Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

luận văn thạc sĩ Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.62 KB, 131 trang )

chất lợng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở
tỉnh điện biên
hà nội - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
8
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò, đặc điểm, tiêu chuẩn của cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã; Khái niệm chất lượng cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã 8
1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã 25
1.3. Các yếu tố đảm bảo chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã 44
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN (TỪ 2004
ĐẾN 2008)
53
2.1. Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên 53
2.2. Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở
tỉnh Điện Biên 70
2.3. Nguyên nhân hạn chế về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên 79
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN
82
3.1. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên 82


3.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên 90
3.3. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên 94
KẾT LUẬN
119
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, vấn đề này được Hiến
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi tại điều 118. Chính
quyền cấp xã có chức năng: Bảo đảm việc chấp hành các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết định của chính
quyền Nhà nước cấp trên; quyết định và đảm bảo thực hiện các chủ trương,
biện pháp để phát huy mọi khả năng và tiềm năng của địa phương về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, không ngừng cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã và làm tròn nghĩa vụ của
địa phương với Nhà nước.
Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã được quy định trong Hiến pháp và
Luật tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các
cấp. Sự vững mạnh của chính quyền cấp xã là nền tảng cho sự vững mạnh của
hệ thống chính quyền trong cả nước và ngược lại. Khâu quan trọng quyết định
sự vững mạnh của hệ thống chính quyền cơ sở phải nói đến khâu cán bộ, hay
nói cách khác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là then chốt trong công

tác xây dựng Đảng, trung tâm trong kiện toàn hệ thống Nhà nước.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, trực tiếp tiếp
xúc với nhân dân, hàng ngày triển khai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực
hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết hoặc kiến nghị lên chính quyền cấp trên
những kiến nghị, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân.
Vì vậy, chất lượng hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động
trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố
chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính
1
quyền cấp xã vững mạnh thì phải xây dựng cán bộ, công chức có đủ năng lực
và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi
trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực
trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối,
chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước.
Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu
chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức,
kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa.
Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [14].
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
đã xác định từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ
bản và bức xúc trong đó ghi rõ:

Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở [15].
Thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành TW (khóa
IX), Pháp lệnh cán bộ, công chức (đã được sửa sổi, bổ sung năm 2000, 2003);
Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn
2001 - 2010; Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
2
Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư số
03/2004/TT-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính
phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP
ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ở xã, phường, thị trấn; Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT-BNV-
BTC-BLĐXH ngày 14 tháng 5 năm 2004 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-
CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định số 03/2004/QĐ-TTG ngày 07
tháng 01 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010; Quyết
định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn; QĐ số 40/2006/QĐ/TTCP ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ :phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai
đoạn 2006-2010”; QĐ 106/2007/QĐ-TTCP ngày 13 tháng 7 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc xây dựng Đề án “Một số giải pháp tăng cường công tác

đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng
Tây Bắc (giai đoạn 2007 - 2010) là cơ sở pháp lý quan trọng để làm tốt công
tác cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Điện Biên là một tỉnh miền núi nghèo, có địa hình phức tạp, chủ yếu là
núi cao, độ dốc lớn, xen kẽ với các thung lũng hẹp. Ngay từ khi thành lập tỉnh
(tách ra từ tỉnh Lai Châu năm 2004), tỉnh Điện Biên có nhiều thuận lợi và khó
khăn, trong đó khó khăn lớn nhất là sự thiếu hụt trầm trọng và sự yếu kém của
cán bộ, công chức trong toàn tỉnh nói chung và cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã nói riêng, nên hiệu quả kinh tế - xã hội của tỉnh không cao.
Trong những năm qua, cấp uỷ và chính quyền tỉnh Điện Biên đã quan
tâm tới công tác cán bộ, nhưng thực tế năng lực quản lý nhà nước của cán bộ,
3
công chức đang còn thấp, nhất là năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Tỉnh, do
tỉnh Điện Biên còn thiếu hệ thống giải pháp đồng bộ về nâng cao năng lực
quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu Chất lượng cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên là rất cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chất lượng cán bộ, công chức đã được nhiều chuyên gia, nhà
khoa học, nhà nghiên cứu và nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu vấn
đề này dưới nhiều gốc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực trên như sau:
PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên: Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
GS. Hồ Văn Thông: Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta
được in trong cuốn sách Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2, Nxb
Tư tưởng văn hóa, Hà Nội 1991;

Nguyễn Thị Hải: Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở
Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước, Hà Nội, 2001.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình
nghiên cứu đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn.
PGS, TS Bùi Tiến Quý: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2000;
TS Thang Văn Phúc và TS Chu Văn Thành đồng chủ biên: Chính quyền
cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã của Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban
Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
4
TS Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên: Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2001;
TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên: Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí Thông
tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như:
TS Lê văn Hòe: Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các
tỉnh miền núi, Đề tài độc lập cấp nhà nước: Các giải pháp đổi mới hoạt động
của hệ thống chính trị các tỉnh miền núi, Hà Nội, 2002;
PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: Thực trạng và
giải pháp, Tạp chí Cộng sản số 2/1999;
GS,TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ
cán bộ cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002;

PGS Hà Quang Ngọc: Đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở: thực trạng và
giải pháp, Tạp chí Cộng sản số 2/1999;
GS.TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ
cán bộ cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002;
Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên là hết sức có giá trị đối
với những người đã và đang nghiên cứu về chất lượng cán bộ, công chức. Tuy
nhiên, đến nay đề tài: Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở
tỉnh Điện Biên là công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện đối với
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã; đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ, công chức
5
chính quyền cấp xã trong những năm qua ở Điện Biên, qua đó đưa ra những
quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở Điện Biên trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng và hệ thống hóa một số quan điểm lý luận về chất lượng cán
bộ, công chức cấp xã; xây dựng khái niệm và nêu ra những đặc điểm của chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã. Phân tích nội dung, vị trí, vai trò của cán bộ,
công chức cấp xã cũng như những nguyên nhân và xu hướng phát triển của
cán bộ, công chức cấp xã ở Điện Biên;
Đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã ở Điện Biên trong những năm qua và chỉ ra nguyên
nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế đó.
Dự báo và xây dựng những tiêu chuẩn về cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Điện Biên, đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm đảm bảo về
chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở Điện Biên hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

Quan niệm về chính quyền cấp xã còn nhiều ý kiến khác nhau. Luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu chất lượng cán bộ, công chức của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Luận văn nghiên cứu cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Điện
Biên nhưng chỉ giới hạn thời gian từ khi thành lập tỉnh Điện Biên (năm 2004)
đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nhà nước và pháp luật trong vấn đề chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp như: phương pháp thống
kê, phân tích, tổng hợp để xử lý tài liệu thu thập.
6
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Đóng góp về mặt lý luận
Góp phần hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước về cán bộ, công chức; công tác cán bộ
và xây dựng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của chất lượng cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã; khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã;
Có sự luận giải, đánh giá về chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Điện Biên hiện nay.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã ở tỉnh Điện Biên;
Với kết quả đạt được, đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và ứng dụng tại tỉnh Điện Biên;

Các giải pháp đưa ra cũng có thể được tiếp tục nghiên cứu, phát triển
và áp dụng rộng ngoài phạm vi tỉnh Điện Biên. Qua đó, tác giả hy vọng sẽ
được đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình quản lý nhà nước nhằm nâng cao
chất lượng cán bộ, công chức cấp xã tại Việt Nam.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà
nước trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Điện
Biên được hoàn thiện hơn.
Các giải pháp của đề tài sẽ làm cơ sở để xây dựng mô hình về chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã đối với các lĩnh vực khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM, TIÊU CHUẨN CỦA CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ; KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm, vị trí vai trò, đặc điểm, tiêu chuẩn của cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã
a) Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, vừa tiến hành xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Chính vì vậy, chúng ta cần phải xây dựng cán bộ, công chức có chất
lượng đồng bộ, phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra, đặc biệt là cán bộ,

công chức chính quyền cấp xã.
Để làm được điều đó trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Quan niệm về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
* Quan niệm về cán bộ: Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội
nước ta khoảng mấy chục năm gần đây; được dùng phổ biến trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Từ đó đến nay thuật ngữ cán bộ được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều từ điển có khái niệm cán bộ và
được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể,
nhưng tựu chung lại có thể quan niệm một cách chung nhất: "Cán bộ là khái
niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ
chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát
triển của tổ chức" [38, tr.20].
8
* Quan niệm về công chức:
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác,
được hưởng lương từ ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức,
là người làm việc trong hệ thống chính quyền nhà nước.
Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia.
Tuy nhiên, do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm
về công chức ở Việt Nam cũng có đặc thù.
Trong một số nghị quyết của Đảng cũng như một số văn bản pháp quy,
mặc dù chưa ra định nghĩa rõ ràng nhưng đã có đề cập đến khái niệm về công
chức. Theo Pháp lệnh cán bộ công chức 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2000 và 2003) thì công chức được hiểu là:
Công dân Việt Nam, trong biên chế do được Nhà nước tuyển
dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc
liên tục trong các cơ quan nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội hoặc trong lực lượng vũ trang mà không phải

là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; được xếp vào ngạch bậc và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước [46, Điều 1].
Qua gần 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và quan trọng về kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay
đang đứng trước yêu cầu đổi mới của sự phát triển. Đòi hỏi phải đổi mới và
nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn cũng
được đặt ra.
Công chức là những người được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc
được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện
hoặc cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân hay công an nhân dân mà
không phải là hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, được phân loại theo chế
độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [26, tr.18].
9
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX xác định: Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở
có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ
chức vụ qua bầu cử và cán bộ chuyên môn được ủy ban Nhân dân tuyển chọn;
đội ngũ này có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán
bộ, công chức nhà nước. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi
tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Tại Điểm g, h Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26/2/1998 (được ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 29/4/2003) quy định: Những người do bầu cử để
đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy
ban Nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị -

xã hội xã, phường, thị trấn, những người được tuyển dụng, giao giữ một chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban Nhân dân cấp xã được gọi là cán bộ,
công chức trong biên chế nhà nước; được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trên cơ sở lý luận về chính quyền (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân); cán bộ, công chức cũng như các quy định về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn thì cán bộ công chức chính quyền cấp xã hiện nay bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau
đây gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Cán bộ chuyên trách là những người dành phần lớn thời gian làm việc
cho công việc của mình để thực hiện nhiệm vụ và trọng trách mà nhân nhân
dân giao phó.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã),
gồm có các chức danh sau đây:
10
+ Trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng;
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Công chức cấp xã làm công tác chuyên môn, giúp Uỷ ban nhân dân cấp
xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực như: văn phòng, thống kê; an ninh;
quân sự; địa chính, xây dựng; tài chính, kế toán; văn hóa, xã hội; tư pháp, hộ
tịch; ngoài ra những công chức này công thực hiện các nhiệm vụ khác khi
được thường trực Uỷ ban nhân dân cấp xã giao.
Ở chính quyền cấp xã, ngoài chức danh cán bộ chuyên trách, công chức

còn có đội ngũ cán bộ không chuyên trách và cán bộ thôn, bản bao gồm:
+ Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự.
+ Cán bộ Kế hoạch- Giao thông- Thuỷ lợi- Nông, Lâm, Ngư nghiệp.
+ Cán bộ Lao động-Thương binh-Xã hội.
+ Cán bộ Dân số- Gia đình và Trẻ em.
+ Thủ quỹ- Văn thư- Lưu trữ.
+ Cán bộ phụ trách đài truyền thanh
+ Cán bộ quản lý Nhà văn hoá.
+ Trưởng thôn, bản, tổ dân phố.
+ Công an viên ở thôn, bản, tổ dân phố.
Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã là những người không làm công
việc thường xuyên, liên tục, không hưởng lương từ ngân sách của nhà nước.
Những người này họ được hưởng phụ cấp hàng tháng do Uỷ ban nhân dân
tỉnh quyết định.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau:
11
Khái niệm cán bộ chính quyền cấp xã: Cán bộ chính quyền cấp xã là
công dân Việt Nam trong biên chế; được hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước, gồm những người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm
phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn.
Khái niệm công chức chính quyền cấp xã: Công chức chính quyền cấp xã
là công dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước,
được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã: Cán bộ, công chức

chính quyền cấp xã là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, làm việc tại Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân cấp xã do được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển dụng
giao giữ chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có
phẩm chất tốt, đạo đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ.
b) Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin đã từng nêu cao vai trò
của người cán bộ. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào" [16, tr.473].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cán bộ, coi đây là vấn đề
then chốt. Người khẳng định: "Cán bộ là những người đem chính sách của
12
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng" [21, tr.269].
Khẳng định vị trí, vai trò của người cán bộ, đòi hỏi người cán bộ phải
có những đức tính tốt, Hồ Chí Minh cũng không cực đoan cho rằng cán bộ chỉ
có tính tốt hay toàn tính tốt, mà cán bộ trước hết cũng là con người, có thể có
cả tính xấu. Nhưng người cán bộ phải biết nhận biết, sửa chữa, loại bỏ tính
xấu, phát triển tính tốt của mình; đồng thời Hồ Chí Minh cũng không cho
rằng cán bộ là nhân tố quyết định tất cả, mà "Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân"[21, tr.197], còn vai trò quyết định của cán bộ là ở chỗ
nhận thức được để đi trước, làm gương, lãnh đạo.
Vai trò hết sức quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn
thể hiện ở chỗ: nếu thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể

hoàn thành, cán bộ có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [20, tr.240].
Cán bộ, công chức có vị trí, vai trò quan trọng đối với cơ quan, tổ chức.
Cán bộ, công chức là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ,
công chức có quan hệ mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động
của tổ chức. Hiệu quả hoạt động trong tổ chức, bộ máy phụ thuộc vào cán bộ.
Cán bộ, công chức tốt sẽ làm cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng, cán bộ, công
chức kém sẽ làm cho bộ máy tê liệt "Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy.
Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt" [21, tr.54].
Đối với công việc "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém" [21, tr.269, 240].
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng nhận định: "Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [12, tr.34].
13
Vốn quý nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là cán bộ. Cán bộ là
một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại
của sự nghiệp cách mạng. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai
cấp nào giành được quyền thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng
ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, người đại biểu tiên phong có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [16, tr.478]. Năm 1922, khi đã giành
được chính quyền, Lênin khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm ra những
cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mệnh
lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn" [17, tr.449].
Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hồ Chí Minh
cũng đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [21, tr.273].

Đảng ta luôn coi cán bộ có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách
mạng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) khẳng định trong công
cuộc đổi mới đất nước thì:
Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ
nói chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí
nền tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ
trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng
và hiệu quả thực thi pháp luật một phần được quyết định bởi sự
triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với quần chúng;
tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị
trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn [13, tr.21].
Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có một ví trí vô cùng quan trọng
trong hoạt động quản lý điều hành ở cơ sở. Cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã là người đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo
đúng chính sách và thẩm quyền được giao. Cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã là những người hàng ngày trực tiếp tiếp xúc với dân, đưa chủ trương,
14
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống và
biến thành hành động cách mạng của quần chúng.
Chất lượng và số lượng tùy thuộc vào quá trình tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng và tự rèn luyện một cách chủ động, sáng tạo của từng cá nhân và
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Đoàn thể. Quan điểm này được thể hiện rõ trong
các nghị quyết của Đảng; đặc biệt gần đây nhất Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX) nhấn mạnh:
Tích cực trẻ hóa và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở. Phấn đấu từ nay đến năm 2005 có khoảng 70-80% cán bộ chuyên
trách giữ chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy
định; khoảng 80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp
trở lên đối với đồng bằng, sơ cấp trở lên đối với miền núi [15].

Trên thực tế cán bộ, công chức chính quyền cấp xã hàng ngày cọ sát với
thực tiễn rất phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực nên họ cần phải có bản lĩnh, có bề
dày kinh nghiệm và hiểu biết. Song họ lại ít được đào tạo, bồi dưỡng lý luận,
nghiệp vụ và thông tin về chính sách pháp luật. Việc chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần đối với họ cũng chưa tương xứng. Thực tế này là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế năng lực trình độ quản lý điều hành của cán
bộ, công chức chính quyền ở cơ sở.
Như vậy, cán bộ, công chức là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân, là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Ngoài những vị trí, vai trò trên cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã còn có vị trí, vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã vừa là người đại diện Nhà
nước, vừa là người đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa
là người dân, là người gần gũi dân, sát dân nhất cho nên họ là người trực tiếp
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng tình cảm của dân để phản ánh lên các cấp chính
quyền để các cấp chính quyền đặt ra chính sách đúng. Thực tế cho thấy, ở đâu
mà cán bộ, công chức chính quyền cấp xã gần dân, hiểu dân, nắm bắt kịp thời
15
tâm tư, nguyện vọng của dân thì ở đó các cấp chính quyền sẽ đề ra chính sách
đúng, ngược lại ở đâu mà cán bộ chính quyền cấp xã quan liêu, hách dịch, cửa
quyền thì sẽ đề ra chính sách không phù hợp.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền,
phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân
dân và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách, pháp luật đó
trong cuộc sống. Là người tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện chính
sách pháp luật và xây dựng gia đình văn hóa ở khu dân cư.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết
những yêu cầu, những thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người am hiểu các phong
tục tập quán, truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người tập hợp

được khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự quản của
cộng đồng dân cư.
Tóm lại, cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người có vị trí, vai trò
quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản
trong cộng đồng dân cư.
c) Đặc điểm của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người gần dân, sát
dân, biết dân, trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp lụât
của Nhà nước vào dân, gắn bó với nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính ổn định thấp so với cán
bộ, công chức nhà nước cấp trên.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có tính chuyên môn hoá thấp,
kiêm nghiệm nhiều.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người đại diện cho quần
chúng nhân dân lao động ở cơ sở. Vì vậy cán bộ, công chức luôn bám sát dân,
gần dân, lắng nghe ý kiện nguyện vọng của nhân dân từ đó có những cách thức
tiến hành công việc phù hợp và đảm bảo cho lợi ích chính đáng của nhân dân.
16
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết tất
cả các yêu cầu, quyền lợi chính đáng từ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là những người xuất phát từ cơ
sở (người của địa phương), họ vừa trực triếp tham gia lao động lao động sản
xuất, vừa là người đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, giải quyết các công việc của nhà nước. Do đó xét ở khía cạnh nào đó
cán bộ, công chức cấp xã bị chi phối, ảnh hưởng rất nhiều bởi những phong
tục tập quán làng quê, những nét văn hóa bản sắc riêng đặc thù của địa
phương, của dòng họ.
- Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã do dân bầu ra (có nơi chiếm

60%) chính vì vậy số lượng thường xuyên bị biến động do hết nhiệm kỳ nhân
dân lại bầu những đại diện mới.
- Cán bộ, công chức cấp xã cả nước hiện nay rất đông (gần bằng số
lượng cán bộ, công chức hành chính của trung ương và 64 tỉnh thành cộng lại).
Tuy nhiên về chất lượng lại rất yếu, độ tuổi tương đối già, chính vì vậy nó là
những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả giải quyết công việc không cao.
d) Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Tiêu chuẩn cán bộ, công chức là vấn đề rất quan trọng trong công tác
cán bộ. Đó là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí
sắp xếp và sử dụng cán bộ; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi người cán bộ
phấn đấu, tự rèn luyện, hoàn thiện mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi cán bộ
phải là người "Có nhiều trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong tư
tưởng hơn một chút… và kiến thức rộng" [19, tr.389], và yêu cầu người cán
bộ "Không nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những
sai lầm của mình bằng cách sửa chữa những sai lầm ấy"[19, tr.35].
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đánh
giá rất cao vị trí, vai trò của người cán bộ, đồng thời cũng đòi hỏi ở người cán
bộ phải có những tiêu chuẩn nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi
17
mặt, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực để xứng đáng với vị trí, vai
trò của mình. Đưa ra những tiêu chuẩn đó đối với cán bộ là Hồ Chí Minh xuất
phát từ những yêu cầu khách quan của cách mạng chứ không phải xuất phát từ ý
chí chủ quan của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những tiêu chuẩn ấy mang
tính toàn diện và đầy đủ, gồm các tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất năng lực, về
trình độ lý luận, về phong cách và phương pháp của người cán bộ.
Trong bất kỳ một hệ thống công chức nào, tiêu chuẩn công chức theo
ngạch hay theo vị trí việc làm đều có vai trò rất quan trọng. Đó là cơ sở để
tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Tiêu chuẩn cũng là căn cứ để
mỗi công chức yên tâm làm việc theo chức trách được giao, xác định hướng
phấn đấu, nâng cao trình độ và khả năng làm việc, các cấp quản lý cũng căn

cứ vào đó để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức có cơ hội được học tập, bồi
dưỡng. Thực hiện việc công chức hóa cán bộ, công chức cấp xã, Bộ Nội vụ đã
ban hành Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 về
việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức cấp xã.
Quy định đã xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chức vụ, chức danh
trong cán bộ, công chức cấp xã. Để thực hiện được chức trách, nhiệm vụ được
giao đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã phải đáp những tiêu chuẩn chung và
tiêu chuẩn cụ thể.
* Tiêu chuẩn chung:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy
với dân, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý
thức tổ chức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
18
* Tiêu chuẩn cụ thể:
Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ, công chức cấp xã là căn cứ để các địa
phương thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng, xếp lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác.
Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ, công chức cấp xã được xác định theo từng chức
vụ, chức danh như sau:
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng
tuổi tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học.

+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối
với khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên đối
với khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải
có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã qua lớp bồi dưỡng quản lý hành
chính Nhà nước, nghiệp vụ quản lý kinh tế, kiến thức và kỹ năng hoạt động đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
+ Tuổi đời: Do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng tuổi
tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất hai nhiệm kỳ.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối
với khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính
trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên
đối với khu vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn tương đương trình độ sơ cấp trở lên, nếu tham gia giữ chức vụ
19
lần đầu phải có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã qua bồi dưỡng
quản lý hành chính Nhà nước, quản lý kinh tế.
- Đối với công chức Tài chính - Kế toán:
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị với trình độ tương đương sơ cấp trởlên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Tài chính Kế toán trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi

hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Tàichính - Kế toán;
nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trungcấp Tài chính - Kế
toán trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi tuyển
dụng. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong
công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị; tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi
được tuyển dụng. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện
nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu mới
được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp luật trở lên. Phải qua
bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi được tuyển dụng, ở khu
vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác
chuyên môn.
20
- Đối với công chức Địa chính - Xây dựng
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phảI được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trìnhđộ trung cấp
Địa chính hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Với công chức đang công tác ở
khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
Địa chính hoặc xây dựng; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ

trung cấp Địa chính hoặc xây dựng trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua
bồi dưỡng về quản lý đất đai, đo đạc bản đồ, quản lý hành chính Nhà nước. ở
khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công
tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn phòng - Thống kê.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng có trình độ trung
cấp Văn thư, lưu trữ hoặc trung cấp Hành chính, trung cấp Luật trở lên.
Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được
bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên;
nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp của một trong
ba ngành chuyên môn trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng
quản lý hành chính Nhà nước (nếu chưa qua trung cấp hành chính). Ở khu
vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học phục vụ công
tác chuyên môn.
21
- Đối với công chức Văn hoá - Xã hội
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trung cấp về
văn hoá nghệ thuật (chuyên ngành) hoặc trung cấp quản lý Văn hoá - Thông
tin hoặc trung cấp nghiệp vụ Lao động - Thương binh và xã hội trở lên. Với
công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi

dưỡng kiến thức chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên; nếu
mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp trở lên về một trong
các ngành chuyên môn nêu trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng
quản lý hành chính Nhà nước và ngành chuyên môn còn thiếu liên quan tới
nhiệm vụ được giao. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành
chuyên môn. Ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin
học trong công tác.
- Đối với công chức Trưởng Công an xã.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp
lý luận chính trí trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương
đương trung cấp chuyên môn ngành công an trở lên. Với công chức đang công
tác ỏ khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
ngành công an, nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải được bồi dưỡng chương
trình huấn luyện trưởng công an xã theo quy định của Công an cấp trên. Sau khi
22
được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lýhành chính Nhà nước. Sử dụng
thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành chuyên môn.
- Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khuvực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ

tương đương trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Đối
với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn ngành quân sự; nếu mới được tuyển dụng lần đầu
phải tương đương trung cấp quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Sau
khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý Nhà nước về quốc phòng cấp
xã. Sử dụng thành thạo trang, thiết bị phục vụ công tác chuyên môn.
Ngoài những tiêu chuẩn cụ thể trên, những cán bộ, công chức cấp xã
công tác tại các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất
tiếng của một dân tộc thiểu số.
1.1.2. Khái niệm chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
Theo Từ điển tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc" [25, tr.44].
Đối với một con người sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Chất lượng của cá nhân đó được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất
định về sức khỏe, trí tuệ, khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo
đức, ý chí, niềm tin, năng lực; luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham
gia một cách tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất
lượng đối với mỗi người trong xã hội nói chung vốn đã cao thì yêu cầu đối
23

×