Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÁO cáo vấn đề PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.96 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN HOÀNG PHƯỚC TUYÊN
VẤN ĐỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
DÂN TỘC CƠTU Ở TỈNH QUẢNG NAM
HIỆN NAY
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ NGÀNH: 60.22.80
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS- TS. ĐOÀN ĐỨC HIẾU
Huế, 2010
3
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng sinh hoạt tinh thần của con người
trong xã hội, phản ánh trình độ phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi
dân tộc. Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, với xu thế hội nhập và quốc tế hóa ngày càng cao. Bên cạnh
những thay đổi, chuyển biến về mặt kinh tế nói chung, xã hội đã
đặt ra cho lĩnh vực văn hóa nhiều vấn đề mới. Đặc biệt là những
vấn đề nảy sinh do sự thay đổi của cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội
và sự biến đổi của cơ chế quản lý. Bên cạnh đó còn có những vấn
đề văn hóa nảy sinh từ quá trình đô thị hóa gắn liền với tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, trình độ dân trí được
nâng cao cũng làm cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa gia tăng về
quy mô và chất lượng. Sự chuyển tiếp thế hệ còn đặt ra vấn đề
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống sao cho đảm
bảo được sự phát triển bền vững của đất nước.


Về nguyên tắc, muốn xây dựng được một nền văn hóa
tiên tiến, có hệ giá trị đa dạng và ngày càng phong phú thì mỗi
dân tộc vừa phải tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của mình, vừa phải sử
dụng những thành quả kinh tế, chính trị, giáo dục và đặc biệt là
những thành quả của khoa học- công nghệ hiện đại cho việc đẩy
mạnh sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Bởi vì chỉ có một nền văn
hóa tiên tiến mang bản sắc dân tộc, mới đảm bảo cho một quốc
gia có sự phát triển bền vững.
4
5
Lịch sử văn hóa dân tộc Cơtu là một bộ phận, góp phần
làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam. Với số dân
đứng thứ hai sau người Kinh ở Quảng Nam, cộng đồng dân tộc
Cơtu có từ lâu đời với đời sống tâm linh phong phú đã hình thành
nền văn hóa chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Song
những giá trị truyền thống của dân tộc này có nguy cơ mai một do
chịu sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường,
những hạn chế của việc thực hiện chính sách định cư, quy hoạch
phát triển kinh tế… Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa dân tộc Cơtu là nhiệm vụ cấp thiết nhằm góp phần giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và được chỉ đạo bởi đường lối văn hóa của Đảng Cộng
sản Việt Nam, việc phát huy giá trị văn hóa dân tộc Cơtu đang là
một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của tổ chức Đảng,
chính quyền và nhân dân Quảng Nam. Với nhận thức bước đầu
như trên, chúng tôi chọn “Vấn đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc
Cơtu ở tỉnh Quảng Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cùng với việc tham gia Thập kỷ quốc tế về văn hóa trong
phát triển (1987-1996) và chủ trương bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa do UNESCO (Tổ chức văn hóa thế giới) phát động, Đảng ta
xác định: “văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế- xã hội”. Trên cơ sở
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan niệm
mới về văn hóa của phương Tây mà điểm cốt lõi là đề cao nhân tố
văn hóa trong phát triển, phát huy những giá trị văn hóa, coi trọng
5
6
việc bảo vệ bản sắc dân tộc, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
văn hóa; trong số đó, có những công trình tiêu biểu sau đây:
Trong cuốn sách Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
về văn hóa do Phạm Duy Đức chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 2008), các tác giả đã bàn luận quan điểm của các
nhà triết học mácxít về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và
một số lĩnh vực cơ bản như văn hóa chính trị, vấn đề xây dựng
con người, đạo đức, lối sống, tín ngưỡng…
Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức
của toàn cầu hóa (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, năm 2002),
các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đã phân
tích về thực chất của toàn cầu hoá nhìn từ góc độ triết học, giá trị
học, quan hệ của toàn cầu hoá với việc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống, những giải pháp và dự báo về vị trí,
vai trò, khả năng của giá trị truyền thống trong sự phát triển nền
văn hoá nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Huy Hoàng trong cuốn Mấy vấn đề triết
học văn hóa (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm 2002), đã
xem xét văn hóa trong sự phát triển của tri thức triết học từ góc độ
lịch sử đến góc độ phương pháp luận để trên cơ sở đó suy ngẫm

về một số vấn đề cấp bách đối với thực tiễn cuộc sống và văn hóa
hôm nay.
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001), đã tiếp cận những
yếu tố cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn
hoạt động văn hóa do Đảng ta lãnh đạo để nêu những nét chính về
tính tiên tiến của nền văn hóa mà nhân dân ta đang xây dựng, về
6
7
bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó đề xuất một số biện pháp cơ bản
và kiến nghị để xây dựng, phát triển văn hóa.
Trong cuốn Cơ sở triết học của văn hóa nghệ thuật Việt
Nam do Đỗ Huy chủ biên (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm
2002), các tác giả đề cập đến những khía cạnh phương pháp luận
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh liên
quan mật thiết đến nền tảng tư tưởng và tư duy triết học của sự
phát triển văn hóa nghệ thuật nói chung, sự phát triển của các mô
thức văn hóa nghệ thuật Việt Nam nói riêng.
Nghiên cứu về văn hóa dân tộc Cơtu, cũng có nhiều công
trình với nhiều tác phẩm, dẫn liệu mà chủ yếu là điều tra, truy tìm
và giới thiệu những giá trị văn hóa ở dạng vật thể, phi vật thể;
trong đó tiêu biểu, gồm có:
Trong cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết về văn hóa dân
tộc Cơtu là Tìm hiểu văn hóa Katu (Nxb Thuận Hóa, năm 2002),
tác giả Tạ Đức đã nêu những vấn đề và cách lý giải những khía
cạnh đời sống văn hóa của dân tộc Katu (cách gọi tộc danh của
tác giả), qua đó người đọc có thể tiếp cận những giá trị và các tập
tục lạc hậu của người Cơtu ở Quảng Nam.
Trong cuốn Nhà Gươl của người Cơtu (Nxb Văn hóa Dân

tộc, Hà Nội, năm 2006), tác giả Đinh Hồng Hải bằng việc mô tả
kiến trúc Gươl và các lễ hội văn hóa của người Cơtu, đã chỉ ra
những khía cạnh đời sống tinh thần của người Cơtu ở Quảng
Nam.
Tác giả Lưu Hùng trong cuốn Góp phần tìm hiểu văn hóa
Cơtu (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2006), đã giới thiệu
những nét chính của văn hóa dân tộc Cơtu, những giá trị tín
7
8
ngưỡng và tập tục lạc hậu diễn ra trong đời sống của người Cơtu
ở Quảng Nam.
Viết về chính bản thân mình cùng với những nét đặc
trưng của dân tộc mình, tác giả Bh’riu Liếc trong cuốn Văn hóa
người Cơtu (Nxb Đà Nẵng, năm 2009), đã trình bày một cách
sinh động về tộc danh, phạm vi cư trú, tính cách con người cùng
với những phong tục, tập quán và các lễ hội cổ truyền của người
Cơtu ở Quảng Nam.
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hữu
Thông, cuốn Katu- kẻ sống đầu nguồn nước (Nxb Thuận Hóa,
năm 2005), đã lý giải về nguồn gốc hình thành tộc người, phạm vi
cư trú và tộc danh của người Cơtu, đồng thời tác giả cũng nêu
một số phong tục, tập quán, lễ hội của dân tộc này.
Cuốn tư liệu Người Cơtu ở Việt Nam (Nxb Thông tấn, Hà
Nội, năm 2009) của Trần Tấn Vịnh đã ghi lại bằng hình ảnh, miêu
tả văn hóa người Cơtu ở Quảng Nam trong cuộc sống hằng ngày
và các sinh hoạt lễ hội.
Có thể khẳng định, cho đến nay chưa có công trình nào
xuất bản và công bố mà trùng với hướng tiếp cận và nội dung đề
tài “Vấn đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc Cơtu ở tỉnh Quảng
Nam hiện nay”. Điểm mới của đề tài ở chỗ, vận dụng quan điểm

chủ nghĩa Mác- Lênin về văn hóa vào việc tiếp cận giá trị văn hóa
dân tộc Cơtu ở Quảng Nam và nêu giải pháp phát huy giá trị đó
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài
Từ quan điểm triết học Mác- Lênin về văn hóa và vai trò
của văn hóa, làm rõ những giá trị và đề xuất các giải pháp nhằm
phát huy giá trị văn hóa dân tộc Cơtu ở tỉnh Quảng Nam hiện nay.
8
9
Nhiệm vụ của đề tài
Phân tích quan điểm triết học Mác- Lênin về khái niệm,
bản chất, cấu trúc, chức năng và giá trị của văn hóa.
Phân tích những giá trị văn hóa dân tộc Cơtu ở Quảng
Nam và đề xuất giải pháp phát huy những giá trị đó trong giai
đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm triết học Mác-
Lênin về văn hóa và vai trò của văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là kết hợp vận dụng
những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật với các phương
pháp như thống nhất giữa logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
trừu tượng hóa và khái quát hóa, so sánh, điều tra xã hội học để
trình bày nội dung.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khảo sát đời sống văn hóa dân tộc Cơtu ở tỉnh Quảng
Nam hiện nay, thông qua một số tư liệu, tài liệu nghiên cứu về
vấn đề trên.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những giá trị văn hóa của dân

tộc Cơtu ở tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp phát huy những
giá trị đó trong giai đoạn xã hội hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội- nhân văn, nhất là những nghiên
cứu về văn hóa, góp phần tích cực cho việc tìm kiếm các giải
pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Quảng
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn có 2 chương (5 tiết).
9
10
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN VỀ VĂN HÓA
1.1. Khái niệm và bản chất của văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Con người đã sáng tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” bằng lao
động, hoạt động thực tiễn của mình. Ngay từ buổi bình minh của
nhân loại, con người đã thực hành văn hóa trong đời sống.
Khái niệm văn hóa thời cổ đại ở Trung Quốc được hiểu là
sự biến cải, biến đổi, bồi đắp cho đẹp ra. Còn trong xã hội
Phương Tây khái niệm văn hóa dùng để nói đến lĩnh vực của hiện
thực, lĩnh vực hoạt động của con người như một chủ thể tự do và
sáng tạo.
C. Mác và Ph. Ăng- ghen xem văn hóa là một dạng hoạt
động người và những thành tố văn hóa thuộc về ý thức xã hội, bị
quy định bởi tồn tại xã hội. Lênin cho rằng, văn hóa là kết quả
sáng tạo của tất cả các hoạt động của con người. Các nhà mácxít
cũng xem văn hóa là nền tảng sâu xa quy định sự phát triển của
đời sống xã hội.

Có thể tiếp cận văn hóa từ hai phương diện: phương diện
hoạt động và phương diện giá trị. Theo quan điểm triết học Mác-
Lênin, văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần của con
người, biểu thị trình độ phát triển lịch sử nhất định của một xã
hội, thể hiện sự sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động
thực tiễn và được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
làm nên bản sắc của một dân tộc, một cộng đồng xã hội mà nó có
10
11
khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý và hoạt động của con
người trong cộng đồng ấy.
1.1.2. Bản chất của văn hóa
Hoạt động của con người đã sản xuất ra đời sống vật chất
và tinh thần của mình, làm nên những giá trị, chuẩn mực trong xã
hội.
Bản chất của văn hóa là hoạt động sáng tạo ra những giá
trị. Biểu hiện: Văn hóa là sản phẩm của con người, phản ánh năng
lực sáng tạo của con người; biểu hiện thái độ, hành vi của con
người trước hiện thực. Văn hóa là phương thức hoạt động và định
hướng hoạt động của con người.
1.2. Cấu trúc, chức năng của văn hóa
1.2.1. Cấu trúc của văn hóa
Xét về hình thức tồn tại, văn hóa gồm văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể. Về phương diện giá trị, văn hóa được biểu
hiện dưới dạng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa tinh thần có cấu trúc gồm tri thức khoa học, tín
ngưỡng, tôn giáo, giá trị đạo đức, yếu tố văn hóa truyền thống, giá
trị văn hóa thẩm mỹ, lối sống, pháp luật, luật tục…
1.2.2. Chức năng của văn hóa
Văn hóa có nhiều chức năng: nhận thức, cải tạo tự nhiên

và xã hội; giáo dục; thẩm mỹ; điều tiết quan hệ xã hội; dự báo
Chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội giúp con
người nhận thức và hành động theo đúng quy luật của tự nhiên.
Chức năng giáo dục là chức năng bao trùm và quan trọng nhất
của văn hóa, qua đó văn hóa định hướng nhân cách và hành động
thực tiễn. Chức năng thẩm mỹ có tầm quan trọng đặc biệt, thúc
đẩy con người vươn đến giá trị chân- thiện mỹ.
11
12
1.3. Giá trị văn hóa và việc phát huy giá trị văn hóa
1.3.1. Giá trị văn hóa
Giá trị là một phạm trù triết học, chỉ những thành quả lao
động sáng tạo, là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh
thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người và nhu
cầu phát triển xã hội, chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm và
hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng.
Giá trị văn hóa là cái hình thành trong quá trình vận động
của các cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội vươn tới thỏa mãn
nhu cầu của mình theo chiều hướng tích cực, thể hiện thái độ,
trách nhiệm và những quy tắc ứng xử của mỗi người trong quan
hệ của bản thân với gia đình, xã hội và thiên nhiên được cộng
đồng thừa nhận, duy trì, bảo vệ và phát triển.
Giá trị văn hóa mang tính lịch sử khách quan, tính phổ
biến và có thể biến đổi theo trình độ phát triển của nhận thức và
chuẩn mực xã hội. Các giá trị văn hóa biểu hiện trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Giá trị văn hóa của mỗi dân tộc như là cái phổ biến trong
phạm vi mỗi cộng đồng dân tộc và là cái đặc trưng trong phạm vi
xã hội đa cộng đồng.
1.3.2. Phát huy giá trị văn hóa

Phát huy giá trị văn hóa là hoạt động thực tiễn trên lĩnh
vực văn hóa, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Phát huy giá trị văn hóa là hoạt động có tính kế thừa, để
bảo tồn những giá trị và phát triển chúng trong điều kiện lịch sử
mới. Hoạt động này cần đặt văn hóa trong trong mối quan hệ với
yếu tố đối lập, nhận diện mặt phản văn hóa, mặt đối lập với giá trị
để dần dần loại bỏ chúng khỏi tiến trình phát triển.
12
13
Phát huy giá trị văn hóa phải đồng thời phát huy về mặt tư
tưởng và phải đặt văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế.
Kết luận chương 1
Văn hóa xét về mặt tinh thần là một trong những hình
thái ý thức xã hội, phản ánh trình độ phát triển của lịch sử nhất
định của một xã hội hay cộng đồng dân cư. Lịch sử của văn hóa
gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với
tư cách là sản phẩm sáng tạo của con người trong thực tiễn xã hội
lịch sử của họ, văn hóa có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm
lý, lối sống và phương thức hoạt động của con người trong xã hội.
Với những chức năng giáo dục, thẩm mỹ, nhận thức và
cải tạo hiện thực bằng thực tiễn, văn hóa thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội, tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện bản chất con
người. Ngày nay, trong xu thế đổi mới và hội nhập, văn hóa luôn
được xem là động lực của sự phát triển, trong đó những giá trị
văn hóa truyền thống là nhân tố đảm bảo cho tính bền vững. Vì
vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống là
đòi hỏi có tính nguyên tắc của sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước ta hiện nay.
Nhận thức tầm quan trọng của nhân tố văn hóa trong đời
sống xã hội, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân là vấn đề cần quan tâm hàng đầu của mỗi dân tộc ở mỗi
địa phương. Để tạo sự thống nhất trong tính đa dạng về bản sắc
văn hóa, cần chú trọng đến việc phát huy giá trị văn hóa của mỗi
13
14
dân tộc. Phát huy, trước hết phải bảo tồn, giữ gìn những giá trị và
trên cơ sở đó kế thừa và phát triển lên tầm cao hơn.
Chương 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
VỀ VĂN HÓA VÀO VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
DÂN TỘC CƠTU Ở TỈNH QUẢNG NAM HIỆN NAY
2.1. Những giá trị văn hóa dân tộc Cơtu ở Quảng Nam
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và lịch sử của dân tộc Cơtu
Miền núi Quảng Nam chiếm 81,27% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh, với 6 huyện vùng cao, 03 huyện miền núi, là địa bàn
chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng.
Số dân trên 410.000 người, trong đó gần 56 ngàn người
dân tộc Cơtu (xếp thứ 26 trong danh mục thành phần dân tộc Việt
Nam) sinh sống bằng kinh tế nương rẫy là chủ yếu.
Đặc điểm tự nhiên của vùng đất người Cơtu sinh sống
nằm trong khu vực tương đối thống nhất của điều kiện tự nhiên
nối liền các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên- Huế với
Tây Nguyên.
Theo nhiều cứ liệu điều tra, dân tộc Cơtu là cư dân có mặt
tại bán đảo Đông Dương từ lâu đời, là chủ thể của vùng núi
Quảng Nam với phân nhánh ngữ hệ “Cơtu- ít” của ngữ hệ Môn
Khơmer.
2.1.2. Những nội dung cơ bản của văn hóa dân tộc Cơtu từ góc
nhìn triết học
2.1.2.1. Văn hóa vật thể

Về phạm vi, cách thức cư trú của người Cơtu
14
15
Người Cơtu có tập quán tụ cư thành từng làng (Vêêl) trên
đất bằng phẳng gần nguồn nước với khoảng vài chục nóc nhà
sàn, đứng kề nhau quanh nhà cộng đồng.
Cách bố trí làng thể hiện đặc điểm cổ truyền với mục đích
phòng thủ, chống lại mọi vũ lực đe dọa từ bên ngoài, đồng thời
thể hiện tính cố kết, tính tương trợ rất cao giữa các thành viên
trong cùng một cộng đồng.
Kiến trúc nhà ở, nhà sinh hoạt cộng đồng
Nhà ở cũng như nhà sinh hoạt cộng đồng (Gươl) có kiến
trúc nhà sàn mái hình mu rùa. Gươl được dựng ở chính giữa làng
hoặc cùng chiều với nhà ở của các thành viên. Gươl ở vị trí giữa
làng, cột ở chính giữa gươl với nhiều mô- típ trang trí. Kiến trúc
này thể hiện nhận thức của người Cơtu về vai trò của yếu tố trung
tâm. Gươl với chức năng về xã hội, văn hoá và tín ngưỡng như là
trái tim của làng.
Mỗi làng Cơtu đều có máng nước, hàng rào, cổng làng và
có khu vực nghĩa địa.
Về trang phục
Người Cơtu thường mặc váy với chất liệu thổ cẩm có
trang trí nhiều hoa văn được thêu dệt rất công phu.
Trang sức của người Cơtu rất phong phú với những tục
búi tóc, cà răng, xâu tai, xâu khắc ở vùng mặt, vùng ngực, cổ
chân, cổ tay bằng nhiều hình tượng khác nhau.
Về ẩm thực
Ẩm thực của người Cơtu thể hiện sự thích ứng của con
người với điều kiện, hoàn cảnh sống. Lương thực, thực phẩm chủ
yếu là sản lợi từ rẫy, rừng với cách bày biên chủ yếu hướng đến

15
16
tính tiện dụng. Tính cộng đồng cũng thể hiện rất rõ trong ăn uống
của người Cơtu.
Từ khía cạnh văn hóa vật thể của dân tộc Cơtu, nổi bật
lên là mô hình cư trú của cộng đồng mà điểm nhấn cho giá trị văn
hóa này là nhà làng (gươl). Gươl là công trình kiến trúc văn hóa
đặc sắc, biểu hiện giá trị về mặt nghệ thuật (điêu khắc, trang trí),
chứa đựng những yếu tố tâm linh và chuyển tải những quan niệm
của đồng bào Cơtu trong việc nhận thức thế giới. Trang phục,
trang sức của người Cơtu cũng nói lên quan niệm thẩm mỹ và sự
thích nghi của con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên.
2.1.2.2. Văn hóa phi vật thể
Quan niệm về thế giới, thần linh
Thế giới trong quan niệm của người Cơtu bao gồm Trời,
Đất và con người. Người Cơtu đặc biệt coi trọng Trời, Đất, họ
cho rằng đó là nơi sinh ra con người.
Người Cơtu tôn thờ rất nhiều vị thần như thần tốt, thần
chết, thần ác, trong đó vị trí hàng đầu là thần chết.
Quan niệm về thế giới, thần linh trong đời sống văn hóa
tinh thần của người Cơtu chứa đựng nhiều mâu thuẫn, đan xen giữa
yếu tố duy vật và duy tâm, đan xen giữa kinh nghiệm và mê tín, ma
thuật.
Quan niệm về con người
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, dựa vào tự
nhiên để sống, tuy nhiên vai trò của con người có phần nhỏ bé
trước vũ trụ bao la.
Người Cơtu tin rằng, mỗi con người có phần xác và phần
hồn. Từ quan niệm hồn xấu của người chết là lực lượng gây ra
16

17
chết chóc đối với họ, nên người Cơtu có cái nhìn bi quan, yếm thế
về cuộc sống.
Lễ hội
Lễ hội của người Cơtu cũng rất đa dạng và phong phú.
Song xét về tính mục đích có thể phân thành ba hình thức chính:
Lễ hội mừng thắng lợi, lễ hội liên quan đến ngoại giao với các
làng khác và tế lễ.
Tế lễ là hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng phong
phú nhất. Trong tế lễ, người Cơtu biểu đạt niềm tin rằng con
người có thể giao hòa với đất trời, giao hòa với thế giới thần linh.
Văn học- nghệ thuật
Kho tàng văn học của người Cơtu lưu truyền lại cho đời
sau chủ yếu bằng con đường truyền miệng nên gìn được những
nét tinh túy nhất với những thể loại như truyện cổ, trường ca, thần
thoại, truyền thuyết, ca dao- tục ngữ- dân ca, nghệ thuật cồng
chiêng và các nhạc cụ dân tộc, múa dân gian Cơtu…
Điêu khắc, họa tiết trang trí của người Cơtu phản ánh
nhận thức của họ về thế giới tự nhiên và thể hiện ước mơ của họ
về cuộc sống, thông qua những hình tượng đầu trâu hoặc tượng
thần tốt hình người trên nhà làng hay nhà mồ.
Văn học- nghệ thuật biểu hiện cách thức dung hòa tạo sự
cân bằng tâm lý, dung hòa giữa tính khắc nghiệt của tự nhiên và
vị trí nhỏ bé của con người, là cách thức giải quyết mâu thuẫn
trong đời sống. Văn học- nghệ thuật của người Cơtu phản ánh tâm
tư, tình cảm, hoài bảo của họ trước hiện thực cuộc sống.
2.1.2.3. Nhận xét những đặc trưng của văn hóa dân tộc Cơtu
Văn hóa dân tộc Cơtu chứa đựng giá trị nhân văn, nhân
đạo. Trong nếp sống hằng ngày, người Cơtu bộc lộ tinh thần
17

18
tương thân, tương trợ trong phạm vi làng và tuân thủ luật tục của
làng, tinh thần đoàn kết trong cộng đồng và với các cộng đồng
dân tộc khác.
Văn hóa dân tộc Cơtu mang tính triết lý sâu sắc. Những
phong tục, tập quán, lối sống, những sinh hoạt tinh thần, sáng tạo
nghệ thuật… của họ thể hiện nhận thức về thế giới và quan niệm
sống.
Văn hóa dân tộc Cơtu thể hiện phong phú về đời sống
tâm linh. Thể hiện qua việc cúng tế, cầu nguyện trong các lễ hội,
quan niệm sống và sinh hoạt hằng ngày
Từ các khía cạnh văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
của dân tộc Cơtu ta thấy môi trường sinh hoạt làng, phạm vi cư
trú chính là không gian văn hóa của dân tộc Cơtu, những sinh
hoạt hằng ngày, hoạt động giao tiếp, ứng xử của người Cơtu cũng
chính là hành vi đạo đức. Kể cả trong sinh hoạt tinh thần, những
tác phẩm nghệ thuật toát lên tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống
và những ước vọng, hoài bảo rất nhân bản.
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị văn hóa
dân tộc Cơtu ở tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay
2.2.1. Các giải pháp về kinh tế
Với tư cách là nhân tố thúc đẩy sự phát triển đời sống tinh
thần của xã hội, văn hóa được đặt trong mối quan hệ biện chứng
với chính trị, kinh tế, xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn
ở miền núi Quảng Nam, để phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
Cơtu thì phải thực hiện giải pháp về phát triển kinh tế như sau:
Thứ nhất, đầu tư hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng kinh tế:
điện- đường- trường- trạm cho từng xã vùng cao.
18
19

Thứ hai, quy hoạch tái định cư cho dân để đảm bảo an cư
và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất nông- lâm
nghiệp, đảm bảo lương thực tại chỗ cho miền núi. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần hỗ trợ vốn ban đầu để người dân đầu tư mở rộng
các mô hình kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế trang trại và
tiểu thủ công nghiệp.
Thứ ba, trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ dịch vụ nông
nghiệp và đầu tư giống cây trồng, con vật nuôi đến từng hộ dân.
Mở rộng mô hình trồng cây hoa màu trên nương rẫy, mở rộng
diện tích lúa nước, chú trọng phát huy thế mạnh cây công nghiệp
và lâm sinh.
Thứ tư, lập kế hoạch giao đất, giao rừng cho dân, đồng
thời tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên
khoáng sản.
Thứ năm, từ lợi thế thủy điện và lòng hồ, xây dựng mô
hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa để phát triển kinh tế du
lịch, thúc đẩy phát triển thương mại và các ngành nghề thủ công ở
địa phương.
Thứ sáu, đầu tư, mở rộng các tụ điểm mua bán, trao đổi
hàng hóa, mở rộng kinh tế cửa khẩu để kích thích thương nghiệp
phát triển ở từng xã vùng cao.
2.2.2. Các giải pháp về chính trị- tư tưởng
Giải pháp về chính trị là một những giải pháp quan trọng
nằm trong hệ cơ cấu kinh tế- chính trị- văn hóa của một xã hội.
Do đặc thù của vùng miền núi, vùng biên giới Việt- Lào và tiếp
giáp với “điểm nóng” Tây Nguyên, cần chú trọng một số giải
pháp sau:
19
20
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động,

giáo dục về chính trị tư tưởng, giúp đồng bào nâng cao nhận thức,
tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách- pháp
luật của Nhà nước.
Thứ hai, giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc, tôn giáo.
2.2.3. Các giải pháp về văn hóa, giáo dục
Giải pháp này đề ra những cách thức trực tiếp, cụ thể chú
trọng vào vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Cơtu
trên cơ sở nhận thức điểm mạnh và khó khăn trong công tác văn
hóa ở địa phương.
Thứ nhất, chú trọng khôi phục không gian sinh hoạt văn
hóa làng.
Thứ hai, khôi phục và phát triển ngành nghề truyền
thống.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển y tế, giáo dục là giải pháp
hết sức quan trọng trong điều kiện hiện nay ở vùng cao.
Thứ tư, quy hoạch và tạo nguồn nhân lực tại chỗ.
Thứ năm, vận động xóa bỏ những hủ tục trong cưới xin,
tang ma là giải pháp cụ thể và trực tiếp đối trong việc xóa bỏ
những phong tục, tập quán lạc hậu trong đời sống người Cơtu.
Kết luận chương 2.
Dân tộc Cơtu là một dân tộc ít người sinh sống ở miền
núi Quảng Nam. Tuy điều kiện kinh tế còn khó khăn nhưng tộc
người này có nền văn hóa truyền thống với những giá trị đặc sắc.
Nền văn hóa dân tộc Cơtu thể hiện sinh động những nét đẹp đời
thường, trong phong tục, tập quán và những tri thức có giá trị tích
cực về cuộc sống. Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
20
21
này thể hiện trong các di sản văn hóa, trong hành vi và cách thức
sinh hoạt hằng ngày của mỗi cá nhân, trong đời sống tâm tinh,

trong triết lý sống, đặc biệt là những giá trị nói lên tinh thần đoàn
kết, tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
Cơtu hiện nay cần kết hợp các giải pháp về kinh tế, chính trị và
văn hóa. Phát triển kinh tế miền núi trước hết phải xóa đói giảm
nghèo, đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện thực hiện chiến lược phát triển
văn hóa. Giải pháp về chính trị tư tưởng có vai trò quan trọng
trong việc nâng cao ý thức chính trị, nâng cao nhận thức của
người dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội từ đó xây
dựng ý thức dân tộc và cộng đồng trong việc giữ gìn bản sắc văn
hóa. Giải pháp về văn hóa với tính chất là giải pháp trực tiếp chú
trọng vào nhiệm vụ bảo tồn giá trị, phát huy bản sắc của văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Văn hóa ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát
triển của xã hội loài người với xu thế bổ sung những giá trị mới,
ngày càng đầy đủ và sâu sắc. Trong lich sử xã hội, các nhà triết
học có những cách nhìn nhận khác nhau về văn hóa, góp phần bổ
sung tri thức cho nhận thức của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác đã nghiên cứu vấn đề văn hóa bắt đầu từ
sự phân tích mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội,
tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Theo đó, văn hóa được xem là một
dạng hoạt động người và những thành tố văn hóa thuộc chủ yếu
vào ý thức xã hội và bị quy định bởi tồn tại xã hội. Trên phương
21
22
diện hoạt động, văn hóa biểu hiện phương thức tồn tại của con
người với đầy đủ bản chất của mình thông qua các hoạt động
sống (nhận thức, thực tiễn, giao tiếp ). Do vậy, văn hóa hiện diện

trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị-
xã hội và ý thức xã hội. Trên phương diện giá trị, văn hóa được
xem là sản phẩm của hoạt động con người, những thành tựu sáng
tạo bởi con người trong sự khác biệt với tự nhiên.
Văn hóa là khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến
toàn bộ đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần của xã hội.
Trên cơ sở lập trường mácxít, có thể hiểu văn hóa là hệ thống
những giá trị vật chất và tinh thần của con người, biểu thị trình độ
phát triển lịch sử nhất định của một xã hội, thể hiện sự sáng tạo
của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn và được đúc kết
thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội làm nên bản sắc của một dân
tộc, một cộng đồng xã hội mà nó có khả năng chi phối toàn bộ đời
sống tâm lý và hoạt động của con người trong cộng đồng ấy.
Khi nói đến những thành tựu văn hóa hay những giá trị
của văn hóa, người ta chia văn hóa thành hai lĩnh vực: văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần. Khi xét đến hình thức tồn tại, người ta
chia văn hóa thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Giữa
hai mặt này luôn tác động biện chứng với nhau trong hoạt động
sống của con người. Về mặt cấu trúc, văn hóa gồm những yếu tố
như tri thức- tư tưởng, tín ngưỡng, giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mỹ, lối sống, luật tục của con người
Phát huy giá trị văn hóa là lĩnh vực hoạt động có tính thực
tiễn nhằm giữ gìn và nâng cao những giá trị truyền thống của văn
hóa dân tộc. Phát huy là quá trình trong đó chú trọng đến yếu tố
bảo tồn, giữ gìn và kế thừa giá trị, tạo điều kiện cho giá trị văn
22
23
hóa phát triển trong điều kiện mới.
Trên cơ sở quan điểm triết học Mác- Lênin về văn hóa,
nhận thấy rằng việc bảo tồn và phát huy những giá trị, bản sắc

văn hóa của từng dân tộc là vấn đề có ý nghĩa, góp phần tạo sự
“thống nhất trong đa dạng” của văn hóa. Nhiệm vụ này phải được
thực hiện ở mỗi một dân tộc, bắt đầu từ việc bảo tồn những nét
đặc sắc của văn hóa dân tộc đó.
Ở Quảng Nam, dân tộc Cơtu là dân tộc thiểu số cư trú ở
khu vực miền núi phía Tây Bắc của tỉnh. Những yếu văn hóa của
dân tộc này đến nay vẫn được lưu giữ gần như nguyên vẹn. Đó là
kiến trúc nhà làng (gươl), những lễ hội truyền thống, trang phục
cổ truyền, không gian văn hóa làng, những phong tục đặc sắc và
trong nếp sống, sinh hoạt hằng ngày, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng cao. Văn hóa dân tộc Cơtu biểu hiện sinh động tín
ngưỡng và nhận thức của con người đối với tự nhiên; trong nhận
thức và hành động của người Cơtu chứa đựng tinh thần nhân văn,
nhân đạo và triết lý sâu sắc về cuộc sống.
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
Cơtu hiện nay cần một hệ thống giải pháp kết hợp trên nhiều
phương diện về kinh tế, chính trị và văn hóa. Đây là những giải
pháp chủ yếu có ý nghĩa quyết định trong việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa dân tộc Cơtu ở Quảng Nam.
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, việc xây dựng
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phải chú trọng đến những giá
trị chung của các dân tộc. Đồng thời, phải phát huy được tính đa
dạng từ việc kế thừa bản sắc của mỗi dân tộc trong công đồng dân
tộc Việt, từ đó mới tạo nên được một nền văn hóa thống nhất
trong tính đa dạng về bản sắc của các dân tộc.
23

×