Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

RÈN kĩ NĂNG đọc DIỄN cảm văn học TRONG dạy học văn TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.01 KB, 130 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM HÀ TÂY
LÊ MINH THU
TÊN ĐỀ TÀI:
RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM
VĂN BẢN VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC VĂN
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN
NĂM HOC 2009 - 2010
1
MỤC LỤC trang
Phần mở đầu 4
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Môc ®Ých và nhiệm vụ nghiªn cøu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của đề tài 8
7. Bố cục của đề tài 8
Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận 9
1.1. Khái niệm và đặc trưng của văn bản văn học 9
1.1.1. Quan niệm về văn bản văn học - Văn bản văn học trong nhà trường 9
1.1.1.1. Nhận diện văn bản văn học 9
1.1.1.2. Nhận diện văn bản trong nhà trường 14
1.1.2. Hoạt động giao tiếp và ứng dụng vào đọc hiểu văn bản văn học 15
1.1.3. Cơ sở lí luận của đọc diễn cảm 19
1.1.3.1. Cơ sở ngôn ngữ 22
1.1.3.2. Cơ sở sinh lí học - tâm lí học 27
1.1.3.3. Cơ sở giao tiếp 27
1.1.3.4. Cơ sở nghệ thuật 30
1.1.4. Vai trò của đọc diễn cảm với việc tiếp nhận văn bản văn học của
người đọc trong nhà trường 31


Chương 2. Thực trạng đọc diễn cảm 35
2.1. Mục đích khảo sát . 36
2.2. Đối tượng khảo sát 36
2.3. Phương pháp khảo sát 36
2.4. Nội dung và kết quả khảo sát 36
2.4.1. Sách giáo khoa - tài liệu dạy đọc diễn cảm của trường THCS 36
2.4.2. Thực trạng về kĩ năng đọc diễn cảm của SV Văn CĐSP,
GV Văn trường THCS 37
2.4.2.1. Điều tra khảo sát 37
2.4.2.2. Đánh giá kết quả khảo sát 40
2.5. Đánh giá về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm của SV trường CĐSP,
của GV trường THCS 40
Chương 3. Xây dựng quy trình và kĩ thuật đọc diễn cảm
43
3.1. Quy trình rèn kĩ năng đọc diễn cảm 44
3.1.1. Luyện đọc thành tiếng 45
3.1.2. Tìm hiểu nội dung - nghệ thuật của văn bản văn học 47
3.1.2.1. Đọc thầm kĩ lưỡng để nắm cấu trúc văn bản văn học 47
2
3.1.2.2. Đọc - giải mã tác phẩm văn học 50
3.1.2.2.1. Giải mã cấu trúc ngôn từ 50
3.1.2.2.2. Giải mã cấu trúc hình tượng 53
3.1.2.2.3. Giải mã cấu trúc ý nghĩa 55
3.2. Kĩ thuật đọc diễn cảm 56
3.2.1. Luyện đọc diễn cảm với các yếu tố kĩ thuật đọc 56
3.2.1.1. Đọc rõ tiếng, rõ lời đúng chính âm 57
3.2.1.2. Xác định đúng giọng điệu cơ bản của bài đọc 58
3.2.1.3. Xác định ngữ điệu đọc phù hợp 58
3.2.1.4. Xác định tư thế, nét mặt, điệu bộ 71
3.2.1.5. Điều chỉnh tốc độ, âm lượng đọc 72

3.2.2. Luyện đọc diễn cảm với các kĩ năng đọc diễn cảm 73
3.2.2.1. Kĩ năng hiểu và truyền đạt ngụ ý 74
3.2.2.2. Tưởng tượng và làm cho người nghe như nhìn thấy
những cảnh tượng như mình hình dung 74
3.2.2.3. Phân tích thể hiện 77
3.2.2.4. Giao tiếp với người nghe 79
3.3. Đọc diễn cảm theo đặc trưng loại 80
3.1. Đọc tác phẩm trữ tình 80
3.2. Đọc tác phẩm tự sự 87
3.3. Đọc tác phẩm kịch 92
3.4. Đọc văn bản nghị luận 96
3.5. Đọc văn bản nhật dụng 99
Chương 4: Dạy học thực nghiệm 103
4.1. Mục đích dạy học thực nghiệm 103
4.2. Thời gian và địa điểm thực nghiệm 103
4.3. Đối tượng thực nghiệm và đối tượng đối chứng 103
4.4. Nội dung thực nghiệm 103
4.5. Kết quả thực nghiệm và đánh giá kết quả thực nghiệm 103
4.5.1. Kết quả thực nghiệm 103
4.5.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm 104
Phần kết luận 106
1. Khái quát kết quả nghiên cứu của đề tài 106
2. Kiến nghị đề xuất 107
Tài liệu tham khảo 108
Phần phụ lục 109
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đọc diễn cảm trở thành một phương pháp đặc thù không thể thiếu được trong
dạy học Văn và tiếng Việt ở nhà trường. Ở khoa Xã hội trường Cao đẳng Sư phạm,

học phần Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, học phần Phương pháp dạy học Ngữ
văn, sinh viên Văn phải luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản văn học sẽ dạy
trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS) để sử dụng phương pháp đọc
diễn cảm khi đi thực tập sư phạm và sau này đứng lớp dạy Ngữ văn. Vì vậy, đọc
diễn cảm trở thành một phương pháp rất quan trọng đối với việc rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm, chuẩn bị cho giáo sinh ngành Văn bước chân lên bục giảng.
Môn Ngữ văn ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh (HS). Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện
trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Đọc là một kĩ năng quan trọng đối với giáo viên (GV) và HS học Ngữ văn. Biết
đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận, khả năng tiếp thu nền văn minh của
nhân loại lên nhiều lần. Biết đọc, con người sẽ nâng khả năng tìm hiểu, đánh giá
cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội và tư duy. Biết đọc, con
người biết chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế
giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác. Đặc
biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận
thức, mà còn rung động tình cảm, nảy nở những mơ ước tốt đẹp, được khơi dậy
năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.
Song trên thực tế, mặc dù tất cả các GV và SV học Văn đều đọc diễn cảm
nhưng còn tuỳ vào năng lực của mỗi người, đọc “chẳng diễn cảm được bao nhiêu”.
Việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm thường được GV thực hiện một cách khá hình thức
hoặc chưa có bài bản, phần lớn còn theo kinh nghiệm cá nhân. Hoặc nếu có tài liệu
thì chỉ là một số kĩ thuật đọc thành tiếng thông thường dùng cho HS tiểu học.
Nhiều sinh viên (SV) không thể hiện được giọng đọc đúng ngữ điệu theo yêu cầu,
mà mới chỉ dừng lại biết đọc ở mức đọc đúng, chưa biết đọc diễn cảm. SV mặc dù
rất muốn rèn luyện để thành thục kĩ năng đọc diễn cảm nhưng không có mẫu tương
đối chuẩn, chưa có tài liệu dạy đọc diễn cảm phù hợp để học tập. Do vậy, việc rèn
kĩ năng đọc diễn cảm của SV còn gặp nhiều khó khăn, từ đó ảnh hưởng tới việc vận
dụng phối hợp giữa các phương pháp đặc thù trong dạy học Ngữ văn khi tập giảng,
đi thực tập.

Nhiều SV, GV THCS hiện nay chưa được trang bị đầy đủ kiến thức lí luận
về đọc diễn cảm trong dạy học Văn nên còn nhiều lúng túng khi ứng dụng. Có hai
khó khăn nổi lên hàng đầu là GV đọc diễn cảm (đọc mẫu của GV) như thế nào, GV
hướng dẫn HS đọc diễn cảm như thế nào?
4
Nhiều GV chỉ hiểu chung chung về tác dụng của đọc diễn cảm trên lí thuyết
nhưng không chỉ ra được một cách cụ thể ở từng bài với cách đọc khác nhau hiệu
quả sẽ khác nhau và đâu là cách đọc tối ưu.
Tài liệu tham khảo về vấn đề này chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế dạy học.
Qua khảo sát thực tế, chúng tôi thấy nhất thiết phải có thêm tài liệu tham
khảo về rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo đặc trưng thể loại cho GV và HS vì:
Đọc diễn cảm là một phương pháp đặc thù. Đọc diễn cảm được coi là sự
phân tích tác phẩm văn học bằng âm thanh đã trở thành một nhiệm vụ lớn lao đặt
ra trước các nhà sư phạm.
Từ những lí do cơ bản trên, với tư cách là những GV phương pháp trực tiếp
tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn cho SV Văn trường CĐSP, chúng tôi thực
hiện đề tài này với mong muốn có thêm một tài liệu thiết thực để rèn đọc diễn cảm
cho SV Văn cũng như GV Ngữ văn phổ thông.
Tài liệu Rèn kĩ năng đọc diễn cảm văn bản văn học trong dạy học Văn sẽ
là một tài liệu học tập của SV văn trường CĐSP, đồng thời cũng có thể dùng làm
tài liệu tham khảo và học tập cho SV cho SV các khoa Tiểu học, Mầm non, các lớp
Liên kết, tại chức có các bộ môn Văn - Tiếng Việt. Tài liệu này cũng có thể dùng
bồi dưỡng chuyên đề cho GV dạy Ngữ văn ở các trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Đọc diễn cảm ở Việt Nam mặc dù không có sách lí luận nghiên cứu sâu như
trên thế giới nhưng ngay từ thời nhà nước phong kiến Việt Nam tự trị (thế kỉ XI),
việc đọc văn (đọc diễn cảm) đã được tiến hành song song với việc học chữ Hán.
Tác phẩm “Nam quốc sơn hà” được Trương Hống, Trương Hát đọc trên Sông
Bạch Đằng, “Dụ chi tì tướng hịch văn” được Trần Quốc Tuấn đọc trước tướng sĩ,
“Bình Ngô đại cáo” được đọc trước dân chúng. Sau này, trong thời kì Pháp thuộc,

để vận động, thức tỉnh tinh thần yêu nước của nhân dân, các chí sĩ yêu nước cũng
đã dùng nghệ thuật đọc diễn cảm để đọc diễn văn trong các buổi hội họp, tuyên
truyền. Chế độ mới, chính quyền mới được thành lập thay thế cho chế độ nửa thực
dân nửa phong kiến. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên
ngôn độc lập” (bằng chữ quốc ngữ) tại quảng trường Ba Đình trước hàng vạn
người, tạo nên một hiệu quả rất lớn. Lúc đó ở Việt Nam vẫn chưa có sách nghiên
cứu về đọc diễn cảm.
Nhà trường mới Xã hội chủ nghĩa coi đọc diễn cảm là một năng lực của GV
khi dạy học Văn, là một năng lực cần rèn cho học sinh. Đọc diễn cảm có tác dụng
to lớn góp phần hình thành nhân cách cho con người mới.
Về tài liệu hướng dẫn đọc diễn cảm dùng cho giáo viên và sinh viên hiện
nay, có thể kể đến các tài liệu sau:
* Phương pháp giảng dạy văn học, Phan Trọng Luận, NXB ĐH Huế năm
2008,Trung tâm đào tạo từ xa, trang 136 - 140. Tài liệu này chủ yếu nói về vai trò,
tác dụng của đọc diễn cảm.
5
* Phương pháp đọc diễn cảm, Hà Nguyễn Kim Giang, NXB ĐHSP 2007.
Tài liệu này nghiên cứu về đọc diễn cảm cho trẻ em mẫu giáo, cho SV Mầm non.
Tài liệu đã chỉ ra được một số cơ sở khoa học của đọc diễn cảm.
* Dạy học tập đọc ở tiểu học, Lê Phương Nga, NXB GD 2001. Tài liệu này
nghiên cứu về dạy tập đọc cho học sinh tiểu học, có tìm hiểu rất kĩ về thực trạng
đọc của trẻ em tiểu học hiện nay và đưa ra các biện pháp rèn đọc.
* Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh, NXB
GD 1996. Tài liệu này đã chỉ ra một số kĩ thuật đọc diễn cảm nói chung để rèn kĩ
năng đọc cho SV tiểu học.
* Nghệ thuật đọc diễn cảm, Vũ Nho, NXB Thanh niên 2/1999. Tài liệu này
thiên về thực hành đọc diễn cảm với một sỗ các yếu tố kĩ thuật và các kĩ năng đọc
diễn cảm dành cho mọi đối tượng.
* Góp phần dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 CCGD, Trần Mạnh
Hưởng, Tập san Giáo dục phổ thông cấp 1 số 2/1985.

* Về phương pháp đọc sáng tạo và biện pháp đọc diễn cảm ở lớp 6 và lớp 7
CCGD, Nguyễn Quốc Tuý, Báo Giáo viên nhân dân số 27, 30 ngày 13/7/1987.
* Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản, Taff E.Raphael - Efieda H. Hiebert,
người dịch Lê Công Tuấn (nhóm),NXB ĐHSP 2007. Tài liệu này chủ yếu là hướng
dẫn đọc hiểu văn bản dành cho tiểu học.
* Đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ, M. K. Bôgliupxkaia,
V.V.Septsenkô, Lê Đức Mẫn dịch, NXB GD năm 1976. Tài liệu này chủ yếu dành
cho đọc và kể chuyện ở lứa tuổi vườn trẻ, mẫu giáo.
Tuy đã có một số tài liệu về đọc diễn cảm nhưng ít người biết đến những
cuốn sách đó.
Điểm qua các sách tham khảo có liên quan đến vấn đề rèn kĩ năng đọc diễn
cảm có thể nhận thấy:
- Tài liệu chủ yếu dùng cho Mầm non hoặc Tiểu học rèn kĩ năng đọc thành
tiếng.
- Tài liệu dành cho THCS chỉ nói chung chung về tác dụng của phương pháp
đọc diễn cảm.
- Tài liệu dịch lại thiên về đọc hiểu văn bản văn học ở tiểu học.
Nhìn chung chưa có tài liệu nào hướng dẫn cụ thể về rèn đọc diễn cảm,
hướng dẫn cách đọc diễn cảm văn bản văn học trong dạy học Văn, đúng như giáo
sư Phan Trọng Luận đã nhận xét chưa có một bài báo hay cuốn sách nào đề cập
đến vấn đề đọc diễn cảm như một phương pháp.
3. Môc ®Ých và nhiệm vụ nghiªn cøu
3.1. Môc ®Ých nghiªn cøu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài hướng tới xây dựng biện pháp rèn kĩ năng
đọc diễn cảm (gồm cả hai mặt của hoạt động đọc diễn cảm là đọc thành tiếng và
đọc hiểu) cho SV Văn trường CĐSP Hà Tây nói riêng và GV THCS nói chung,
giúp cho họ có thêm tư liệu tham khảo để rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Trang bị cho
sinh viên Văn những kĩ năng đọc diễn cảm ở hai vị trí người học hôm nay và người
6
thy sau ny. Ngoi ra, ti liu ny cng cú th dựng tham kho v hc tp cho

GV v SV cỏc khoa Tiu hc, Mm non, cỏc lp Liờn kt, ti chc cú cỏc b
mụn Vn - Ting Vit.
Nghiờn cu thnh cụng ti Rốn k nng c din cm vn bn vn hc
trong dy hc vn phục vụ cho sinh viờn hc tt hc phn PPDH Ng vn, Rốn
luyn nghip v s phm thng xuyờn, phc v tt hỡnh thức đào tạo giáo viên
Ngữ văn THCS.
3.2. Nhim v nghiờn cu:
ti s tp trung nghiờn cu, gii quyt nhng nhim v ch yu sau õy:
Xây dựng cơ sở lí thuyết để thấy đợc những mục đích, vai trò, yêu cầu cơ bản
của việc xây dựng ni dung, phng phỏp, bin phỏp, k thut rốn c din cm cho
SV Vn.
Khảo sát thực trạng về khả năng c din cm trong sinh viờn Vn Trng
CSP H Tõy, ca giỏo viờn Trng THCS trờn mt s a bn H Ni.
Xõy dng quy trỡnh rốn k nng v c din cm trong nh trng.
Dạy học thực nghiệm trên sản phẩm của đề tài ti trng CSP H Tõy v
mt s a bn ca thnh ph H Ni v xut phng ỏn trin khai ng dng.
4. i tng v phm vi nghiờn cu
4.1. i tng:
i tng nghiờn cu chớnh ca ti l xõy dng k thut c din cm,
phng phỏp c din cm theo loi th phc v dy hc hc phn Phng phỏp
dy hc Ng vn, Rốn luyn nghip v s phm trng CSP.
4.2. Phm vi nghiờn cu
ti ch kho sỏt thc trng rốn k nng c din cm trong trong rốn luyn
nghip v s phm, trong s dng phng phỏp c din cm - phng phỏp c
thự dy hc Vn trng CSP H Tõy v trờn mt s a bn tiờu biu ca thnh
ph H Ni.
ti ch nghiờn cu ng dng c din cm ch yu vi mc ớch hng
dn SV Vn trng CSP H Tõy rốn k nng c din cm trong nh trng. Vic
c din cm mang tớnh ngh thut cao nh trỡnh din cha c cp ti trong
ti ny.

ti cng ch khai thỏc c din cm theo th loi cú trong chng trỡnh
Ng vn THCS, cỏc th loi khụng cú trong chng trỡnh cha c cp trong
ti ny.
5. Phng phỏp nghiờn cu:
5.1. Phng phỏp iu tra kho sỏt.
Chỳng tụi thc hin iu tra kho sỏt tỡnh tỡnh thc hin c din cm trờn
a bn H Ni mt s trng CSP v THCS. T ú cú c nhng ỏnh giỏ
chung v cỏc mt c v cha c, nhng khú khn v yờu cu, kin ngh ca
SV, GV trc tip thc hin c din cm bn bn vn hc trong dy hc Vn. õy
chớnh l c s thc tin cho vic thc hin ti.
5.2. Phng phỏp nghiờn cu lớ lun v c din cm, ti liu c din cm.
7
Lí luận về đọc diễn cảm là cơ sở lí thuyết cho việc thực hiện đề tài. Đồng
thời để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học, nghiên cứu SGK Ngữ văn mới ở THCS với các kiểu văn bản
cụ thể có trong chương trình. Từ đó có thể đề xuất được các phương án đọc diễn
cảm nói chung và đọc diễn cảm theo loại thể có tính khả thi.
5.3. Phương pháp đối chiếu so sánh, phân tích, tổng hợp.
Các phương pháp đối chiếu so sánh, phân tích, tổng hợp rất cần thiết cho
việc nghiên cứu của đề tài. Đây đồng thời là các thao tác để chúng tôi có thể nghiên
cứu kĩ lường từng khía cạnh của vấn đề rồi tổng hợp lại theo mục đích mà đề tài đặt
ra.
5.4. Phương pháp dạy học thực nghiệm.
Dạy học thực nghiệm là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đề tài, để
đánh giá tính khả thi của những đề xuất mà đề tài đưa ra. Trong đề tài này, chúng
tôi đã tiến hành thực nghiệm trên các đối tượng là SV và GV ở trường CĐSP và
THCS trên địa bản Hà Nội.
6. Đóng góp của đề tài:
Xây dựng được kĩ thuật đọc diễn cảm, phương pháp đọc diễn cảm theo loại
thể, phục vụ dạy học môn Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường CĐSP.

Đề tài thành công sẽ ứng dụng vào:
Dạy học “ Phương pháp đọc diễn cảm” trong học phần PPDH Ngữ văn ban
Văn, khoa Xã hội.
Dạy học học phần “Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt” khoa Tiểu học, mục
rèn kĩ năng đọc.
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho SV khối đào tạo THCS,
khối Tiểu học, khối Mầm non trong trường CĐSP.
Triển khai ứng dụng dạy bồi dưỡng chu kì cho GV THCS trên địa bàn thành
phố Hà Nội (Hà Tây cũ).
Tài liệu tham khảo rộng rãi trong dạy và học ở nhà trường cho GV, SV, HS,
phụ huynh học sinh để rèn đọc, nâng cao kĩ thuật đọc và văn hoá đọc, nghệ thuật
đọc.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận đọc diễn cảm
Chương 2: Thực trạng vấn đề đọc diễn cảm trong nhà trường
Chương 3: Xây dựng quy trình kĩ thuật đọc diễn cảm
Chương 4: Dạy học thực nghiệm
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ĐỌC DIỄN CẢM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN BẢN VĂN HỌC
1.1.1. Quan niệm về văn bản văn học và văn bản văn học trong nhà trường.
1.1.1.1. Nhận diện văn bản văn học.
* Phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn học:
Hiện nay quan niệm về văn bản có nhiều ý kiến khác nhau tuỳ theo điểm
nhìn của từng nhà nghiên cứu thuộc các ngành nghiên cứu khác nhau. Quan điểm
nào cũng có hạt nhân hợp lí. Quan niệm về văn bản của lí thuyết tiếp nhận, hiện
tượng học là quan niệm về văn bản hiện đại nhất, đúng nhất với thực tế và với văn
bản văn học:

Văn bản là một cấu trúc mời gọi, có khoảng trống về ý nghĩa hoặc những
điểm không xác định. Khoảng trống và điểm không xác định dành cho người đọc
cụ thể hoá và đồng sáng tạo. Văn bản là một cấu trúc mở, tự nó chưa đầy đủ, chờ
sự lấp đầy của người đọc để tự thực hiện mình.
Quan niệm về văn bản văn học (VBVH): là một tổ hợp có trật tự, nhiều tầng
bậc, dùng ngôn ngữ để truyền đạt tư tưởng, tình cảm, có giá trị thẩm mĩ. Văn bản
văn học có tính lập thể, không đơn giản là tính hình tuyến, nó có nhiều tầng bậc.
Tầng ngôn từ với ngữ âm, nghĩa từ, nghĩa câu đoạn, chương, toàn thể văn bản.
Tầng thế giới hình tượng với các chi tiết, sự kiện, nhân vật, hình ảnh. Tầng ý nghĩa
với đề tài, chủ đề, tư tưởng. Văn bản có mặt thấy được (hữu hình) và mặt không
thấy được (vô hình).
Văn bản là sản phẩm sáng tạo của tự thân nhà văn, chưa tính đến sự hành chức
xã hội thẩm mĩ, là đối tượng của sự phân tích khép kín về mặt giải thích học.
Văn bản nảy sinh trong không gian quan hệ giữa người đọc và con chữ, nó là
một nơi sản sinh. Với tư cách là hoạt động sản sinh, nó sản sinh ra không phải là
sản phẩm, mà là nơi có sự gặp gỡ giữa tác giả và người đọc, người diễn xuất, nơi
tiến hành các trò chơi chữ. Do đó văn bản không phải là sự kết thúc sinh sản, mà là
quá trình sinh sản. Tư liệu sinh sản của nó là ngôn ngữ, là thứ ngôn ngữ dùng để
giao tiếp, tái hiện, biểu đạt. Văn bản giải cấu trúc ngôn ngữ ấy và tạo thành ngôn
ngữ khác, cứ thế tuần hoàn không dứt.
Tác phẩm văn học là sản phẩm sinh nghĩa và tạo nghĩa của văn bản, là sự thống
nhất có tính quá trình giữa văn bản nghệ thuật với khách thể thẩm mĩ hình thành
trong quá trình tiếp nhận của người đọc. Đó là một thế giới nghệ thuật sống động
mang giá trị tư tưởng thẩm mĩ do người đọc khám phá ra.
Sự phân biệt văn bản và tác phẩm cho thấy sự khác biệt giữa sáng tạo của
nhà văn và sức đọc, sức cảm thụ, sáng tạo của người đọc. Đồng thời sự phân biệt
đó cho thấy đặc trưng văn học chủ yếu thuộc về văn bản văn học vì nó mở ra một
thế giới mới, các điểm nhìn nhân vất đều được mã hoá trong văn bản. Từ một văn
bản mà các người đọc với năng lực, kinh nghiệm, thị hiếu khác nhau có thể tạo
9

thành những tác phẩm với các điểm nhấn khác nhau. Cái phức hợp tư tưởng, thị
hiếu xã hội, hay cấu trúc tri nhận của người đọc đã quy định cách lựa chọn, cách
cấu tạo lại văn bản của họ. Chính vì vậy, việc đào tạo năng lực đọc có ý nghĩa rất
quan trọng. Tuy nhiên, dù vai trò người đọc có tích cực như thế nào thì văn bản văn
học vẫn là thực thể tồn tại thứ nhất của tác phẩm.
* Nhận diện văn bản văn học:
Xét về mục đích, ý đồ sáng tác thì VBVH bao giờ cũng thể hiện ý định của
người cầm bút. Nhà văn muốn bày tỏ một vấn đề, một quan niệm, một thái độ về
cuộc sống đến những bạn đọc nhất định cho nên bất cứ một văn bản văn học nào
cũng là một lời tri âm, một tấc lòng của tác giả gửi người cùng thanh khí.
Ý định đó không phải là một lời tuyên bố khô khan, một khái niệm trừu tượng.
Ý định đó bao giờ cũng được thể hiện qua một nội dung và hình thức nghệ thuật
nhất định. Nội dung đó bao giờ cũng được cấu tạo nên bởi hai yếu tố hợp thành:
hiện thực khách quan và chủ quan của tác giả (phản ánh và biểu hiện không phải
bao giờ cũng đồng nhất).
Tuỳ tài năng sáng tạo của nhà văn và tuỳ từng loại thể mà phương thức biểu
hiện nội dung hình thức có những điểm khác nhau. Nhưng nói chung là tự sự hay
trữ tình, văn bản văn học nào cũng lấy ngôn ngữ làm vật liệu biểu hiện. Ngôn ngữ
cấu tạo thành hình tượng tính cách. Ngôn ngữ trong thơ, trong truyện, trong kịch lại
có những đặc điểm riêng.
Sức mạnh của văn bản văn học chính là ở mặt tình cảm. Văn bản văn học đánh
thức, khêu gợi tâm hồn rung động của người đọc. Tác giả dẫn dắt và thuyết phục
người đọc một cách bất ngờ bằng cách đốt cháy lên trong lòng người đọc những tia
lửa, ngọn lửa tình cảm, những nguồn rung động sâu lắng.
Bản chất của văn bản văn học là: Sự sáng tạo mới bức tranh hiện thực; sự bảo
toàn bản chất độc đáo người trong cái tôi nghệ sĩ; tính chất toàn năng của ngôn ngữ
nghệ thuật - “Dấu hiệu quan trọng nhất của của tính nghệ thuật trong văn học là
sự hoàn thiện của hệ thống ngôn từ của nó” – Pospelow, Dẫn luận nghiên cứu văn
học. Từ đó cho thấy mối liên hệ giữa bạn đọc với văn bản văn học là một mối giao
tế xã hội, một mối liên hệ có lựa chọn đầy hứng thú với sự vận động của của những

năng lực tâm lí đặc biệt. Trong đó, vai trò của tưởng tượng quan trong đặc biệt:
“Người kể chuyện luôn luôn phải dùng đến trí tưởng tượng để thấy những hình ảnh
của sự vật và khác nào vẽ lại những hình ảnh ấy bằng tiếng nói do đó mà truyền
đạt vào trí tưởng tượng của người nghe những hình ảnh như dang sống thực, có
sức cuốn hút và làm lay động cả trí tuệ và tình cảm của người nghe” (Nguyễn Đình
Thi).
Sức mạnh của văn bản văn học chính là mối liên hệ giữa VBVH và bạn đọc.
Không có bạn đọc sẽ không có văn bản văn học. Mối liên hệ ấy được biểu diễn như
sau:
10

Hiện thực khách quan là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ. Thông
qua lăng kính chủ quan của mình, những nghệ sĩ sáng tạo nên văn bản văn học của
mình, gửi gắm vào văn bản tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với cuộc sống, hiện thực
thông qua các hình tượng văn học. Văn bản văn học đến với bạn đọc, tác động vào
bạn đọc một cách toàn diện: nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ. Các văn bản văn học
chân chính sẽ tác động toàn diện tới bạn đọc, làm bạn đọc phát triển. Từ nhận thức
về cuộc sống do văn bản khêu gợi lên, bạn đọc xác định được thái độ, tiến tới có
hành động thiết thực góp phần cải tạo cuộc sống làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn lên.
Như vậy Hiện thực khách quan I đã thay đổi thành Hiện thực khách quan II. Cứ
như vậy, mối liên hệ với bạn đọc đã làm cho văn bản văn học thực sự hữu ích, góp
phần cải tạo cuộc sống phát triển theo chiều xoáy trôn ốc.
Đặt văn bản trong mối quan hệ với bạn đọc không những phù hợp với ý định
sáng tác của nhà văn mà còn thể hiện sự nhận thức đúng đắn về con đường vận
động khách quan của văn bản văn học đến với cuộc sống. Đích sáng tác là cuộc
đời. VBVH đến với cuộc đời thông qua bạn đọc. VBVH có hai sinh mệnh: bản thân
VBVH do nhà văn sáng tạo nên với hình tượng văn học luôn luôn tồn tại một cách
khách quan; VBVH đến với cuộc đời thông qua bạn đọc bằng con đường tái tạo
trong lòng độc giả. Nói cách khác, tôn trọng bản thân VBVH như một tồn tại khách
quan của hình tượng do nhà văn sáng tạo nên đồng thời cần nhấn mạnh mối liên hệ

sinh mệnh của VBVH đối với cuộc đời. Một cách quan niệm như vậy giúp ta hiểu
VBVH được đúng đắn vừa thể hiện được một quan niệm thực tiễn cần có về văn
học.
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn học và tác phẩm văn học tuỳ theo góc
nhìn của các nhà nghiên cứu dưới ánh sáng của những lí thuyết khác nhau: lí thuyết
Hiện thực
khách quan I
Văn bản văn học
(lăng kính chủ
quan của nhà văn)
Bạn đọc
Hiện thực
khách quan II

Văn bản văn học
(lăng kính chủ
quan của nhà văn)

Bạn đọc
Tác động trở lại
Tác động trở lại
……

11
cấu trúc, thông tin, văn bản học. Có quan niệm tuyệt đối hoá về vai trò của cấu trúc
ngôn ngữ trong tác phẩm, có quan niệm thiên về thông điệp xã hội của tác phẩm, có
quan niệm cho rằng tác phẩm chỉ là một kí hiệu đơn nghĩa hay đa nghĩa,… Mỗi
một quan niệm đều có hạt nhân hợp lí là nhấn mạnh một chức năng hay một yếu tố
nào đó của tác phẩm văn học tuỳ theo góc nhìn của nhà nghiên cứu thuộc ngành lí
thuyết cụ thể. Chúng ta có thể xem xét, chọn lọc, tiếp nhận những gì là hợp lí trong

quan niệm, nhất là trong phương pháp của các lí thuyết nói trên để bổ sung cho
quan niệm về văn học và văn bản văn học. Tiếp nhận nhưng phải tuân thủ nguyên
tắc là: không thể vì nhấn mạnh đến một chức năng hay yếu tố nào đó của văn học
và văn bản văn học mà coi nhẹ nội dung và ý nghĩa thẩm mĩ (thông tin nghệ thuật)
của bản thân tác phẩm.
Nhìn chung, có thể hiểu khái quát về văn bản văn học là:
- Mỗi văn bản văn học bao giờ cũng là những lời nhắn gửi trực tiếp hoặc
gián tiếp, kín đáo hoặc công khai của nhà văn về cuộc đời và cuộc sống.
- Bằng sự sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật theo phong cách riêng của mình, nhà
văn tạo nên một hình thức độc đáo của VBVH chứa đựng một nội dung nhất định
bao gồm hai yếu tố khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện chuyển hoá thâm
nhập vào nhau nhằm gây được một tác động đặc biệt đến tâm hồn và tình cảm của
bạn đọc, đối tượng tạo nên mối liên hệ sinh mệnh của VBVH đối với đời sống.
Từ đó, văn bản văn học mang những đặc trưng cơ bản sau:
- Văn bản văn học là một chỉnh thể toàn vẹn sinh động: VBVH có sự thống
nhất đặc biệt giữa nội dung và hình thức văn bản, trong lôgic của ý thức nghệ thuật
và việc vận dụng các phương tiện nghệ thuật cụ thể tiêu biểu, biểu hiện trong mở
đầu và kết thúc văn bản, biểu hiện trong tưởng tượng thi ca được phát triển nhất
quán với hình tượng văn học.
Nội dung của văn bản văn học gồm các thành tố: đề tài, chủ đề, cảm hứng, tư
tưởng, nhân vật, tính cách, các sự kiện…
Hình thức nghệ thuật của văn bản văn học gồm các thành tố: yếu tố tạo hình,
ngôn từ, kết cấu, thể loại, phong cách, tình cảm yêu ghét, cảm hứng thẩm mĩ…
- Văn bản mang đặc điểm nhiều nghĩa, đặc điểm mở. Nguyên nhân dẫn đến
tính nhiều nghĩa của văn bản:
Tính biểu cảm của ngôn ngữ và quá trình tạo nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật
bằng hình thức liên kết trong văn bản.
Do sức khái quát cao của hình tượng văn học, do khả năng tìm thấy những
nét tương đồng của nhiều kiểu người trong hình tượng văn học.
Do sự di chuyển những hiện tượng cụ thể và hình thức sinh động của cuộc

sống hiện thực vào ý đồ sáng tạo và cấu trúc nghệ thuật mới.
Do quá trình giải mã những kí hiệu thẩm mĩ tác phẩm, có sự bổ sung, mở
rộng của người tiếp nhận vào hình tượng.
- Văn bản văn học thường có tính hư cấu. Trong văn bản văn học, tác giả
thực luôn lánh đi, nhường chỗ cho chủ thể lời nói (người kể chuyện, nhân vât, chủ
12
thể trữ tình…) do tác giả sáng tạo ra. Tính hư cấu khẳng định quyền sáng tạo của
nhà văn và tính độc lập khép kín tương đối của văn bản văn học.
- Văn bản văn học có bản chất kí hiệu: Ngôn ngữ là phương thức tồn tại của
con người trong thế giới, con người nhìn nhận, tiếp xúc thế giới qua ngôn ngữ.
Ngôn ngữ lại thể hiện cái giới hạn hiểu biết của con người về thế giới. Con người
ngoài ngôn ngữ toàn dân còn sáng tạo ra ngôn ngữ văn học (ngôn ngữ hình tượng).
Văn bản văn học có khả năng giải cấu trúc ngôn ngữ thông thường để tái kí hiệu
hoá, biểu tượng hoá các ấn tượng, kinh nghiệm sống của mình. Nó làm được như
thế là do tính hư cấu đã cắt đứt mối quan hệ của văn bản với ngữ cảnh cụ thể, văn
bản tự mình trở thành ngữ cảnh. Ví dụ bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương,
“em” trong bài chỉ ai? Không thể liên hệ ai ngoài văn bản để hiểu. Dựa vào nhan đề
thì “em” là chiếc bánh tự xưng. Dựa vào lời tự bạch trong bài thì “em” là lời người
con gái. Dựa vào tính biểu tượng hiểu ngầm thì “em” là bộ phận trên ngực người
phụ nữ. Đó là văn bản đa nghĩa. Trong văn học, mọi yếu tố đều có khả năng tài kí
hiệu hoá để trở thành hình tượng văn học.
Bản chất kí hiệu có cả trong hình tượng văn học. Hình tượng cũng là một hệ
thống kí hiệu, trong đó cỏ cây, hoa lá, đồ vật gió mây, nhân vật…đều có thể là kí
hiệu mang nội hàm đời sống, tư tưởng và văn hoá. Ví dụ chân dung nhân vật Kiều
cũng được vẽ bằng các kí hiệu biểu tượng: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Những thu thuỷ, hoa, liễu… là những biểu tượng
sẵn có trong truyền thống văn chương, nhà thơ chỉ tổ hợp chúng lại theo cảm nhận
của mình.
Kí hiệu hình tượng văn học là một hiện tượng đặc thù. Nó vừa có tính cụ thể,
gợi cảm, sinh động mà nó cũng phải có cấu trúc. Chẳng hạn, sự việc thì có mở đầu

- kết thúc, nhân vật thì có sinh - tử, lưu lạc – gặp gỡ,…có mối tương quan giữa
chủ thể kể chuyện với nhân vật, nhân vật với môi trường, có tương quan không
gian, thời gian,… Các quan hệ đó làm thành cấu trúc tạo nghĩa của hình tượng.
Xét tác phẩm văn học ở phương diện kí hiệu học, với tư cách là một sáng tạo
có tính kí hiệu, thì tác phẩm có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, văn bản
và ý nghĩa. Nội dung tác phẩm văn học được mã hoá vào các phương tiện biểu đạt
là ngôn từ và hình tượng văn học, làm thành ý nghĩa của chúng. Người đọc giải mã
ngôn từ và hình tượng dể nắm bắt ý nghĩa của tác phẩm. Do đó, nội dung của tác
phẩm được thực hiện và mở ra qua ý nghĩa mà người đọc phát hiện, nội dung tác
phẩm là tổng hoà mọi ý nghĩa của tác phẩm do hoạt động đọc mở ra. Nội dung tác
phẩm và ý nghĩa văn bản thống nhất trong đời sống lịch sử của tác phẩm văn học.
- Văn bản văn học được lựa chọn, trau chuốt, được tổ chức đặc biệt với
nhiều phương thức tu từ. Văn bản văn học luôn luôn sử dụng ngôn từ “lạ hoá”,
tức là gọi sự vật đã quen bằng những cách gọi khác lạ, do nhà văn tạo ra nhằm kích
thích, gây chấn động cho người đọc, đem đến cho họ một cách nhìn mới, cảm giác
mới, ý nghĩa mới, không bằng phẳng, sáo mòn như lời nói thông thường.
- Văn bản được hiểu ở tính độc lập, tách rời tác giả, là đối tượng thưởng
thức, phê bình của bạn đọc, là một hoạt động sản sinh ý nghĩa, qua đó người đọc
13
có thể khám phá ý nghĩa theo cách riêng của mình. Và đó là phương thức tồn tại
của tác phẩm văn học.
1.1.1.2. Nhận diện văn bản văn học trong nhà trường.
Văn bản văn học trong nhà trường là những văn bản văn học được chọn lọc,
tuyển lựa từ tinh hoa văn hoá văn học của dân tộc và nhân loại theo những tiêu chí
phù hợp với nhà trường, phù hợp cấu trúc chương trình giảng dạy của bộ môn. Vì
thời lượng học tập trên lớp và mục tiêu giáo dục, một VBVH hay và tốt nhiều khi
không thể và không có điều kiện giữ nguyên vẹn khi đi vào sách giáo khoa.
Như trên đã nói đến mối quan hệ giữa văn bản văn học và bạn đọc hay nói
cách khác, đó chính là vòng đời của văn bản văn học. Đó là một vòng khép kín kết
dệt nhiều quá trình và nhiều quan hệ: cuộc sống - nhà văn - văn bản - bạn đọc -

cuộc sống. Hành trình từ cuộc sống trở về với cuộc sống, VBVH có những quan hệ
hữu cơ, tương hỗ với bản thân cuộc sống, với nhà văn, với bạn đọc. Qúa trình trên
có sự tham gia của các nhân tố, trong đó nhân tố bạn đọc hết sức quan trọng. Nhân
tố bạn đọc thay đổi thì tác động của bản thân VBVH cũng có sự thay đổi: “Tác
phẩm nghệ thuật và mọi sản phẩm khác cũng thế - đều tạo ra một thứ công chúng
sính nghệ thuật và có khả năng thưởng thức cái đẹp. Như vậy là sản xuất không
phải chỉ cho một đối tượng chủ thể mà còn sản sinh cho một chủ thể đối tượng”
(Mác). VBVH đến với bạn đọc vốn không đồng nhất về nhiều điều kiện cảm thụ,
nên tác động của VBVH cũng không giống nhau. Người đọc có những điều kiện
chủ quan, có sự lựa chọn nhất định đối vớiVBVH. Mối quan hệ giữa văn bản văn
học với bạn đọc không phải là mối quan hệ ổn định, nhất thành bất biến.
Văn bản văn học trong nhà trường có một đối tượng bạn đọc đặc biệt đó là
học sinh ở độ tuổi phổ thông, khi tiếp nhận tác phẩm có sự định hướng tích cực của
người giáo viên. Trong nhà trường, sức mạnh của văn bản văn học đối với học sinh
được nhân lên bởi sự tài ba của người giáo viên, đồng thời với đặc điểm tâm sinh lí
lứa tuổi, học sinh tự nhận thức văn bản trên cơ sở vốn kinh ngiệm của mình.
Văn bản văn học trong nhà trường không chỉ là một phương tiện nhận thức
mà còn là đối tượng thẩm mĩ, đồng thời là một cơ sở để hình thành những hiểu biết
về lịch sử văn học lại vừa là công cụ giáo dục đặc biệt giúp học sinh tự phát triển
một cách toàn điện cân đối. Cách hiểu như vậy về văn bản văn học trong nhà
trường không làm mờ nhạt bản chất, chức năng đặc thù của hình tượng văn học,
vừa không loại trừ tính nhà trường, tính sư phạm của VBVH với tư cách là một
công cụ giáo dục đặc biệt.
Những hiểu biết về mục đích, ý định sáng tác, về cơ cấu nội dung, về sức
mạnh riêng của VBVH cùng mối liên hệ giữa nhà văn với bạn đọc, là những cơ sở
quan trọng để xác định đúng phương hướng chủ yếu và cơ bản cho việc khai thác
và giảng dạy một văn bản văn học. Dạy một bài văn theo ý nghĩa này bao giờ cũng
phải là công việc làm vang dội lên trong tâm trí người đọc học sinh tiếng nói tâm
tình tha thiết của nhà văn. Sức thuyết phục của tiếng nói tình cảm, của những rung
động sâu xa trong lòng người nghệ sĩ đến tận đáy lòng người học sinh. Cơ sở để

giáo dục, giảng dạy là nội dung cấu tạo củaVBVH.
14
Văn bản văn học có hai bình diện lớn là cái biểu hiện và cái phản ánh. Cái
biểu hiện bao giờ cũng lớn hơn cái phản ánh, hình tượng lớn hơn tư tưởng. Người
giáo viên thông hiểu bản chất của cấu tạo VBVH sẽ xác định được nội dung khai
thác, phân tích và giảng dạy. Điều nhà văn muốn nói, cần nói là cái quan trọng nhất
cần truyền đạt đến cho HS. Nhiệm vụ và công việc của người GV văn học gần gũi
nhưng không đồng nhất với nhiệm vụ và công việc của nhà phê bình, nghiên cứu
văn học. Người GV cần khai thác tác phẩm đáp ứng tthế giới tinh thần của HS để
giờ dạy ngày càng có hiệu quả hơn.
Những hiểu biết về mục đích, ý định sáng tác về cơ cấu nội dung, về sức
mạnh riêng của tác phẩm cùng mối liên hệ giữa nhà văn và bạn đọc, là những cơ sở
quan trọng để xác định đúng phương hướng chủ yếu và cơ bản cho việc khai thác
và giảng dạy một tác phẩm văn chương. Dạy một bài văn theo ý nghĩa trên bao giờ
cũng phải làm công việc vang dội lên trong tâm trí người HS tiếng nói tâm tình tha
thiết của nhà văn. Sức thuyết phục của tiếng nói tình cảm, của những rung động sâu
xa trong lòng người nghệ sĩ đến tận đáy lòng người HS. Cơ sở để giáo dục, giảng
dạy là nội dung cấu tạo của tác phẩm. Cái biểu hiện bao giờ cũng lớn hơn cái phản
ánh. Thường khi hình tượng lớn hơn tư tưởng.
Trong nhà trường, sức mạnh của tác phẩm văn học đối với HS luôn luôn
được nhân lên bởi tài ba của người GV. Tác phẩm văn chương trong nhà trường
không chỉ là một phương tiện nhận thức mà còn là một đối tượng thẩm mĩ, đồng
thời còn là một cơ sở để hình thành những hiểu biết về lịch sử văn học, là một công
cụ giáo dục đặc biệt giúp HS tự phát triển một cách hiểu toàn diện và cân đối.
1.1.2. Hoạt động giao tiếp và ứng dụng vào đọc hiểu văn bản văn học
* Dạy đọc hiểu là dạy một hoạt động.
Đọc là một hoạt động tâm lí nhằm giải mã văn bản. Một là để chuyển văn
bản kí hiệu văn tự thành văn bản ngôn ngữ (dạng thành tiếng hoặc dạng biểu
tượng âm thanh - đọc thầm) tương ứng với văn bản chữ viết. Hai là giải mã văn
bản để tìm ý nghĩa.

Có hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm.
Đọc thành tiếng chính là hoạt động chuyển văn bản ngôn ngữ viết thành văn
bản ngôn ngữ âm thanh. Hình thức đọc thành tiếng được sử dụng rộng rãi trong nhà
trường và trong cuộc sống.
Hình thức đọc thầm là đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để nhận
biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để thông hiểu nội dung thông tin của văn
bản. Đọc thầm chỉ được thực hiện khi người đọc đã biết đọc thành tiếng một cách
thông thạo.
Cơ chế của việc viết, đọc như sau:
Trong giao tiếp bằng ngôn từ người ta nảy sinh ra ý, rồi dùng ngôn ngữ để mã
hoá ý đó (gọi là mã hoá 1) thành từ, câu và phát triển thành biểu tượng lời nói (diễn
ra trong đầu), rồi sau đó phát âm thành ngôn ngữ ở dạng lời nói. Ngược lại khi
nghe, người ta sẽ nghe chính xác các âm thanh ngôn ngữ, sau đó giải mã ngữ âm
(giải mã 1) để biết ý (tin) của người nói là gì.
15
Nếu muốn giao tiếp bằng chữ viết, từ mã hoá 1, người ta lại phải mã hoá các
tín hiệu âm thanh của ngữ âm tự nhiên (gọi là mã hoá 2) thành mã chữ viết. Ngược
lại khi đọc, người ta dùng mắt đọc các kí hiệu đồ hình thành các tín hiệu âm thanh
(ở dạng âm thanh hoặc biểu tượng âm thanh). Đó là giải mã lần 1 (nghĩa là giải mã
2), sau đó tiếp tụcgiải mã lần 2, nghĩa là giải mã 1 đề tìm ra ý (tin) người nói muốn
biểu đạt là gì.
Có thể hình dung ra quy trình viết, đọc như sau:
1. Quy trình viết:
Ý → mã hoá 1 → lời nói → mã hoá 2 → văn bản viết
2. Quy trình đọc:
Văn bản viết → Giải mã 2 → Lời nói → Giải mã 1 →Ý
Đọc là một hoạt động tìm nghĩa, vì ý nghĩa là cái không hiển thị rõ ràng nên
đọc là hoạt động cảm thụ kết hợp với hoạt động tư duy nhằm kiến tạo ý nghĩa.
Nguyên tắc của việc rèn đọc là người đọc phải hiểu những gì được đọc, do đó được
gọi là đọc hiểu. Đã có vai trò của cảm thụ và tư duy thì đọc là hoạt động mang tính

cá thể hoá cao độ, gắn với trình độ, cá tính, trí tuệ của người đọc. Đọc hiểu là tự
hiểu không ai hiểu hộ được cho ai. Sự kiến tạo ý nghĩa xác định khi đọc là một hoạt
động sáng tạo. Hoạt động tìm nghĩa là quá trình đối thoại với tác giả và cộng đồng
lí giải, nên nó mang tính liên chủ thể, tính hợp tác. Trong quan niệm này, văn bản
không phải là đối tượng, khách thể của sự đọc, mà là một chủ thể của đối thoại.

* Đọc hiểu văn bản văn học
Đọc hiểu văn bản văn học là hoạt động đọc, được xác định thông qua đối
tượng thẩm mĩ và hướng vào chủ thể.
Đọc hiểu văn bản văn học là tìm hiểu những khả năng vận dụng ngôn ngữ
âm thanh khác nhau để lĩnh hội lí giải tính chân thực của văn bản văn học.
Đọc hiểu văn bản văn học là một hoạt động phân tích, tổng hợp phức tạp,
thông qua hoạt động đó nội dung ý nghĩa chứa đựng trong ngôn ngữ nghệ thuật
được thể hiện tập trung vào hình tượng văn học.
Đọc hiểu văn bản văn học là một hoạt động thể hiện năng lực tái tạo âm
thanh, năng lực nhận ra những đơn vị thống nhất về cú pháp tạo nên âm hưởng,
điệu tính thích hợp, đúng đắn với văn bản. Đọc văn bản nghệ thuật bao gồm những
kĩ năng đọc gắn liền với hiểu biết, ý nghĩa nội dung, những dấu hiệu đặc điểm ngôn
ngữ nhất định trong chức năng nghệ thuật của nó.
Đọc hiểu văn bản văn học không chỉ là việc tái tạo lại tài giỏi nguyên bản mà
còn cùng suy nghĩ tới mức tốt nhất để giữ lại những đặc sắc về nội dung và hình
thức nghệ thuật của nguyên tác VBVH bằng ngữ điệu và những đặc điểm ngữ âm
của người đọc. Cần lưu ý hình thành và xây dựng nhiều cách đọc, phát huy khả
năng sáng tạo của người đọc.
Như vậy đọc hiểu văn bản văn học chính là hoạt động đọc để giải mã các lớp
cấu trúc văn bản: giải mã lớp cấu trúc ngôn từ, lớp cấu trúc hình tượng và lớp cấu
trúc ý nghĩa. Trong quá trình giải mã đó, người đọc đã tiến hành hoạt động tìm
16
nghĩa. Nghĩa là cái không hiển thị rõ ràng trên câu chữ nên người đọc phải kết hợp
hoạt động cảm thụ với hoạt động tư duy nhằm kiến tạo ý nghĩa của văn bản. Đây

chính là một loại hoạt động sáng tạo của người đọc. Người đọc không chỉ xử lí các
mối quan hệ trong văn bản mà còn xử lí mối liên hệ giữa văn bản đang đọc với môi
trường văn bản xung quanh, với môi trường xã hội, thời đại.
* Hoạt động đọc hiểu văn bản văn học trong dạy học Văn ở nhà trường.
Hiện nay việc đọc hiểu văn bản văn học trong nhà trường trở thành vấn đề
thời sự. Có một bộ phận coi đọc hiểu chính là phân tích bản thân văn bản văn học
về hai phương diện tách bạch là nội dung và hình thức để xem xét giá trị của văn
bản. Bộ phận này có thể đọc hiểu được tới bề sâu của văn bản văn học nhưng thiếu
mối quan hệ sống động với ngữ cảnh, thời đại và cuộc sống. Có một bộ phận thiên
về xem xét, nghiên cứu tìm hiểu mặt xã hội trong văn bản văn học. Bộ phận này lại
không chú ý tới thế giới hình tượng, thông tin thẩm mĩ của văn bản văn học. Có
một bộ phận nghiêng về xem xét văn bản văn học đáp ứng thế giới tinh thần của
các em học sinh. Bộ phận này lại quá chú trọng tới bạn đọc học sinh. Bởi vậy, cần
có một sự thống nhất về quan niệm về bản chất hoạt động đọc hiểu văn bản văn
học.
Vì mọi sự đọc, dù động cơ đọc như thế nào (đọc giải trí, đọc nghiên cứu, học
tập, sử dụng,…), hình thức đọc ra sao đều không thoát li được việc tìm nghĩa văn
bản, cho nên mọi sự đọc đều là đọc hiểu. Khái niệm hiểu trong đọc văn bao hàm
một phổ rất rộng với nhiều thang bậc khác nhau, bắt đầu từ rung cảm, đồng cảm,
đến hiểu, thưởng thức thẩm mĩ, di dưỡng tinh thần…Xuyên suốt tất cả các khâu đó
là hiểu. Mọi hiệu quả tốt đẹp của văn học đều bắt nguồn từ hiểu mà ra.
Hiểu thông thường là nhận ra một cái gì bằng năng lực trí tuệ. Hiểu có nghĩa
là cảm thông. Về triết học, Gadamer, đại diện của Thông diễn học (còn gọi là Giải
thích học hiện đại), một khoa học lấy sự hiểu làm đối tượng nghiên cứu cho rằng
hiểu có các nội dung sau:
Hiểu bao gồm sự nhận ra, giải thích hoặc lí giải và áp dụng, các khía cạnh
này không tách rời nhau.
Hiểu không hạn chế vào tri thức về đối tượng, cũng không hạn chế vào chủ
quan như kinh nghiệm, tiên nghiệm, mà mở rộng chủ quan của mình tới những
chân trời mới, tự mở rộng bản thân mình.

Hiểu là hội ngộ, gặp gỡ, là hội thông, giao tiếp, cảm thông, hội nhập.
Từ đó, hiểu có một nội hàm rất rộng, nghĩa là sống, là ý thức của chủ thể
đang tác động tới cuộc sống. Hiểu văn tức là hiểu người, hiểu đời với tất cả mọi
khía cạnh của nó.
Đọc hiểu văn bản văn học được xem xét ở các mặt sau:
Về mặt kĩ thuật, ở phương diện khách quan của đọc hiểu, người đọc phải
nhận biết, hiểu được từ ngữ, câu, đoạn, các phương tiện tu từ, các mối liên kết văn
bản, làm nền tảng để hiểu văn bản. Người đọc phải biết phát hiện hệ thống kí hiệu
thẩm mĩ chung, truyền thống và đặc thù do nhà văn sáng tạo ra trong văn bản làm
17
cơ sở để hiểu ý tứ của văn bản. Đồng thời người đọc cũng phải tìm hiểu ngữ cảnh
của văn bản (văn cảnh và tình huống phát ngôn) để hiểu văn bản.
Ở phương diện chủ quan của đọc hiểu, vì văn bản có khoảng trống về ý
nghĩa, buộc người đọc phải kiến tạo ý nghĩa, do đó tính chủ quan rất đậm. Cơ sở để
suy đoán, là tầm đón nhận, tiền nhận thức, sự chờ đợi quy định cách hiểu nên mỗi
người đọc đều có cái riêng, cái chủ quan của mình khi đọc hiểu văn bản văn học.
Về mặt tâm lí, hiểu là người đọc cảm nhận được ý nghĩa của những kích
thích mà văn bản gợi lên cho mình, là tìm thấy câu trả lời mà mình đặt ra khi tiếp
xúc với văn bản, tự giải đáp được các nghi vấn do văn bản gợi lên. Hiểu là một quá
trình từ hiểu bộ phận tời hiểu được toàn thể, từ hiểu bề mặt tới hiểu được bề sâu.
Nói cách khác, đó là quá trình hiểu nghĩa và ý nhĩa của văn bản văn học.
Nghiã của bài thơ, câu thơ, câu văn là nội dung khách quan toát ra từ lời thơ,
lời văn. Đây là cái nền tảng của hình tượng nghệ thuật ngôn từ. Nói đến nghĩa tức
là nói đến phần thuần tuý văn bản.
Ý nghĩa của bài thơ là nói đến ý nghĩa khái quát, điển hình tức là nói đến quan
hệ của tác phẩm với những yếu tố ngoài tác phẩm.
Ý nghĩa phải toát ra từ nghĩa. Không hiểu nghĩa thì không nắm bắt được ý
nghĩa.
Thế giới hình tượng tác phẩm được xây dựng bằng nhiều chi tiết, nhưng không
phải chi tiết nào cũng có giá trị như nhau. Có những chi tiết quan trọng được xem

là yếu tố then chốt của tác phẩm, là điểm huyệt nối liền nhiều mối thần kinh của tác
phẩm. Những chi tiết, yếu tố đó được gọi là điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm.
* Nhân tố đối tượng giao tiếp của hoạt động giao tiếp và dạy đọc hiểu văn bản
văn học
Đọc hiểu văn học là một khoa học mà đối tượng là người đọc, người tiếp
nhận văn học, là việc hiểu tác phẩm trong khi đọc. Người đọc từ thế giới tác phẩm
đang đọc mà xây dựng một tác phẩm thứ haổctng tưởng tượng của mình đầy tính
sáng tạo.
Bạn đọc là một yếu tố không thể thiếu được để một văn bản văn học trở
thành tác phẩm văn học. Nếu không có bạn đọc, văn bản chỉ là bản thảo chết lưu
trong kho mà thôi, nó sẽ không có đời sống của một tác phẩm văn chương. Bạn đọc
với đúng nghĩa của nó, sẽ chịu tác động của các chức năng văn học: nhận thức, giáo
dục, thẩm mĩ. Nói cách khác, khi đọc tác phẩm, bạn đọc thu nhận được những
thông tin thẩm mĩ - những tri thức mọi mặt của cuộc sống mà tác phẩm đề cập tới
dưới hình thức mã hoá thành hình tượng văn học. Người đọc tự trưởng thành, phát
triển, nâng cao những tư tưởng, tình cảm, thái độ sống mang tính nhân văn, tốt đẹp
để rồi có những hành động phù hợp đáp ứng cuộc sống. Cùng lúc, những rung cảm,
xúc cảm cũng dần dần được trau giồi, bạn đọc biết xúc cảm thẩm mĩ trước cái đẹp,
cái thiện, loại trừ cái xấu, cái ác.
Căn cứ vào mục đích, có thể phân chia ra các loại người đọc khác nhau:
18
- Người đọc giải trí: Loại người đọc này thường đọc lướt, nắm cốt truyện,
nắm cái bên ngoài của tác phẩm, đánh giá nông cạn về tác phẩm.
- Người đọc phê bình, giới thiệu, biên tập văn học: Người tìm ở tác phẩm
những thông tin mới về cuộc sống, có những suy nghĩ về đời sống, về tư tưởng đạo
lí từ tác phẩm văn chương để viết phê bình, nhận xét.
- Người đọc chuyên nghiệp: Những người chuyên nghiên cứu, phê bình văn
học, nghiên cứu lí luận văn học; những người làm công tác giảng dạy văn học ở
nhà trường các cấp. Đây là loại người đọc lí tưởng có vận dụng những thao tác
nghề nghiệp nhất định.

- Loại người đọc đặc biệt: Các nghệ sĩ sáng tạo như nghệ sĩ đọc, nghệ sĩ
ngâm thơ. Người đọc này dựa vào trực giác nghệ thuật mạnh, dựa vào thiên tư, vào
năng khiếu là chính.
- Loại người đọc là học sinh: Loại bạn đọc phát triển, tức là thông qua đọc
văn, nhân cách của học sinh hình thành và phát triển. Với loại bạn đọc này, nhà
trường cung cấp từng loại tác phẩm theo các cấp học.
Dấu hiệu phát triển ở học sinh được thể hiện ở hai xu hướng vận động trong
quá trình đọc: Xu thế hướng vào khám phá thế giới nội tâm của chủ thể đọc là học
sinh; xu thế hướng vào sự nắm vững đối tượng thẩm mĩ (tác phẩm văn học). Cả
hai sự vận động này tác động qua lại lẫn nhau và trở thành dấu hiệu văn học ở học
sinh. Người đọc học sinh thể hiện sự cụ thể hoá và khái quát hoá hình tượng nghệ
thuật. Đó là biểu hiện khách quan đặc trưng của hoạt động đọc văn.
Đọc hiểu tác phẩm văn học là quá trình thâm nhập một bài văn. Qúa trình
thâm nhập một bài văn có thể khái quát lại như sau:
- Người đọc sử dụng tư duy tổng hợp để cảm thụ, nghĩa là vận dụng tổng
hoà những năng lực phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát trong quá trình đi từ
thấp đến cao, từ sai đến đúng, từ hiện tượng đến bản chất để xác định được chủ
đề và phát hiện ra đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm.
- Người đọc vận dụng nhiều năng lực tâm lí cảm thụ trong quá trình đi
vào tác phẩm. Qúa trình đó diễn ra qua nhiều giai đoạn mà bước cao nhất là xác
định được chủ đề tác phẩm.
- Người đọc tái hiện dần hình ảnh ở các bình diện 1,2,3,4 trong quá trình
đi đến bước xác định chủ đề và ý nghĩa khái quát về cuộc sống do tác phẩm đặt
ra. Hình ảnh này xuất hiện sớm muộn do năng lực chủ quan của người đọc.
- Để thâm nhập tác phẩm cần vượt qua bước khai thác, phân tích những yếu
tố hữu hình để nắm cho được những yếu tố vô hình của tác phẩm như một chỉnh
thể. Cần lĩnh hội tác phẩm bằng sức mạnh của cả kĩ thuật lẫn tâm hồn người
đọc.
- Người đọc luôn luôn phải loại trừ những ấn tượng chủ quan sai lệch về tác
phẩm, phân biệt được yếu tố trung hoà và yếu tố then chốt để xác định đúng đắn

chủ đề tác phẩm, và những gì là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn.
19
1.1.2. C s lớ lun ca c din cm
* Quan nim c din cm
c din cm l cỏch s dng ging c kốm theo cỏc yu t phi ngụn ng
nh iu b, nột mt, ỏnh mt khi c truyn t nhng ý ngh, t tng, tỡnh
cm ca tỏc gi gi gm trong tỏc phm v c nhng ý ngh, thỏi , tõm trng,
cm xỳc ca ngi c n vi ngi nghe.
c din cm l mt quỏ trỡnh, bao gm quỏ trỡnh tip nhn v quỏ trỡnh
thụng bỏo, truyn t vn bn vit thnh vn bn c. ú l quỏ trỡnh tỏi to,
chuyn i ni dung ý ngha ngh thut ca vn bn thnh õm thanh ngụn ng
vi tit tu, ng iu, nhp iu, tc , s ngng ngh v sc thỏi thm m, cm
xỳc thm m, v thỏi thm m ca ngi c. c din cm cũn bao gm quỏ
trỡnh ngụn ng v vn hc, quỏ trỡnh tõm lớ v s phm, quỏ trỡnh thụng tin v
giao tip.
c din cm l lm ni bt c im, cm xỳc thm m, i sng tinh thn
ca tỏc phm, to ra mi quan h xỳc ng riờng t ca ngi c vi tỏc phm.
Phng phỏp c din cm l phng phỏp tip nhn tỏc phm ngh thut
ngụn t mt cỏch sỏng to, ch yu bng s cm nhn trc tip tỏc phm. Phng
phỏp c din cm nhm giỳp cỏc em hc sinh ch ng:
- c thng thc vn bn ngụn t ca tỏc phm.
- Tri giỏc, quan sỏt, cm th th gii hỡnh tng ca tỏc phm, sỏng to li,
bin th gii hỡnh tng ca tỏc phm thnh hỡnh tng ca riờng mỡnh.
- Th nghim v phỏt huy nng khiu ngh thut, phỏt trin nng lc cm
th v rốn luyn cỏc k nng thng thc cm th tỏc phm.
* Bn cht c din cm
c núi chung v c din cm núi riờng l bin hỡnh thc ch vit ca vn
bn thnh hỡnh thc õm thanh ca ting núi, lm cho ngi nghe hiu c ý ca
ngi vit. Mun c c, trc ht ngi c phi bit c th ch m
ngi vit vn bn ó vit. Ch vit l mt phng tin ghi õm, nhng ch ghi

c mt cỏch rt khỏi quỏt. Ngi c khi c phi l thuc vn bn, khụng
c thờm bt cõu, ch, du chm, du phy. Tuy vy, s l thuc y khụng hn
ch kh nng sỏng to ca ngi c din cm. Bi vỡ ch vit khụng ghi c
ng iu, khụng ghi c hm ý ca cõu, on.
Vớ d khi c hai cõu th sau ca Nguyn ỡnh Thi:
Ngời ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lng thềm nắng lá rơi đầy
Câu thơ dựng chân dung ngời đi, bốn chữ đầu không ngoảnh lại khắc tả
một t thế, khắc tả một thái độ quyết dứt áo ra đi vì nghĩa lớn, phảng phất cái khẩu
khí hào hùng mà hào hoa của các tráng sĩ thuở trớc Nhất khứ hề bất phục hoàn
(một đi không trở lại). Câu thơ khoẻ mà mộng.
20
Câu dới lại dựng một bức tranh thu tuyệt tác giữa hồn ngời: Sau lng thềm
nắng lá rơi đầy. Sắc vàng thu nhuộm vàng cả câu thơ. Có nhiều cách cảm nhận
nhạc điệu của câu thơ này. Có ngời tách câu thơ theo nhịp 3/4 (Sau lng thềm/ nắng
lá rơi đầy). Nhịp thơ gợi hình ảnh bóng nắng, bóng lá trộn vào nhau

. Cái vô hình
hữu hình quyện vào nhau một cách h ảo, ớp vàng thềm phố Hà Nội. Nguyễn Đình
Thi lại tâm sự rằng ông chỉ muốn ngắt câu theo nhịp 4/3 (sau lng thềm nắng/ lá
rơi đầy). Cách ngắt nhịp này đã làm giảm đi rất nhiều vẻ thơ mộng của hình ảnh
bởi vì câu thơ hiện ra rõ ràng quá. Có ngời lại ngắt câu thơ này theo nhịp 2/2/3
(Sau lng/thềm nắng/ lá rơi đầy). Câu thơ gợi lên hình ảnh rất sinh động của một
chiếc lá thu đang bứt khỏi cành thu, khẽ xoay rồi chao nghiêng chao nghiêng
rồi nhẹ nhàng đặt khẽ lên hè phố

. Những câu thơ hay thờng cảm thụ khác nhau.
Đây là một câu thơ nh thế. Mùa thu vàng trong câu thơ bâng khuâng, ngập ngừng
rơi giữa tất cả các cách ngắt nhịp, ớp vàng lên thềm phố Hà Nội nh một mảnh hồn
tình vàng cô đơn mà đầy mơ mộng, gợi ta nhớ tới bức danh hoạ Mùa thu vàng

của Lêvitan (Nga) hoặc nhớ tới sắc vàng h ảo trong thơ Bích Khê:
Ô hay! Buồn vơng cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi! Thu mênh mang
(Tì bà hành)
Song cái hay của câu thơ dồn vài hai chữ sau lng. Hoá ra, bức tranh thu
trên kia không phải nhìn bằng mắt mà nhìn bằng tâm hồn tạo ra một mâu thuẫn
tuyệt vời. Ngời đi mà hồn vơng lại, tạo ra cái dùng dằng rất thật nên rất ngời, nặng
tình nặng nghĩa. Khổ thơ, câu thơ kết lại ở chữ đầy . Đấy là cái đầy thềm của lá
hay nỗi nhớ dâng đầy? Đoạn thơ kết thúc ở đúng cái cao trào của tình cảm.
Nguyễn Đình Thi nhận xét về những câu thơ này: Những câu thơ đầu tôi
viết về Hà Nội với nhiều cảm xúc và kỉ niệm. Ngời Hà Nội đi kháng chiến đều có
những tình cảm nh thế với mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc. Hà Nội vào thu,
khung cảnh thiên nhiên rất đẹp, nhng chiến tranh đã tạo ra những cảnh tợng
không bình thờng (Chân dung tự ho).
c din cm cú th phõn chia thnh hai giai on. Giai on I l c hỡnh
tng, cũn gi l giai on c v ngha, hiu ngha vn bn - c gii mó cu
trỳc ngụn t, cu trỳc hỡnh tng v cu trỳc ngha. Thc cht l tri giỏc vn bn
hỡnh tng, c ra ý ngha ca hỡnh nh bng s cm thụng th nghim, tng tri
vn hoỏ, bng s tin nhn thc. Giai on ny ch yu l c cỏ nhõn. Nu nh
trng, giai on ny cú s hng dn ca giỏo viờn, cú s hp tỏc ca tp th
nhúm, lp. Giai on II l c din cm. c vn bn ngụn t ngh thut phi c
bit chỳ ý n t, cõu, nhp iu, õm hng, sc thỏi ging c, phi kớch thớch trớ
tng tng v gõy c xỳc ng tỡnh cm c ngi c ln ngi nghe.
c din cm cú th c xem nh mt ngh thut cú c im riờng, khụng
lp li ngi khỏc. c din cm ghi m du n sỏng to cỏ nhõn ca ngi c.
21
Đọc như thế sẽ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở những mĩ cảm ngôn ngữ
văn học, và khả năng biểu diễn (cách sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ đi kèm
khi đọc). Lối đọc này sẽ có sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe, làm sáng tỏ thêm
nội dung, ý nghĩa của tác phẩm văn học. Đọc diễn cảm có khả năng bộc lộ những

thiên tư, những phẩm chất cá nhân của người đọc.
Đọc diễn cảm chính là một hình thức đọc đặc biệt của đọc văn, nó có sự
tham gia, hỗ trợ của những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ,
giọng điệu, ngữ điệu, âm sắc, màu sắc cảm xúc cá nhân. Những văn bản được đưa
vào chương trình phân môn Văn là văn bản văn học mà hệ thống ngôn ngữ của nó
được tổ chức chặt chẽ theo các quy luật của tư duy nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ
thuật. Tác phẩm văn học là tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, đọc diễn cảm tác phẩm
văn học là bước vào lĩnh vực nghệ thuật - nghệ thuật trình tấu hệ thống hình
tượng, âm thanh của tác phẩm văn học. Do đó, đọc diễn cảm là một nghệ thuật.
Khái quát lại, bản chất của đọc diễn cảm là một hoạt động lao động sáng
tạo, là một hoạt động mang tính nghệ thuật cao để truyền đạt mọi cái hay của tác
phẩm văn học cho người nghe, phát huy được mọi khả năng tiềm ẩn của tác phẩm
cũng như trí ttưởng tượng phong phú của người nghe, gây xúc động cả người
nghe lẫn người đọc. Đọc diễn cảm là một phương pháp sư phạm, một khoa học.
* Phân biệt đọc diễn cảm trong nhà trường với đọc nghệ thuật (trình diễn)
Đọc nghệ thuật (trình diễn) thiên về biểu diễn, tác động cùng lúc vào thính
giác, vào thị giác của người nghe

: Đọc không nhìn vào văn bản, có sử dụng nhiều
yếu tố phi ngôn ngữ: động tác, cử chỉ nhiều. Đọc trình diễn có rất nhiều trường
phái, da dạng. Người nghe không chỉ được nghe mà còn được nhìn để thưởng
thức cách trình diễn. Không khí trình diễn cũng hỗ trợ người đọc người xem.
Trong khi đó, đọc diễn cảm lại có nhìn vào văn bản, sử dụng ngữ điệu là chính,
các yếu tố phi ngôn ngữ là phụ, chỉ hỗ trợ, biểu hiện chủ yếu qua nét mặt, ánh mắt
khoé miệng.
Đọc diễn cảm chủ yếu là sử dụng ngữ điệu, tác động vào thính giác của
người nghe

. Đọc diễn cảm có đối tượng riêng là học sinh học Văn trong nhà
trường. Phương pháp đọc diễn cảm được xem xét đồng thời từ góc độ thích hợp

với từng tác phẩm cụ thể, có tính đến thể loại, khuynh hướng văn học, thế giới
quan, tư tưởng, phong cách nghệ thuật của tác giả, từ góc độ sư phạm (ý nghĩa
giáo dục) của những tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy, sự tiếp nhận
đối với từng lứa tuổi học sinh.
Trong giờ học Văn, nhà trường không yêu cầu đọc nghệ thuật (trình diễn)
các tác phẩm văn chương. Trong các chương trình ngoại khoá Văn học - tiếng
Việt hoặc văn nghệ, các em học sinh có thể sử dụng hình thức đọc trình diễn.
1.1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ của đọc diễn cảm
22
Ngụn ng l mt h thng tớn hiu õm thanh c bit, l phng tin giỏo
tip c bn v quan trng nht ca cỏc thnh viờn trong mt cng ng ngi;
ngụn ng ng thi cng l phng tin phỏt trin t duy, truyn t truyn thng
vn hoỏ - lch s t th h ny sang th h khỏc.
* Chc nng ca ngụn ng v c din cm
Ngụn ng cú hai chc nng c bn l chc nng giao tip v t duy. Chc
nng lm cụng c t duy ca ngụn ng th hin hai im sau:
Ngụn ng l hin thc trc tip ca t tng. Khụng cú mt t no, cõu no
m li khụng biu hin khỏi nim hay t tng. Ngc li, khụng cú mt ý ngh,
t tng no khụng tn ti di dng ngụn ng.
Ngụn ng trc tip tham gia vo quỏ trỡnh hỡnh thnh t tng. Mi ý ngh,
t tng ch tr nờn rừ rng khi c biu hin ra bng ngụn ng. Nhng ý ngh
cha biu hin ra c bng ngụn ng ch l nhng ý ngh cha rừ rng, phn ỏnh
cỏi hiu l m ch cha hiu bit thc s.
T mi quan h gia ngụn ng v t duy, cho thy hot ng ngụn ng
trong c din cm gn lin vi t duy tỡm tũi, phỏt hin cỏi mi. T duy sỏng
sa, sỳc tớch c th hin bng ngụn ng li ớt ý nhiu, cụ ng d ba, hm sỳc.
c bit l trong ngụn ng vn chng, ngụn ng cú nhng cỏch t chc c bit
cha ng thụng tin thm m. Hot ng ngụn ng trong c din cm phi gn
lin vi t duy gii mó cõu ch trong vn bn vn hc, tỡm ra nhng ý hm
ngụn, nhng tng ý ngha ca hỡnh tng.

T duy khỏi nim v t duy hỡnh tng cú mi liờn h vi nhau, nú cú liờn
quan ti mt quỏ trỡnh hon rt quan trng trong quỏ trỡnh sỏng to, ú l s tng
tng. c din cm, ngi c v ngi nghe cn hiu sõu sc, cú trớ tng
tng phong phỳ xõu chui cỏc khỏi nim m liờn tng, tng tng.
Vớ d:
đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Hai chữ về - lên tập trung năng lợng nghệ thuật của đoạn thơ ngắn. Về
gợi ra một chiều dài không gian. Chiều dài ấy có thể là từ Nam chí Bắc, từ Đông
sang Tây, từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Lên gợi ra một chiều cao: từ đáy
thung lũng hay đáy biển sâu lên đến những đỉnh núi ngất thiêng của đất nớc.
Trông về là cái thế đứng của ngời từ xa, xuyên suốt muôn dặm đờng xa dài theo
đất nớc. Nhìn lên là cái thế đứng của những ngời dới đáy vơn lên đến những tầm
cao bay bổng tuyệt vời.
23
Hai câu thơ đã bao quát cả không gian, có bề sâu, bề rộng, bề dài, bề cao.
Đó mới là cái lớn lao, sâu sắc của hình tợng Việt Bắc trong tấm lòng ngời dân Việt
Nam ở khắp mọi miền.
Từ hình tợng Việt Bắc ấy gợi liên tởng. Trong phạm vi bốn câu này, vấn đề
liên tởng lại không nằm ở địa điểm Việt Bắc mà là ở những nơi xa Việt Bắc.
Những nơi ấy lại hiện ra trớc mắt ta cả bề mặt lẫn bề sâu. U ám quân thù là
quang cảnh hiện hữu, là những vùng trời đất tối tăm, bóng dáng kẻ thù che lấp
cuộc đời và ánh sáng. Đau đớn giống nòi lại là một hình ảnh sâu lắng một cái gì
không nhìn ra đợc cụ thể nhng lại thấm thía cả một nỗi niềm. Chỉ bằng một số
hình ảnh, nhà thơ đã đa ta vào cả một thế giới vừa bao la vừa sâu rộng có cả cuộc
sống bên ngoài và cuộc sống bên trong.
Hình tợng Việt Bắc đợc xây dựng trong bốn câu thơ này tht giu ý ngha:
Việt Bắc là thủ đô kháng chiến là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến chống

Pháp, nơi có Cụ Hồ, có Trung ơng Đảng và Chính phủ đóng đại bản doanh trong
kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta trong mời lăm năm ấy đã trở thành niềm
tin của cách mạng. Đó là những câu thơ viết về Việt Bắc hay nhất, có sức khái
quát và truyền cảm xúc, lay động lòng ngời.
* Tớnh hỡnh tng ca ngụn ng vi c din cm
Bn thõn ngụn ng cú tớnh khỏi quỏt, tớnh hỡnh tng rt cao. Ngi sn sinh
vn bn vn hc ó dng cụng chn la ngụn t din t cỏi mỡnh mun gi
gm, th hin. Ngi c cn gii mó ngụn ng vn hc trong tỏc phm, c c
ý ca tỏc gi trong tỏc phm. Cú khi bn thõn mi t ng ó mang trong nú
tớnh tng hỡnh: ng nh, ung dung, heo hỳt, cheo leo, Khi sỏng to tỏc phm,
mi tỏc gi vi trớ tng tng, vi s la chn ngụn t ca mỡnh li kt hp cỏc
t ng y vi nhau theo quy tc cỳ phỏp nht nh to nờn nhng hỡnh tng
mi cỏc cp khỏc nhau. Trong lnh vc c din cm, ngi c v ngi
nghe cn cú s liờn tng, tng tng phong phỳ. Vi kh nng to ra nhng
hỡnh tng cm tớnh hoc lớ tớnh mi ttrong ý thc ca con ngi trờn c s ci
to nhng n tng do hin thc em li, tng tng l mt quỏ trỡnh tõm lớ
phn ỏnh nhng cỏi cha tng cú trong kinh nghim cỏ nhõn bng cỏch xõy dng
nhng hỡnh nh mi trờn c s nhng biu tng ó cú (Phm Minh Hc). Trờn
c s tớnh hỡnh tng ca ngụn ng trong tỏc phm vn hc, ngi c tng
tng tỏi to li i sng trong tỏc phm, ngha l hỡnh dung li xỏc nh i
tng nhn thc. ú cng l hot ng u tiờn khi ngi c hc sinh tip xỳc
tỏc phm vn hc trong nh trng. Tip theo l tng tng sỏng to, õy l quỏ
trỡnh xõy dng hỡnh nh mi mt cỏch c lp. Nhng hỡnh nh c xõy dng
c coi l mi vi c bn thõn ngi tng tng v vi xó hi. Lỳc ny, tng
tng ca c din cm c coi l s cm th mang mu sc cỏ nhõn ca ngi
c hoc ngi nghe.
24
Vớ d v bi th Tõy Tin:
Nỗi nhớ đợc diễn tả bằng cảm hứng lãng mạn đặc sắc. Bài thơ lúc đầu có tên
là Nhớ Tây Tiến , sau này Quang Dũng đã bỏ đi chữ nhớ vì sợ thừa và quan

trọng hơn là sợ làm lộ đề và hẹp nghĩa. Còn lại Tây Tiến chắc, khoẻ, hào hùng và
nỗi nhớ cứ dâng sóng khắp bài thơ.
Bốn câu mở đầu là lớp sóng đầu tiên của nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sơng lấp đoàn quân mỏi
Mờng Lát hoa về trong đêm hơi .
Nỗi nhớ mở ra bằng một tiếng gọi bâng khuâng da diết, âm ơi đợc láy lại
ba lần và ba chữ ơi, vơi, chơi nối tiếp nhau tạo thành một chuỗi âm hởng vọng
dài, toả lan vời vợi. Có cảm giác tiếng gọi vọng ra từ những vách đá núi rừng Tây
Bắc, nhấc bổng thi sĩ khỏi hiện tại, để lửng lơ trong nỗi nhớ khôn cùng.
Những tên địa danh cũng làm cồn lên nỗi nhớ. Trong bài thơ Tây Tiến, những
địa danh cũng có một sức gợi cảm đặc biệt mang một chất thơ bí ẩn mà hoang dại
của Tây Bắc. Những địa danh này không phải là những cái tên vô hồn, vô cảm mà
là xơng máu đời lính, tâm hồn ngời lính. Đúng nh một nhà thơ đơng thời đã viết:
Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc
Thơ Quang Dũng cũng thế sông Mã , Tây Tiến , Sài Khao , M ờng Lát đã đột
ngột đánh thức kí ức, dựng kí ức thành những ấn tợng cụ thể, sinh động và Tây
Bắc hiện lên, quá khứ hiện lên từ hai phía. S ơng lấp là những gian khổ buốt giá,
hoa về là phía mơ mộng, dịu dàng. Hình ảnh hoa lại trôi trong câu thơ năm
thanh bằng liền mạch gợi một nét nhạc quyến rũ, lâng lâng làm dịu đi cái mệt mỏi
trong tâm hồn ngời lính. Quả là ngòi bút Quang Dũng có một năng lực hồi sinh
quá khứ. Nói đúng hơn chính là nỗi nhớ mãnh liệt đã tái sinh quá khứ trong hiện
tại. Nhà thơ trực tiếp đối diện với Tây Bắc. Ngời đọc thơ trực tiếp đối diện với Tây
Tiến. Ngôn ngữ nghệ thuật của Quang Dũng đã có năng lực đồng biến giữa quá
khứ và hiện tại.
Và Tây Bắc đã hiện lên trong những câu thơ tiếp theo. Nỗi nhớ của thi nhân
cũng vơn theo một vùng núi non hùng vĩ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thớc lên cao ngàn thớc xuống
Nhà ai Pha Luông ma xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bớc nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời .
Đoạn thơ gây ấn tợng rất mạnh về Tây Bắc. Bút pháp lãng mạn của Quang
Dũng đã xây đắp hình ảnh núi non bằng nhạc, bằng hoạ.
25

×