh nghiệm và
hiểu biết. Song họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ và thông tin về chính
sách pháp luật. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với họ cũng chưa tương
xứng. Thực tế này là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng lực trình độ quản
lý điều hành của cán bộ, công chức chính quyền ở cơ sở.
Như vậy, cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là nhân
tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Ngoài những vị trí, vai trò trên cán bộ, công chức chính quyền cấp xã còn có vị trí,
vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vừa là người đại diện Nhà nước,
vừa


người
đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa là người dân, là người gần
gũi dân, sát dân nhất cho nên họ là người trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng tình cảm
của dân để phản ánh lên các cấp chính quyền để các cấp chính quyền đặt ra chính sách
đúng. Thực tế cho thấy, ở đâu mà cán bộ, công chức chính

quyền

cấp
xã gần dân, hiểu
dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của dân thì ở đó các cấp chính quyền sẽ đề ra
chính sách đúng, ngược lại ở đâu mà cán bộ chính quyền cấp xã quan liêu, hách dịch,
cửa quyền thì sẽ đề ra chính sách không phù hợp.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền,
phổ

biến
đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân dân và vận động nhân
dân thực hiện tốt đường lối, chính sách, pháp luật đó trong cuộc sống. Là người tiên
phong gương mẫu trong việc thực hiện chính sách pháp luật và xây dựng gia đình văn
hóa ở khu dân cư.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu,
những thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người am hiểu các phong
tục

tập
quán,
truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người tập hợp được khối đại đoàn kết
toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư.
Tóm lại, cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người có vị trí, vai trò quan
trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng đồng dân cư.
c) Đặc điểm của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người gần dân, sát dân,

biết

dân,
trực tiếp
triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp lụât của Nhà nước vào dân, gắn bó với
nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính ổn định thấp so với cán
bộ,

công
chức nhà
nước cấp trên.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính chuyên môn hoá
thấp,

kiêm
nghiệm
nhiều.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người đại diện cho quần chúng nhân dân lao
động ở cơ sở. Vì vậy cán bộ, công chức luôn bám sát dân, gần dân, lắng nghe ý kiện
nguyện vọng của nhân dân từ đó có những cách thức tiến hành công việc phù hợp và
đảm bảo cho lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết tất cả
các

yêu
cầu,
quyền lợi chính đáng từ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân


dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người xuất phát từ cơ
sở

(người
của địa
phương), họ vừa trực triếp tham gia lao động lao động sản xuất, vừa là người đại diện
cho nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước, giải quyết các công việc của nhà
nước. Do đó xét ở khía cạnh nào đó cán bộ, công chức cấp xã bị chi phối, ảnh hưởng rất
nhiều bởi những phong tục tập quán làng quê, những nét văn hóa bản sắc riêng đặc thù
của địa phương, của dòng họ.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã do dân bầu ra (có nơi chiếm
60%)

chính
vì vậy
số lượng thường xuyên bị biến động do hết nhiệm kỳ nhân dân lại bầu những đại diện
mới.
- Cán bộ, công chức cấp xã cả nước hiện nay rất đông (gần bằng số lượng
cán

bộ,
công
chức hành chính của trung ương và 64 tỉnh thành cộng lại). Tuy nhiên về chất lượng lại
rất yếu, độ tuổi tương đối già, chính vì vậy nó là những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
giải quyết công việc không cao.
d) Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Tiêu chuẩn cán bộ, công chức là vấn đề rất quan trọng trong công tác cán bộ. Đó
là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí sắp xếp và sử dụng cán
bộ; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi người cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện, hoàn thiện

mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi cán bộ phải là người "Có nhiều trí tuệ hơn một chút,
nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một chút… và kiến thức rộng" [19, tr.389], và
yêu cầu người cán bộ "Không nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa
nhận những sai lầm của mình bằng cách sửa chữa những sai lầm ấy"[19, tr.35].
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị
trí, vai trò của người cán bộ, đồng thời cũng đòi hỏi ở người cán bộ phải có những tiêu
chuẩn nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi mặt, không ngừng nâng cao phẩm
chất, năng lực để xứng đáng với vị trí, vai trò của mình. Đưa ra những tiêu chuẩn đó đối
với cán bộ là Hồ Chí Minh xuất phát từ những yêu cầu khách quan của cách mạng chứ
không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những tiêu
chuẩn ấy mang tính toàn diện và đầy đủ, gồm các tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất năng
lực, về trình độ lý luận, về phong cách và phương pháp của người cán bộ.
Trong bất kỳ một hệ thống công chức nào, tiêu chuẩn công chức theo ngạch hay
theo vị trí việc làm đều có vai trò rất quan trọng. Đó là cơ sở để tuyển dụng, bố trí sử
dụng, đào tạo bồi dưỡng. Tiêu chuẩn cũng là căn cứ để mỗi công chức yên tâm làm việc
theo chức trách được giao, xác định hướng phấn đấu, nâng cao trình độ và khả năng làm
việc, các cấp quản lý cũng căn cứ vào đó để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức có cơ
hội được học tập, bồi dưỡng. Thực hiện việc công chức hóa cán bộ, công chức cấp xã, Bộ
Nội vụ đã ban hành Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 về việc
ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức cấp xã. Quy định đã xác
định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chức vụ, chức danh trong cán bộ, công chức cấp
xã. Để thực hiện được chức trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã
phải đáp những tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể.
* Tiêu chuẩn chung:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ
nghĩa xã hội;
có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường
lối


của
Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, không
tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật trong
công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính

sách

pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm
việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
* Tiêu chuẩn cụ thể:
Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ, công chức cấp xã là căn cứ để các địa phương thực
hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, xếp
lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác. Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ,
công chức cấp xã được xác định theo từng chức vụ, chức danh như sau:
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng tuổi tham gia
lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu vực
đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ
sơ cấp.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối với khu
vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn (tương
đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung cấp
chuyên môn trở lên. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, nghiệp vụ quản

lý kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng tuổi tham gia
lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu vực
đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương trình độ
sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối với khu
vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn tương
đương trình độ sơ cấp trở lên, nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung
cấp chuyên môn trở lên. Đã qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, quản lý kinh tế.
- Đối với công chức Tài chính - Kế toán:
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị với trình độ tương đương sơ cấp trởlên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Tài chính
Kế toán trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu
được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Tàichính - Kế toán; nếu mới được tuyển dụng lần
đầu phải có trình độ trungcấp Tài chính - Kế toán trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý
hành chính Nhà nước sau khi tuyển dụng. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng
được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị;
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.

+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Luật trở
lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi được tuyển dụng. Với
công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến
thức nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ
trung cấp luật trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi được
tuyển dụng, ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong
công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Địa chính - Xây dựng
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phảI được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trìnhđộ trung cấp Địa chính
hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện
nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Địa chính hoặc xây dựng; nếu mới
được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp Địa chính hoặc xây dựng trở lên. Sau
khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng về quản lý đất đai, đo đạc bản đồ, quản lý hành
chính Nhà nước. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong
công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn phòng - Thống kê.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp Văn thư,
lưu trữ hoặc trung cấp Hành chính, trung cấp Luật trở lên. Với công chức đang công
tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về
một trong các ngành chuyên môn trên; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình

độ trung cấp của một trong ba ngành chuyên môn trên. Sau khi được tuyển dụng phải
qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước (nếu chưa qua trung cấp hành
chính).

khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học phục vụ công tác
chuyên môn.
- Đối với công chức Văn hoá - Xã hội
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trung cấp về văn hoá
nghệ thuật (chuyên ngành) hoặc trung cấp quản lý Văn hoá - Thông tin hoặc trung cấp
nghiệp vụ Lao động - Thương binh và xã hội trở lên. Với công chức đang công tác ở khu
vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về một trong các
ngành chuyên môn trên; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp trở
lên về một trong các ngành chuyên môn nêu trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi
dưỡng quản lý hành chính Nhà nước và ngành chuyên môn còn thiếu liên quan tới nhiệm
vụ được giao. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành chuyên
môn.

khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác.
- Đối với công chức Trưởng Công an xã.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng, tốt nghiệp
trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý luận
chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp lý luận chính trí
trở lên ở khu vực miền núi.

+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương đương
trung cấp chuyên môn ngành công an trở lên. Với công chức đang công tác ỏ khu vực
miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn ngành công an, nếu
mới được tuyển dụng lần đầu phải được bồi dưỡng chương trình huấn luyện trưởng công
an xã theo
quy định của Công an cấp trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản
lýhành chính Nhà nước. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành chuyên
môn.
- Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng và đô thị,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khuvực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý luận
chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp lý luận chính trị
trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương đương
trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Đối với công chức đang công
tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn ngành
quân sự; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải tương đương trung cấp quân sự của sĩ
quan dự bị cấp phân đội trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý Nhà
nước về quốc phòng cấp xã. Sử dụng thành thạo trang, thiết bị phục vụ công tác chuyên
môn.
Ngoài những tiêu chuẩn cụ thể trên, những cán bộ, công chức cấp xã công tác tại
các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất tiếng của một dân tộc
thiểu số.
1.1.2. Khái niệm chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Theo Từ điển tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái tạo nên
phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc" [25, tr.44].
Đối với một con người sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất
lượng của cá nhân đó được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí

tuệ, khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực;
luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham gia một cách tích cực vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước yêu cầu chất lượng đối với mỗi người trong xã hội nói chung vốn đã cao thì yêu
cầu đối với chất lượng cán bộ, công chức càng cao hơn - đòi hỏi người cán bộ, công chức
có những trình độ phẩm chất theo yêu cầu như nêu ở trên thì người cán bộ phải gương
mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của
người cán bộ.
Mỗi cán bộ, công chức không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt trong
một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, quan niệm về chất
lượng cán bộ, công chức phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của
từng cán bộ, công chức với chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ không
phải là sự tập hợp giản đơn số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ.
Sức mạnh này bắt nguồn từ phẩm chất vốn có bên trong của mỗi cán bộ và nó được tăng
lên gấp bội bởi tính thống nhất của tổ chức; của sự giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý,
của kỷ luật.
Như vậy, có thể nói chất lượng cán bộ, công chức bao gồm:
- Chất lượng của từng cán bộ, công chức; cụ thể là phẩm chất chính trị,
đạo

đức;
trình độ
năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng cán bộ, công chức là
yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ.
- Chất lượng của cả đội ngũ với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ
cấu

đội
ngũ

được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý vì số lượng và độ tuổi bình quân
được phân bố trên cơ sở các địa phương, đơn vị và lĩnh vực hoạt động của đời sống xã
hội.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng cán bộ, công chức không chỉ bao gồm
một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu như một
chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ, công chức (đây là yếu tố cơ bản nhất,
tiên quyết nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành phần cùng với việc bồi
dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và thực hiện nghiêm các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền nhân dân.
Để nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa chất lượng với số lượng cán bộ, công chức. Chỉ khi nào hai mặt này quan hệ hài hòa,
tác động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ. Trong thực
tế chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng, khuynh hướng thứ nhất là chạy theo số
lượng, ít chú trọng đến chất lượng dẫn đến cán bộ nhiều về số lượng nhưng hoạt động
không hiệu quả.
Khuynh hướng thứ hai, cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm đến số
lượng. Khuynh hướng này là một nguyên nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình quân của
cán bộ, công chức ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ.
Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng của cán bộ,
công chức trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý.
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: Chất lượng cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã là một hệ thống những phẩm chất, giá trị được kết cấu như một chỉnh thể
toàn diện được thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực,
khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức và cơ cấu, số lượng, độ tuổi,
thành phần của cả đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ
1.2.1. Về phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, quyết định đến năng lực quản lý
nhà nước của cán bộ, công chức. Phẩm chất chính trị là động lực tinh thần thúc đẩy cán

bộ, công chức các cấp vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao hay nói cách
khác là hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất. Phẩm chất chính trị cũng chính là
yêu cầu cơ bản nhất đối với người cán bộ, công chức.
Phẩm chất chính trị là lòng nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với lý
tưởng của Đảng, với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần tận tụy
với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp của nhân dân; là bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định với mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phẩm chất chính trị đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, có tinh thần cương quyết đấu tranh chống lại các hiện
tượng lệch lạc, những biểu hiện mơ hồ, sai trái đường lối, chủ trương chính sách của

×