Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận án tiếng việt thơ khuê phụ đời đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.3 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Trải hơn một ngàn năm lịch sử, đã có biết bao công trình nghiên cứu,
khám phá cái hay, cái đẹp của thơ Đường nhưng thơ Đường vẫn là một thế giới
còn nhiều điều bí ẩn, vẫn luôn tràn đầy sinh lực và hấp dẫn. Lựa chọn nghiên
cứu đề tài này chúng tôi mong muốn khám phá thêm một vùng đất màu mỡ còn
ẩn chứa nhiều điều thú vị trong thế giới rộng lớn của Đường Thi.
1.2. Mảng thơ khuê phụ ở Trung Quốc đã được quan tâm nghiên cứu
nhưng đến nay chưa hoàn toàn thống nhất về tên gọi, về nội hàm khái niệm, vì
vậy vẫn còn một vài điểm trống khoa học cần bổ sung. Mặt khác, nghiên cứu
sâu về mảng thơ khuê phụ này sẽ góp phần giúp độc giả yêu thơ Đường có cái
nhìn đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về diện mạo phong phú của Đường thi.
1.3. Việt Nam cũng như một số dân tộc phương Đông có mối quan hệ mật
thiết với nền văn hóa Trung Hoa, trong quá trình xây dựng ngôn ngữ thơ ca của
mình đều ít nhiều tiếp thu ảnh hưởng của thơ Đường. Vì vậy, nghiên cứu mảng
thơ này cũng có cơ sở để nghiên cứu sâu hơn mảng thơ cùng đề tài trong văn
học Việt Nam.
1.4. Hiện nay, thơ Đường vẫn được giảng dạy trong chương trình đại học,
cao đẳng và THPT ở Việt Nam. Với việc thực hiện đề tài này chúng tôi hy vọng
sẽ bổ sung một lượng kiến thức nhất định về thơ Đường, đặc biệt là về đề tài
của thơ Đường cho thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy thơ Đường trong các nhà
trường hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Kiến giải những nhân tố đặc thù tạo nên sự hưng thịnh của thơ khuê
phụ đời Đường.
2.2. Nghiên cứu những đặc trưng nổi bật về nội dung và nghệ thuật của
mảng thơ khuê phụ để khẳng định vị trí và dấu ấn đặc biệt của mảng thơ này
trong toàn cảnh thơ Đường.
2.3. Khẳng định sự trưởng thành và tiến bộ trong nhận thức và tình cảm
của thi nhân đời Đường về con người và cuộc đời qua việc khám phá thế giới


nội tâm với nhiều khát vọng và ẩn ức của những người khuê phụ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
3.1. Khuê phụ là một đề tài xuất hiện sớm trên thi đàn thơ cổ Trung Hoa.
Cũng như các đề tài khác nó đặc biệt hưng thịnh ở đời Đường. Rất nhiều nhà
thơ nổi tiếng thời kỳ này như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Xương
Linh…đã lấy khuê phụ làm đề tài sáng tác, tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.
Do đó, để nhận biết sâu sắc diện mạo thơ Đường không thể không tìm hiểu
mảng thơ đặc biệt này.
3.2. Nghiên cứu mảng thơ khuê phụ đời Đường có thể thấy được sự đột
phá về mặt nhận thức, chiều sâu tư tưởng, tình cảm nhân đạo của những nhà thơ
cổ điển sống cách chúng ta hơn một ngàn năm.
2
Mặt khác, ở mảng thơ này ít có chủ thể trữ tình trực tiếp, chủ yếu là chủ
thể trữ tình nhập vai “nam tử tác khuê âm” (nhà thơ nam viết thay lời người
phụ nữ chốn khuê phòng). Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều trường hợp
tương tự, việc phân tích mảng thơ này có thể gợi ý cho việc phân tích những tác
phẩm có nét tương đồng ở Việt Nam.
3.3. Khi cuộc sống của con người hiện đại càng nhiều “ưu tư” thì những
“ưu tư” của những người khuê phụ càng tìm được sự đồng cảm, sẻ chia. Do đó
tìm hiểu cuộc sống của người phụ nữ thời xưa qua mảng thơ khuê phụ đời
Đường cũng là một cách chiêm nghiệm những giá trị cuộc sống nhân sinh.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi văn bản khảo sát:
Về phạm vi của thơ khuê phụ, chúng tôi có dựa trên cách khái niệm hóa
từ khuê phụ (闺妇). Ở đây, hình tượng nhân vật khuê phụ không chỉ chung phụ
nữ mà là những người phụ nữ đã có chồng (người vợ). Nét đặc trưng của nhân
vật là thế giới nội tâm phong phú, tinh tế với tình điệu chính là buồn thương ai
oán. Nguyên nhân sâu xa của những tâm tình nơi khuê phòng ấy là hoàn cảnh
vợ chồng ly biệt hoặc người phụ nữ bị chồng phụ bạc bỏ rơi, phải một mình cô
quạnh nơi phòng vắng.

Trong giới hạn đề tài, chúng tôi tổng hợp khảo cứu được 234 bài thơ về
hình tượng khuê phụ, từ các tuyển tập thơ Đường được tuyển chọn và dịch ở
Việt Nam. Ngoài ra, từ gợi ý của một số chuyên luận nghiên cứu liên quan đến
mảng thơ này chúng tôi có tham khảo thêm một số bài từ nguyên tác tiếng Hán
trong Toàn Đường thi (Bành Định Cầu).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu tổng thể thơ khuê phụ rất rộng, là việc làm công phu, vì vậy
chúng tôi chỉ tập trung vào những vấn đề rất cơ bản như:
- Nội dung tư tưởng chủ đạo của thơ khuê phụ qua việc “giải mã” nét đặc
trưng của chủ thể trữ tình và nhân vật trong thơ.
- Đặc trưng hình thức nghệ thuật của thơ khuê phụ trong tính cách là một
mảng đề tài của thơ Đường.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện Luận án này dựa trên sự phối hợp của hai cách tiếp
cận: thi pháp học và văn hóa, trong đó cách tiếp cận từ thi pháp học là chủ đạo.
Đồng thời chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
6. Cấu trúc của Luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
phần nội dung chính của Luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
3
Chương 2: Sự hưng thịnh của thơ khuê phụ đời Đường
Chương 3: Chủ thể trữ tình trong thơ khuê phụ đời Đường
Chương 4: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong thơ khuê phụ đời Đường
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Nghiên cứu thơ khuê phụ ở Trung Quốc
1.1.1. Về tuyển thơ
Việc nghiên cứu thơ khuê phụ đã bắt đầu manh nha từ thời Đường, thông
qua việc tuyển thơ – phương pháp nghiên cứu nguyên thủy nhất của Đường thi
học. Trong các tuyển tập thơ Đường dù lớn hay nhỏ đều ít nhiều có tuyển thơ
khuê phụ, cố nhiên chỉ là những bài thơ riêng lẻ như là dẫn chứng tiêu biểu cho
một thể thơ, một giai đoạn hay một nhà thơ cụ thể nào đó. Sau này việc biên
tuyển càng cụ thể, phong phú hơn, hoặc theo thể thơ hoặc theo đề tài, giai đoạn
phát triển, theo nội dung, theo tác giả…, mỗi cách đều có mặt những bài thơ
khuê phụ nổi tiếng. Như vậy, các biên tuyển có thể tạo “hạ tầng cơ sở” cho việc
nghiên cứu nội dung và nghệ thuật thơ.
1.1.2. Về tên gọi
Mảng thơ viết về nhân vật khuê phụ thường được gọi là thơ khuê oán (nỗi
oán trong phòng khuê), cũng có người gọi là khuê tình (tình cảm nơi khuê
phòng), cũng có người giới hạn trong khái niệm tư phụ (người vợ nhớ nhung).
Cách gọi tên như vậy cũng chỉ là tương đối, vì tâm sự của người nơi khuê
phòng không chỉ có tư, không chỉ có oán, trong nỗi nhớ nhung đã chất chứa bao
nhiêu nỗi sầu, đã đầy oán giận và trong mỗi lời oán than cũng gửi bao nỗi
nhớ… Nhiều bài thơ được xếp vào thơ khuê oán lại được dẫn chứng khi bàn về
thơ tư phụ hay thơ khuê tình và ngược lại. Do đó, để thống nhất và xâu chuỗi
những bài thơ miêu tả hình tượng nhân vật khuê phụ (những người vợ cô đơn
nơi khuê phòng) chúng tôi khu biệt mảng thơ này với những mảng đề tài khác
trong thơ Đường bằng hình tượng nhân vật chính (người khuê phụ): Thơ khuê
phụ.
1.1.3. Về nội dung và nghệ thuật
Bàn đến nội dung và nghệ thuật của những bài thơ về hình tượng nhân vật
khuê phụ trong tư cách là một mảng đề tài riêng đầu tiên là Đường Nhữ Tuần
(đời Minh) trong cuốn Đường thi giải. Mặc dù không bàn đến đặc trưng nội
dung và nghệ thuật hoặc các đối tượng cụ thể của mảng thơ nhưng các nhận
định và chú giải của tác giả về các bài thơ tiêu biểu đã mang đến những hình

dung sơ bộ về diện mạo của mảng thơ này.
Từ sau Ngũ Tứ, phương pháp khoa học mới tràn vào Trung Quốc, giới
nghiên cứu dần dần thoát khỏi việc phê bình kiếu ấn tượng thời kỳ trước, bắt
tay vào chỉnh lý, biên tập tài liệu một cách hệ thống. Từ đây, có nhiều luận văn
khoa học và chuyên luận nghiên cứu sâu, rộng hơn về thơ Đường, cả dưới góc
tiếp cận liên ngành.
4
Một là, các bài viết tổng hợp về cuộc sống của người phụ nữ trong thơ
Đường, trong đó cũng đề cập đến cuộc sống (nhất là cuộc sống tinh thần) của
những người phụ nữ chốn khuê phòng. Tuy nhiên, các bài viết này mới tổng
hợp hình ảnh người phụ nữ dưới thời nhà Đường thông qua thơ Đường từ góc
nhìn vĩ mô, còn những thiếu thốn, mất mát của của họ trong cuộc sống riêng tư
hay những nhu cầu khát vọng cá nhân của họ chưa được bàn đến một cách thấu
đáo. Có một số chuyên luận nghiên cứu đã trực tiếp bàn về các vấn đề liên quan
đến nội dung, nghệ thuật của thơ khuê phụ dưới tên gọi khá phổ biến là thơ
khuê oán, tuy nhiên các công trình nghiên cứu chỉ chủ yếu khám thơ khuê phụ ở
phương diện khách thể, chưa đi sâu lý giải từ phương diện chủ thể, nhất là chủ
thể trữ tình nhập vai – một đặc trưng thi pháp của mảng thơ này.
1.1.4. Về các nhà thơ tiêu biểu của thơ khuê phụ
Hình tượng nhân vật khuê phụ đã đi vào sáng tác của rất nhiều nhà thơ
đời Đường, cũng làm nên nhiều tác phẩm có giá trị trong sự nghiệp thơ ca của
những nhà thơ ấy. Vì vậy, khi tìm hiểu về các nhà thơ tiêu biểu đời Đường, các
nhà nghiên cứu không thể không nhận ra vị trí của những bài thơ thuộc mảng đề
tài này trong số những tác phẩm của họ. Từ những tư liệu tiếp cận được, chúng
tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu thơ Đường đều có quan điểm khá thống nhất:
Một là số lượng nhà thơ sáng tác thơ khuê phụ khá nhiều, từ thời Sơ Đường đến
thời Vãn Đường đều có nhà thơ nổi tiếng sáng tác đề tài này và để lại những tác
phẩm có giá trị. Trong đó, nhà thơ có số lượng thơ khuê phụ nhiều nhất và
thành công nhất là Lý Bạch và Bạch Cư Dị.
Mặc dù chỉ là những nhận định riêng lẻ, không mang tính hệ thống, khái

quát nhưng những nghiên cứu này đã giúp người đọc có cái nhìn sâu và toàn
diện hơn về mảng thơ khuê phụ đời Đường.
1.2. Nghiên cứu thơ khuê phụ ở Việt Nam
1.2.1. Về tuyển thơ
Cũng như ở Trung Quốc, hiện nay ở Việt Nam chưa có một tuyển tập thơ
nào về riêng đề tài khuê phụ. Những bài thơ khuê phụ chỉ có mặt trong các
tuyển tập thơ Đường tiêu biểu, gắn với một thể thơ, một nhà thơ cụ thể. Tuy
nhiên, hầu hết những bài thơ khuê phụ nổi tiếng nhất đã được dịch và giới thiệu
ở Việt Nam. Trong phạm vi tư liệu hiện có, chúng tôi thống kê có 95 bài thơ về
hình tượng nhân vật khuê phụ trong thơ Đường đã được dịch và giới thiệu ở
Việt Nam. Sự có mặt của những bài thơ khuê phụ trong các tuyển tập thơ tiêu
biểu ở Việt Nam đã góp phần khẳng định vị trí của mảng thơ này trong thế giới
thơ Đường.
1.2.2. Về nội dung, nghệ thuật thơ khuê phụ:
Thơ Đường vào Việt Nam rất sớm và được chú ý từ những ngày đầu có
mặt ở Việt Nam, minh chứng là dấu vết đậm nét của nó trong sáng tác của các
nhà thơ Trung đại Việt Nam. Từ thời Lý Trần đã xuất hiện Khuê oán (Trần
Nhân Tông) với chủ đề, mô tip, hình ảnh đặc trưng của những bài thơ khuê phụ
đời Đường, sau này có Thu thanh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều của
5
Nguyễn Du. Đặc biệt là Đặng Trần Côn, chúng tôi cho rằng đây là người đầu
tiên nghiên cứu mảng thơ khuê phụ đời Đường một cách sâu, rộng nhất ở Việt
Nam. Bởi vì, nếu không nghiên cứu kỹ làm sao nhà thơ có thể tiếp nhận một
cách sáng tạo thơ cổ Trung Hoa, nhất là thơ Đường để viết nên khúc ngâm
chinh phụ bất hủ. Theo đó, chúng tôi cũng nhận định rằng, các nhà nghiên cứu,
giới học giả sau này khi nghiên cứu chú thích, bình giải cho Chinh phụ ngâm
cũng chắc chắn đã tìm hiểu kỹ mảng thơ khuê phụ trong kho tàng thơ ca cổ điển
Trung Quốc. Như Phan Huy Chú, Lại Ngọc Cang, Đặng Thai Mai …Nhất là
gần đây, trong công trình nghiên cứu khá đầy đặn về mối quan hệ giữa Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn và thơ ca cổ Trung Quốc, Giáo sư Nguyễn Khắc

Phi đã nghiên cứu khá kĩ lưỡng và công phu thơ ca cổ Trung Quốc, trong đó có
mảng thơ khuê phụ đời Đường này. Bởi như đã nói ở trên, vì nghiên cứu rất kỹ
nên tác giả đã hiểu rõ vì sao cùng miêu tả chiến tranh khá nhiều mà thơ Đỗ Phủ,
Bạch Cư Dị để lại dấu ấn trong khúc ngâm ít hơn nhiều so với thơ Lý Bạch. Do
vậy, dù không trực tiếp bàn về mảng thơ khuê phụ đời Đường, nhưng những tài
liệu nghiên cứu về Chinh phụ ngâm trên đây của các nhà nghiên cứu Việt Nam
đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quý giá cho việc thực hiện đề tài luận
án này.
Ngoài ra, nội dung và nghệ thuật của thơ khuê phụ cũng thường được
nhắc đến trong các phần giới thiệu khái quát về thơ Đường, về các tác giả cụ thể
trong các tuyển tập thơ. Một số chuyên luận nghiên cứu như của Mai Thị Thanh
Loan (2006) với đề tài Biệt ly trong thơ Đường cũng có bàn đến một số bài thơ
miêu tả nỗi niềm ly biệt của vợ chồng; Luận văn thạc sỹ của tác giả Nông Thị
Nhâm (2009) nghiên cứu trực tiếp về Thơ khuê oán đời Đường đã bàn luận đến
một vài khía cạnh nội dung, nghệ thuật của thơ khuê oán đời Đường nhưng mới
khám phá ở phương diện khách thể - nhân vật trong thơ và trong phạm vi khảo
cứu 45 bài thơ đã dịch ở Việt Nam.
1.2.3. Bàn về thơ khuê phụ trong sáng tác của một số nhà thơ tiêu biểu
đời Đường
Cũng như ở Trung Quốc, các bài thơ khuê phụ thường được bàn đến khi
nghiên cứu về các nhà thơ cụ thể. Các học giả đều nhận định: Những bài thơ
khuê phụ là một trong những đề tài sáng tác thể hiện rõ nhất tinh thần nhân đạo,
nhân văn sâu sắc của các nhà thơ. Và một trong những đại diện tiêu biểu nhất
cho đề tài thơ này là nhà thơ Lý Bạch.
Việc nghiên cứu thơ Đường ở các nước phương Tây như Nga, Mỹ hay
ở các quốc gia Châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc khá phát triển, nhưng vì
một số hạn chế nhất định, đến nay chúng tôi chưa thể tiếp cận được với những
tư liệu nghiên cứu về mảng thơ khuê phụ trong thơ Đường ở những kho tư liệu
này.
Chương 2

SỰ HƯNG THỊNH CỦA THƠ KHUÊ PHỤ ĐỜI ĐƯỜNG
6
2.1. Xã hội thời Đường với sự phát triển hưng thịnh của thơ khuê phụ
2.1.1. Bối cảnh xã hội hình thành hiện tượng “khuê phụ”
2.1.1.1. Chiến tranh, binh luật và người chinh phụ dưới thời nhà Đường
Chinh phụ dưới thời nhà Đường có số lượng rất lớn, nguyên nhân chủ yếu
là do chiến tranh liên miên, kéo dài suốt mấy trăm năm thống trị của nhà
Đường. Có chiến tranh thì không thể tránh khỏi đòi hỏi phải có nhiều binh sĩ, từ
thời Đường Thái Tông đến thời Cao Tông, số binh sĩ mà chính quyền nhà
Đường điều động lến tới con số hàng trăm vạn. Chiến tranh và chế độ quân sự
độc tài là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời một số lượng lớn những người
vợ bính lính (chinh phụ) phải sống trong cảnh cô đơn, góa bụa dưới thời nhà
Đường. Những lời than thở thống thiết của chinh phu – chinh phụ không còn
giới hạn trong phạm vi gia đình, nó là câu chuyện của xã hội nhà Đường. Cố
nhiên, nó cũng trở thành một câu chuyện trong thi ca.
2.1.1.2. Sự phồn vinh của kinh tế nhà Đường và những người vợ của
thương nhân
Sự phồn hoa của các đô thị mới, sự hưng thịnh của công thương nghiệp
dân gian cho thấy hoạt động giao thương, buôn bán vô cùng tấp nập, sầm uất
dưới thời nhà Đường. Do vậy, thời kỳ này số lượng thương nhân - người làm
nghề buôn bán cũng rất đông đảo, không chỉ có tầng lớp quý tộc quan lại, địa
chủ lớn mà còn bao gồm tầng lớp tiểu thương - những người buôn bán nhỏ.
Lãnh thổ nhà Đường rộng lớn, núi sông cách trở, giao thông khó khăn khiến
khách buôn xa hàng tháng, thậm chí hàng năm vẫn chưa được về nhà, cũng khó
có một dòng tin nhắn gửi. Vì thế, những người vợ của họ, dù có thể ít phải chịu
sự thiếu thốn về vật chất nhưng lại phải chịu sự dằn vặt, đau khổ về tinh thần.
Người chồng ở ngoài hết năm này tháng khác, còn vợ, một mình giữ phòng
không, cô đơn, sầu tủi, chưa kể thương nhân lại vốn là những người “trọng lợi
khinh ly biệt”, khiến họ không chỉ phải chịu nỗi khổ tương tư mà còn chịu sự
dày vò thấp thỏm, lo sợ bị chồng phụ bạc, bỏ rơi. Đó không chỉ là câu chuyện

của một gia đình, đó cũng là hiện tượng đáng chú ý của xã hội đương thời.
2.1.1.3. Quan điểm danh lợi, phong khí du ngoạn dưới thời Đường và
những người vợ của du tử, sĩ tử, quan lại
Cũng có hoàn cảnh tương tự như những người vợ chinh nhân, thương
nhân, những người vợ có chồng làm quan nơi xa, vợ của những sĩ tử ham mê
khoa cử, vợ của những chàng du tử (những người đi du ngoạn tứ phương)
phải một mình cô quạnh nơi phòng vắng, với số lượng lớn, cũng là một hiện
tượng xã hội đáng chú ý ở thời nhà Đường. Điều này có nguyên nhân từ chính
sách khoa cử cởi mở và quan niệm về công danh sự nghiệp của người thời
Đường. Đến vương triều nhà Đường, con đường làm quan chủ yếu thông qua
khoa cử, trưng tập hoặc tham gia mạc phủ. Tuy nhiên, điều kiện để theo đuổi
công danh sự nghiệp như vậy khiến nhiều người phải dời quê hương bản quán,
vợ con để đi xa, mà con đường quan tước không phải lúc nào cũng thuận lợi,
7
ngược lại còn khó khăn muôn trùng, khó lòng thành hiện thực. Một nguyên
nhân nữa khiến rất nhiều người vợ trẻ buộc phải sống trong cảnh xa chồng biền
biệt là phong khí du ngoạn đặc biệt thịnh ở thời Đường. Du ngoạn liên quan đến
công danh sự nghiệp và du ngoạn để thưởng lãm núi sông, kết giao bè bạn.
Vì thế những người vợ của họ, lại đa số là phụ nữ trẻ, phải sống trong nỗi
sầu khổ của ly biệt tương tư, để tuổi xuân trôi qua uổng phí.
2.1.1.4. Địa vị xã hội của phụ nữ đời Đường và những người phụ nữ bị
chồng ruồng bỏ
Địa vị xã hội của phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc tương đối
thấp. Đến thời kỳ nhà Đường với sự phát triển thịnh vượng của xã hội, địa vị
của người phụ nữ cũng được nâng lên đáng kể song quan niệm nam tôn nữ ti
vẫn thâm căn cố đế, nam giới vẫn có quyền khống chế tuyệt đối trong hôn nhân.
Pháp luật và mọi quy định trong xã hội đều không bảo vệ người phụ nữ. Hơn
nữa, thời nhà Đường, xã hội phát triển, kinh tế phồn thịnh, văn hóa cởi mở, đàn
ông càng có dịp giao lưu bên ngoài, du ngoạn tứ phương mở rộng tầm mắt. Vì
thế họ cũng có nhiều cơ hội để ruồng bỏ người vợ cũ, tìm hạnh phúc mới. Mặc

dù chồng không đi xa nhưng cái khuê tình vẫn luôn luôn tồn tại, nỗi cô đơn sầu
muộn vẫn luôn ám ảnh những người phụ nữ chốn khuê phòng. Câu chuyện
những người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ vốn đã phổ biến trong xã hội Trung
Quốc cổ đại, đến đời Đường, do những nguyên nhân xã hội đặc thù lại càng
xuất hiện nhiều, cũng trở thành một vấn đề xã hội được nhiều người có tư tưởng
tiến bộ quan tâm, trong đó có rất nhiều văn sĩ trí thức.
2.1.2. Điều kiện thúc đẩy sự hưng thịnh của thơ khuê phụ ở đời Đường
2.1.2.1. Sự tiến bộ của văn hóa
Nền văn hóa hưng thịnh cùng với chính sách văn hóa cởi mở, khoan
dung, áp dụng chính sách dung nạp đối với các học phái và tam giáo Nho, Phật,
Đạo đã đưa đời sống tinh thần của người đời Đường vào trạng thái phát triển
tương đối tự do, có thể hấp thu nhiều mặt, tự do phát triển. Được nuôi dưỡng
trong bầu sinh khí ấy, thi nhân đời Đường tự do sáng tác, tự do thể hiện cảm thụ
và nhận thức của mình về cuộc sống và con người. Do đó, những tâm tư thầm
kín của người khuê phụ: nỗi sầu khổ tương tư vì xa chồng, khát vọng ái ân hạnh
phúc, tiếng nói ai oán phản chiến, tố cáo sự bất công của xã hội phong kiến,
nam quyền được phản ánh trong thơ sâu sắc, phong phú và tìm được sự đồng
cảm trong xã hội.
Mặt khác, ở thời nhà Đường, khoa cử, giáo dục, văn hóa phát triển khiến
trình độ văn hóa của xã hội cũng được nâng cao, cũng mở rộng cả cơ sở quần
chúng của thi ca. Môi trường văn hóa xã hội như vậy đã tạo điều kiện cho việc
truyền bá và phát triển mảng thơ khuê phụ này.
2.1.2.2. Sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm của thi nhân đời
Đường
Thi nhân đời Đường ngoài tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống còn
được tiếp nhận những giá trị văn hóa thời đại mới, tâm hồn khai phóng, mở
8
rộng nhận thức, biết trân trọng giá trị sinh mệnh con người, biết trân trọng phụ
nữ. Phương thức sống của hàn sĩ văn nhân đời Đường lại coi trọng sự thâm
nhập, trải nghiệm thực tế, văn nhân thoát ly khỏi cung đình ngao du tứ phương,

thậm chí lạc quan nơi biên cương, sa trường để tìm kiếm đường đi.
Với vốn sống nhiều, thâm nhập đời sống thực tế sâu, rộng và nỗi lòng “ưu
thời mẫn thế” của các thi nhân đời Đường đã khiến họ lắng nghe, thấu cảm,
đồng điệu với những khuê phụ bất hạnh, thôi thúc họ viết nên những bài thơ về
đề tài này một cách sâu sắc, cảm động nhất. Đó là một lý do quan trọng để thơ
khuê phụ có thể đến với quảng đại quần chúng, có sức sống lâu bền, được lưu
truyền rộng rãi.
2.2. Thơ Khuê phụ trong dòng chảy thơ ca Trung Quốc
2.2.1. Thơ khuê phụ trong Kinh thi
Nếu xem Kinh Thi là ngọn nguồn của thơ ca Trung Quốc thì cũng có thể
nói Kinh thi là ngọn nguồn của dòng thơ “khuê phụ”. Trong Kinh thi, thơ khuê
phụ chủ yếu tập trung ở Quốc phong (18 bài) và Tiểu nhã (3 bài). Những bài
thơ hay nhất diễn tả những nhớ thương, đau khổ vì sinh ly tử biệt của người phụ
nữ cô đơn nơi phòng khuê phải kể đến Bá hề (Vệ phong); Quân tử vu dịch
(Vương Phong); Ân kỳ lôi (Thiệu Nam); Quyển nhĩ (Chu Nam); Cát sinh
(Đường Phong)…
Trong thời đại Kinh thi, nỗi oán hận sầu thương của bao nhiêu phụ nữ vì
vợ chồng ly biệt không chỉ có nguyên nhân từ chiến chinh, lao dịch. Đôi khi
những người vợ buộc phải xa chồng, sống trong cảnh phòng không, gối lạnh
còn vì một hệ lụy của chế độ đa thê: Bị chồng ruồng bỏ. Là tập thơ đầu nguồn
của thơ ca Trung Quốc, Kinh thi với cách biểu hiện rất hồn nhiên, thuần phác đã
lần đầu tiên phác thảo dòng tâm tư thầm kín của những người phụ nữ cô đơn
nơi phòng khuê với tình điệu bi thương ai oán. Nhưng chính cái tình điệu bi
thương ai oán ấy đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho dòng thơ “khuê phụ”. Bởi như Kê
Khang trong Cầm phú, tự có viết: “Cầm phú kỳ thanh âm, tắc dĩ bi ai vi chủ;
thi mỹ kỳ cảm hóa, tắc dĩ thùy thế vi quý” (tiếng đàn hay vì âm thanh bi ai, lời
thơ cảm động vì khiến người rơi lệ).
2.2.2. Thơ khuê phụ trong thơ ca Tần Hán
Tiếp nối mạch nguồn trong sáng, thuần khiết từ Kinh thi, dòng thơ khuê
phụ đến dân ca nhạc phủ đời Hán đã phát triển thêm một bước mới.

Trong xã hội phong kiến, do địa vị của người phụ nữ thấp kém, đời sống
kinh tế phụ thuộc vào người đàn ông, số phận của họ sướng hay khổ thường
quyết định bởi người đàn ông khi đó tốt hay xấu. Vì thế, “trong dân ca nhạc phủ
có nhiều bài như thế nói về đàn ông thay lòng đổi dạ để cho phụ nữ chịu khổ
đau”. Thơ ca cuối đời Hán, đặc biệt trong Cổ thi thập cửu thủ càng xuất hiện
nhiều bài thơ khuê phụ hơn, tứ thơ cũng chan chứa ý vị cảm thương.
Có thể nói, thơ khuê phụ đến thời kỳ này đã có một bước tiến khá dài.
Mối “thâm tình u oán” của người khuê phụ cô đơn đã được biểu đạt bằng ngôn
ngữ vừa có vẻ tự nhiên, chất phác, lại vừa có sự trau chuốt cao độ. Hơn nữa,
9
cảm thức “sinh ly”, “tử biệt” vốn có trong đáy sâu tâm hồn của người sáng tác
Cổ thi nên dễ tương cảm với mối hận “sinh ly tử biệt” của người khuê phụ,
khiến tình cảm được biểu đạt một cách táo bạo, mạnh mẽ, xúc động lòng người.
Vì vậy, ý vị cảm thương của dân ca nhạc phủ và Cổ thi đời Hán thấm vào thơ
khuê phụ đời sau rất rõ nét.
2.2.3. Thơ khuê phụ trong thơ ca Lục triều
Với một nỗ lực giải phóng tình cảm mãnh liệt, thơ ca thời kỳ Tần Hán đã
có những bài thơ về đề tài khuê phụ lưu truyền hậu thế nhưng thực sự lấy “khuê
phụ” làm đề tài sáng tác thì phải đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều.
Vẫn xu hướng tình cảm đặc trưng: Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người vợ
có chồng đi xa hay niềm oán hận đau thương của người phụ nữ bị chồng ruồng
bỏ và đặc trưng trữ tình đậm chất “bi mĩ” trong thơ khuê phụ cổ đại, những bài
thơ đề tài khuê phụ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều đã mang đậm cá tính sáng tạo
của văn nhân.
Thơ khuê phụ thời này chủ yếu do “nam tử tác khuê âm” (nhà thơ nam
giới nói thay lời của người phụ nữ chốn khuê phòng), phần nhiều sử dụng
phương pháp ẩn dụ, ngụ ý chính trị nhưng cũng có một số tác phẩm diễn đạt
trực tiếp tâm sự của người khuê phụ. Chẳng hạn, có thể thấy cách thể hiện tâm
trạng nhân vật trong bài thơ Khuê tình của Phạm Vân cũng duyên dáng, tinh tế,
nữ tính không kém những bài thơ cùng đề tài này của tác giả nữ Bào Lệnh Huy

hoặc Tạ Diểu có bài Ngọc giai oán, một bài thơ xinh xắn mà sau này Lý Bạch
chịu ảnh hưởng sâu sắc khi sáng tác bài thơ cùng tên…
Như vậy, thơ khuê phụ đến Lục triều đã có những bước đột phá với
những hình ảnh, ý tượng thơ mới mẻ, sáng tạo, tâm lý nhân vật được lột tả tinh
tế, sâu sắc. Đặc biệt, với cách tự sự khách quan: nhân vật ở ngôi thứ nhất, thế
giới tâm trạng của nhân vật tự bộc lộ một cách tự nhiên, chân thực. Nói chung,
thơ khuê phụ đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều đã tạo được khuôn hình rõ nét,
tạo đà cho sự phát triển rực rỡ ở thời Đường.
2.2.4. Thơ khuê phụ ở đời Đường
Với nền móng mà những thế hệ đi trước đặt ra, các thi nhân nhà Đường
đã dần phát triển, mở rộng đề tài thơ khuê phụ và đạt được những thành tựu rực
rỡ không chỉ trong nội dung sáng tác mà cả về biện pháp nghệ thuật. Số lượng
các nhà thơ lấy “khuê phụ” làm đề tài sáng tác tăng gấp nhiều lần các thời kỳ
trước, trong đó có những nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,
Vương Xương Linh
Ngay từ thời kỳ đầu, thơ khuê phụ đời Đường mặc dù chưa thoát khỏi lối
thơ ca phù hoa diễm lệ thời trước, nhưng trong lời thơ vẫn có thể nhận ra được
khí phách và hơi thở của Đường thi. Tiêu biểu như bài Xuân giang hoa nguyệt
dạ của Trương Nhược Hư; Khuê oán của Từ Ngạn Bá; Tạp thi, Cổ ý của Thẩm
Thuyên Kỳ…Đến thời Thịnh Đường, Trung Đường thơ khuê phụ phát triển và
có nhiều thành tựu rực rỡ: Số lượng nhiều, nội dung tư tưởng sâu sắc tiến bộ,
mở rộng không gian biểu hiện thơ, phản ánh hiện thực phong phú, khách quan.
10
Thơ không chỉ giới hạn trong khuê các mà đã hòa vào một số vấn đề xã hội,
tình cảm biểu hiện sâu sắc hơn đã thoát li khỏi khuôn mẫu thơ khuê phụ Nam
triều. Nhiều tác phẩm miêu tả nhân vật tinh tế, điêu luyện, biểu hiện rõ khí chất
cá nhân và thế giới tinh thần khác biệt của con người, như Khuê oán của Vương
Xương Linh; Xuân tứ, Xuân oán, Trường Can hành…của Lý Bạch; Khuê phụ
của Bạch Cư Dị; Xuân oán của Kim Xương Tự; Dạ địch từ của Thi Kiên
Ngô…Thời Vãn Đường, như phong cách chung của thơ ca thời kỳ này, thơ

khuê phụ chủ yếu phản ánh tư tưởng buồn bã bi ai. Đối diện với hiện thực xã
hội phức tạp, nhà thơ không tìm ra được lối thoát, liền tìm sự an ủi và bù đắp
trong tình yêu nam nữ, đề tài sinh hoạt khuê các và tình yêu nam nữ trở thành
cái nhìn thẩm mỹ của nhà thơ. Đại diện tiêu biểu của loại thơ này là Lý Thương
Ẩn và Ôn Đình Quân. Ngoài ra còn một số nhà thơ tiếp thu phong cách hiện
thực của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị như Bì Nhật Hưu, Đỗ Tuân Hạc, Lục Quy
Mông…đã đi sâu vào hiện thực, phản ánh sâu sắc các vấn đề xã hội thông qua
phản ánh vận mệnh bi thảm của những phụ nữ tầng lớp dưới. Tuy nhiên, cũng
như đặc điểm chung của thơ ca giai đoạn này, thơ khuê phụ thời Vãn Đường đã
mất đi hào khí và phong vị của nó, số lượng ít, nội dung và nghệ thuật miêu tả
đơn điệu hơn thời kỳ trước.
2.2.5. Thơ khuê phụ ở thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh
Đúng như nhận xét của Du Bệ Vân, thơ khuê phụ đến đời Đường đã phát
triển đến độ hưng thịnh nhất, khoe nở tất cả những vẻ đẹp vốn có khiến thơ ca
giai đoạn sau khó tìm lại được. Do dó, thơ khuê phụ từ thời Tống trở đi cũng
theo đó mà nhạt dần, số lượng ít, sáng tác thưa thớt, nội dung tư tưởng và nghệ
thuật chủ yếu là ảnh hưởng từ thơ khuê phụ đời Đường và thời Lục triều. Sự thể
hiện tình cảm nhẹ nhàng, có phần lý trí, sử dụng hình ảnh, mô típ cũ nhưng
cách thể hiện không nhiều sáng tạo nên hiếm có tác phẩm để lại ấn tượng, cảm
xúc đầy dư ba như những bài thơ khuê phụ đời Đường.
Chương 3
CHỦ THỂ TRỮ TÌNH TRONG THƠ KHUÊ PHỤ
3.1. Giới thuyết
Nói đến thơ trữ tình, điều cơ bản cần nói là “chủ thể trữ tình, tức chủ thể
bộc lộ tình cảm. Có thể nói, chủ thể trữ tình – hình tượng tác giả là chủ thể để
phân biệt với các nhân vật trong thơ, đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm, là
khách thể, nguyên nhân trực tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả.
Trong mảng thơ khuê phụ đời Đường, chủ thể trữ tình biểu hiện qua hai
dạng thức: Chủ thể trữ tình trực tiếp, biểu hiện trực tiếp cái tôi của tác giả, cảm
xúc trong thơ là cảm xúc của chính nhà thơ về câu chuyện đời mình. Chủ thể

trực tiếp ở mảng thơ này chính là các nhà thơ nữ và chủ yếu, những câu chuyện
được kể trong thơ là những câu chuyện, những cảm xúc mà họ đã trải nghiệm
trong cuộc đời thực. Tuy nhiên, số lượng bài thơ có biểu hiện của chủ thể trữ
11
tình trực tiếp không nhiều, tỷ lệ rất ít so với kiểu chủ thể trữ tình nhập vai. Ở
mảng thơ này, một hiện tượng phổ biến là “nam tử tác khuê âm” (những nhà
thơ nam nói thay lời của những người phụ nữ trong phòng khuê). Việc nhiều
nhà thơ nam ở đời Đường đã lựa chọn mảng đề tài về người phụ nữ trong khuê
phòng để sáng tác chứng tỏ nhận thức về phụ nữ, về xã hội ở thi nhân đời
Đường đã thay đổi.
3.2. Chủ thể trữ tình trong sáng tác của nữ thi nhân
3.2.1. Chủ thể trữ tình trực tiếp
3.2.1.1. Điểm nhìn của chủ thể trữ tình
Ở đây, chủ thể trữ tình trực tiếp là hiện tượng tự thuật tâm trạng, người
khuê phụ tự bạch nỗi lòng (khuê phụ nhân làm khuê phụ thi). Do đó cái nhìn
của chủ thể trữ tình trùng khít với cái nhìn của chủ thể sáng tác, mang đậm đặc
trưng giới. Khi viết về chính mình, về mong muốn của mình, nữ giới ít khi ca
ngợi vẻ đẹp của bản thân. Họ thường say sưa với con người bên trong của mình,
nhìn sâu vào con người bên trong của mình, muốn thể hiện tâm tư, khát vọng
của mình, thơ thường đặc tả chi tiết nội tâm. Vì vậy, nữ giới thường tập trung
vào tất cả những gì xung quanh họ, không gian đều bị bó hẹp hơn so với cái
nhìn của nam giới, họ gần như không đụng chạm đến các vấn đề xã hội, chỉ chú
trọng tình cảm cá nhân. Tình cảm của người khuê phụ được chôn nén tận đáy
lòng. Dù là diễn đạt sự đau khổ nhưng họ vẫn giữ thái độ nhẹ nhàng, lễ tiết.
Hầu hết họ đều mong muốn tìm được một bờ vai để nương tựa, quay về với
những trật tự xã hội cũ. Họ oán nhưng không giận, bất bình nhưng lại nhớ
nhung, dịu dàng, bao dung. Vẻ đẹp đầy nữ tính (chủ yếu là vẻ đẹp tâm hồn) vì
thế luôn được bộc lộ một cách tự nhiên, chân thực. Đó là cái đẹp đặc trưng của
tình yêu người phụ nữ, một cái đẹp hiền dịu và bi kịch.
3.2.1.2. Thông điệp từ chủ thể trữ tình

Nhận thức về giới, về bản thân mình
Được giáo huấn bằng những tín điều Nho giáo chính thống ngay từ nhỏ
với những lời răn của “Nữ giới” và các quy ước của xã hội nam quyền, những
nữ thi nhân vẫn giữ một nhận thức cố hữu mang tính truyền thống về giới mình:
Phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới và ý thức rất rõ bổn phận của bản
thân. Bổn phận của người phụ nữ trong ly biệt là sự chung thủy tuyệt đối với
chồng, vì thế khi bị chồng bỏ rơi họ chỉ còn lại nỗi sầu khổ, thất vọng tràn trề,
sự phản kháng duy nhất là than thở, oán hờn, thậm chí vẫn một lòng thương
nhớ người xưa. Dù không cố ý (hoặc không muốn) nói ra điều này, nhưng qua
những bộc bạch trong thơ, chúng ta có thể nhận thấy, những người phụ nữ này
đã xem mình là người phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, có bổn phận mang lại
khoái lạc cho người chồng.
Mặt khác, trong nhận thức về giới và bộc bạch về chính mình, những nhà
thơ nữ cũng bày tỏ thái độ và quan niệm về người chồng, người đàn ông của
cuộc đời mình. Điều họ quan tâm nhất về người chồng là đạo đức. Hạnh phúc
của họ gắn với đạo đức của người chồng, sự thủy chung của người chồng. Tuy
12
nhiên, ngoài những nhận thức truyền thống đã ăn sâu vào tâm thức, các nhà thơ
nữ cũng đã bộc lộ những nhận thức tiến bộ về phụ nữ, về bản thân mình: Đối
thoại bình đẳng với người chồng, bộc bạch nhu cầu của cá nhân.
Quan niệm về nhân sinh: Với người phụ nữ, điều quan trọng nhất trong
toàn bộ cuộc sống của họ là gia đình và người chồng, với người phụ nữ sống ở
xã hội Trung Quốc cổ đại, điều này gần như tuyệt đối. Không gian sống chủ
yếu của họ là “khuê” (buồng the) gắn với đời sống vợ chồng, tất cả cuộc sống,
vui, buồn, mơ ước… cũng quanh quẩn trong cái giới hạn ấy. Và thế giới của họ,
trung tâm là người chồng, người đàn ông, trụ cột trong gia đình. Điều đó đã
mặc định trong họ quan niệm về cuộc đời và con người cũng rất phụ nữ. Những
nữ thi nhân đời Đường cũng vậy, hạnh phúc chẳng phải là điều gì quá lớn lao,
cũng không đo được bằng huân công, áo gấm, bạc vàng. Hạnh phúc chỉ đơn
giản là vợ chồng luôn ở bên nhau, cùng trân trọng mỗi giây phút của tuổi trẻ và

nhan sắc. Đỗ Thu Nương trong Kim lũ y đã trình bày trọn vẹn quan điểm
này.Với những người phụ nữ bé nhỏ ấy, người chồng và hạnh phúc gia đình
mới là mối quan tâm đặc biệt, những vấn đề chính trị, xã hội hiếm khi xuất hiện
trong thơ của họ, nếu có cũng là vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống cá
nhân.
3.2.2. Nhà thơ nữ nhập vai khuê phụ
Trong xã hội mà nam quyền là trung tâm, tiếng nói của phụ nữ bị trói
buộc bởi những tiêu chuẩn thẩm mỹ, tiêu chuẩn giá trị và tiêu chuẩn đạo đức
mà xã hội đó bắt người phụ nữ phải tuân theo. Vì thế, trong văn học cổ Trung
Quốc, rất nhiều nhà thơ nữ khi sáng tác hoặc là đặt bản thân mình vào vị trí lệ
thuộc vào đàn ông để ngâm xướng nỗi khổ tương tư, oán hận bi thương; hoặc là
làm mờ bản chất phụ nữ bắt chước theo tiếng nói của đàn ông, nhằm thích ứng
với “quy tắc đàn ông”, hay chính xác là để được giống như đàn ông, để có thể
thực hiện được lý tưởng của mình. Trong số những nữ thi nhân đời Đường, Lý
Trị (Lý Kỷ Lan) và Tiết Đào là những người theo phong cách thứ hai, thơ ca
mang đậm phong cách nam nhi. Do đó, điểm nhìn của chủ thể trữ tình trong
sáng tác của Tiết Đào, Lý Trị không trùng với điểm nhìn của chủ thể sáng tác.
Điểm nhìn của chủ thể trữ tình vẫn là điểm nhìn của người khuê phụ nhưng
được khúc xạ qua hai lớp: nhà thơ nữ  vị trí đàn ông  khuê phụ. Ở đây, nhà
thơ nữ đã làm mờ bản chất giới tính của mình, mượn vị trí một người đàn ông,
phong cách đàn ông để nhập vai khuê phụ, diễn tả tâm tình của người khuê phụ.
Nếu các nhà thơ nam giới khi nói thay lời khuê phụ thường cố gắng để
nói giống lời khuê phụ, thơ ca thường “nữ tính hóa” thì những nhà thơ nữ mượn
vị trí đàn ông mà vào vai khuê phụ lại cố gắng nói cho giống phong cách của
nhà thơ nam giới, thơ ca vì thế mạnh mẽ, phóng khoáng khác hẳn cái nhìn nữ
giới bình thường.
3.3. Chủ thể trữ tình nhập vai - “nam tử tác khuê âm”
3.3.1. Nguyên nhân của hiện tượng nam tử tác khuê âm (Nhà thơ nam
giới viết thay lời người nơi khuê phòng)
13

Việc số đông “nam tử tác khuê âm” này có nguyên nhân trước tiên là sự
tương đồng tình cảm giữa nhà thơ và người khuê phụ. Một bên là những quân
tử chăm chỉ đèn sách, ấp ủ hoài bão lớn, học rộng tài cao nhưng trên con đường
hoạn lộ gặp nhiều lời dèm pha, hãm hại khiến thi trượt, giáng chức thậm chí bị
lưu đày. Một bên là những người phụ nữ xinh đẹp, trẻ trung bị bỏ rơi nơi khuê
phòng lạnh lẽo. Tâm lý bất mãn, oán hận, đau khổ của những sĩ phu dễ bắt nhịp
với mối tương tư sầu hận ngập tràn trong lòng người khuê phụ. Hơn nữa, mượn
vai người khuê phụ, nam thi nhân đã tạo ra một khoảng cách khá an toàn, cần
thiết để tự do sáng tạo và phát ngôn. Với “mặt nạ nữ giới” các nhà thơ có thể
mạnh dạn trình bày những quan điểm, thái độ về chính trị, về nhân sinh, nhất là
những vấn đề cấm kỵ: mối quan hệ vua - tôi, bản năng tính dục. Tuy nhiên,
nguyên nhân lớn nhất và có giá trị nhất thôi thúc những nhà thơ nam giới thay
người phụ nữ chốn phòng khuê nói tiếng nói của mình chính là những xúc động
và quan tâm thực sự của nam thi nhân trước cảnh ngộ của người khuê phụ. Chỉ
có những rung động thực sự nơi đáy lòng nhà thơ mới khiến họ sáng tạo nên
những bài thơ lưu truyền hậu thế, những bài thơ về những con người nhỏ bé,
yếu thế nhất trong xã hội.
3.3.2. Điểm nhìn của chủ thể trữ tình dưới “con mắt đàn ông”
Khi nhập vai, chủ thể trữ tình (trong sáng tác của nhà thơ nam giới) phải
nhìn bằng mắt “người trong vở”: người khuê phụ. Vì thế, điểm nhìn của chủ thể
trữ tình đã được “nữ tính hóa”: nhà thơ nam giới  khuê phụ. Ở đây, chủ thể
trữ tình đã đứng vào vị trí, nhận thức, tình cảm của người khuê phụ mà thể hiện
tâm trạng. Có nghĩa là chủ thể sáng tác (nhà thơ nam) phải quan sát kỹ lưỡng,
tưởng tượng phong phú, tìm cách để chủ thể trữ tình nhập vai tròn khít, nói
đúng tiếng nói của người khuê phụ. Tuy nhiên, nếu quan sát thật kỹ lưỡng và so
sánh với những tác phẩm cùng đề tài của các nhà thơ nữ mà chủ thể trữ tình tự
thuật tâm trạng sẽ thấy ngoài điểm nhìn của người trong vở - khuê phụ còn
ngầm ẩn “cái nhìn đàn ông”, tức là dấu ấn của chủ thể sáng tác - nhà thơ nam
giới. Trong thơ phụ nữ họ ít khi nhắc đến vẻ đẹp ngoại hình, tính cách của bản
thân. Với những sáng tác của nhà thơ nam giới, hình tượng khuê phụ ít nhiều

được khúc xạ qua lăng kính của nam thi nhân nên mang những dáng vẻ, đường
nét theo quan điểm của những người đàn ông trong xã hội đương thời. Đó là lí
do ta thường gặp hình ảnh những khuê phụ với những vẻ đẹp rất truyền thống:
dáng điệu mềm mại, tha thướt như liễu, như hoa, dịu dàng, ôn hòa như ánh
trăng và nhất là vẻ thuần khiết, cao thượng, nhẫn nại, hy sinh. Một điểm đáng
chú ý nữa là, chủ thể trữ tình trong các sáng tác của nhà thơ nam giới thường để
lộ tâm thái tự xót thương mình rất rõ nét, điều này ít gặp ở các sáng tác của nhà
thơ nữ. Đây rõ ràng là tâm thái được phản chiếu từ điểm nhìn của chủ thể sáng
tác, những nhà thơ nam giới đã đồng cảm, xót thương cho những người phụ nữ
cô đơn nơi phòng khuê và giọng điệu cảm thương trở thành giọng điệu chính
trong mảng thơ này.
14
Mặt khác, được phản chiếu dưới góc nhìn đàn ông, điểm nhìn của chủ thể
trữ tình không chỉ giới hạn ở cái nhìn phụ nữ. Nội dung thơ thường được mở
rộng phạm vi biểu hiện, không chỉ phản ánh đời sống tình cảm cá nhân người
khuê phụ mà còn hàm chứa các vấn đề xã hội. Đó là lý do mà các tác phẩm của
nhà thơ nam giới thường có bối cảnh không gian rộng lớn, khoáng đạt, tạo được
những ý cảnh nghệ thuật đặc sắc, điều hiếm gặp trong sáng tác của nữ thi nhân.
Cũng xuất phát từ góc nhìn đàn ông nên điểm nhìn tâm lý ở chủ thể trữ tình
trong sáng tác của nam giới bao giờ cũng thẳng thắn, táo bạo hơn trong thơ nữ
giới. Cũng ở mảng thơ này, nhưng trong sáng tác của các tác giả nữ những “ám
ảnh tình dục” ít được bộc lộ hơn các nhà thơ nam giới. Nhu cầu bản năng ở các
nhà thơ nữ thường bộc lộ rất xa xôi mờ nhạt, chưa dám trực diện phản ánh
những đòi hỏi tự nhiên này như trong thơ nam giới. Điều này một phần do số
lượng nhà thơ nữ còn khá khiêm tốn trên thi đàn, số lượng sáng tác của mỗi nhà
thơ cũng ít ỏi, hơn nữa về mặt tư tưởng lại bị ràng buộc nhiều hơn so với các
nhà thơ nam giới. Các nhà thơ nữ chủ yếu là khẳng định các giá trị nữ tính: sự
yếu mềm, sự hy sinh, tình yêu sâu sắc thủy chung, bao dung, như một cách thu
hút sự chú ý của nam giới (người chồng của mình). Các nhà thơ nam giới bao
giờ cũng có thể chủ động hơn, lại có một khoảng cách an toàn nhờ “mặt nạ nữ

tính” nên khi họ thay lời người khuê phụ để giãi bày tâm tư, những điều nhạy
cảm, những điều cấm kỵ đã được công khai thổ lộ.
3.3.3. “Tác khuê âm” - Sự so sánh, ẩn dụ, ký thác tâm sự của nhà thơ
nam giới
“Nam tử tác khuê âm” (nhà thơ nam nói thay lời người phụ nữ chốn khuê
phòng) cũng như việc “mượn người nói ta, mượn xưa nói nay” là một phương
pháp nghệ thuật truyền thống, được sử dụng phổ biến trong thi ca cổ đại Trung
Quốc. Phương pháp này tạo ra lớp nghĩa bề ngoài cho tác phẩm, mục đích là
ngụ ý chính trị, điều này không có ở sáng tác của các nhà thơ nữ. Ở mảng thơ
khuê phụ đời Đường cũng có thi nhân trực tiếp chú thích cụ thể nghệ thuật ẩn
dụ này. Đó là Bạch Cư Dị với bài thơ Tỳ bà hành. Bài thơ ẩn chứa nỗi đau khổ
khôn nguôi của cái tài, cái đẹp bị bạc đãi, xem thường. Mượn lời than thở của
người đẹp chơi đàn tỳ bà trên bến sông khuya để giãi bày nỗi sầu hận chua xót
của mình. Không phải tất cả các bài thơ thuộc mảng thơ khuê phụ này đều có
thâm ý như vậy, song có thể thấy rằng những bài thơ có gửi gắm tâm sự của tác
giả về thời cuộc cũng khá nhiều. Bởi vì trong quan niệm của xã hội phong kiến
theo tư tưởng Nho giáo (ngũ luân), mối quan hệ quân thần, phu thê (vua - tôi và
chồng - vợ) là mối quan hệ thống nhất. Nhiều nhà thơ đã mượn mối quan hệ
giữa khuê phụ với chồng để nói đến mối quan hệ của mình (bề tôi) với vua,
mang những điều tốt đẹp của người phụ nữ để so sánh với tài hoa kiệt xuất của
bản thân không được trọng dụng. Trong tâm trạng chờ mong mỏi mòn của
người khuê phụ có nỗi hy vọng được quân vương để mắt của thi nhân. Trong
nỗi khát khao hạnh phúc đoàn viên của người phụ nữ vắng chồng có nỗi khát
khao được cống hiến của bậc “chính nhân quân tử”. Tâm trạng giận hờn, oán
15
trách phu quân của người khuê phụ vì bị bỏ rơi trong tận cùng nỗi cô đơn nơi
phòng vắng phải chăng cũng là tâm trạng oán trách của bề tôi trung thành
nhưng quân vương đã bạc đãi, không trân trọng hiền tài? Nỗi lo sợ tuổi xuân,
nhan sắc phai tàn cũng có thể đã gửi gắm nỗi nuối tiếc cái tài, cái khát vọng
đang ở thời kỳ sung mãn nhất lại bị bỏ phí.

Ngoài những ngụ ý về mối quan hệ giữa bề tôi với quân vương, các nhà
thơ còn ký thác tâm sự về những vấn đề chính trị xã hội khác được nhiều người
chú ý trong xã hội đương thời, chẳng hạn sự bất công trong xã hội, nhất là một
vấn đề chính trị đầy tính thời sự và nhức nhối dưới thời Đường mà các thi nhân
đặc biệt quan tâm là vấn đề chiến tranh.
Có thể nói rằng, những bài thơ thể hiện rõ ngụ ý chính trị của tác giả như
các sáng tác của Bạch Cư Dị không nhiều. Tuy nhiên, căn cứ hoàn cảnh sáng
tác của bài thơ, những tư liệu về chân dung và cuộc đời tác giả, nhất là qua thơ
ta có thể liên tưởng đến những tâm sự về thời cuộc mà tác giả có thể đã gửi gắm
vào hình tượng nhân vật khuê phụ.
3.3.4. Chủ thể trữ tình nhập vai
3.3.4.1. Mục đích và ý nghĩa của sự nhập vai
Chủ thể trữ tình nhập vai là hiện tượng độc đáo và phổ biến của mảng thơ
khuê phụ đời Đường. Tuy nhiên, không phải tất cả các tác phẩm viết thay, nói
hộ của nhà thơ nam giới đều có chủ thể trữ tình nhập vai. Trong một số tác
phẩm, chủ thể trữ tình chỉ là người kể chuyện, nói hộ tâm trạng của nhân vật
trong thơ, thường có xen lẫn cảm xúc, sự bình giá của chủ thể trước câu chuyện
của nhân vật. Cũng có những tác phẩm, chủ thể trữ tình thể hiện ở cả hai cấp
độ: Người dẫn dắt câu chuyện và nhập vai như trong bài Khuê oán của Vương
Xương Linh. Ở hai câu đầu, chủ thể trữ tình vẫn ở vị trí người kể chuyện, người
nói hộ nhưng đến hai câu cuối, bắt đầu từ chữ “hốt kiến” chủ thể trữ tình đã
nhập vai, cùng trải nghiệm cảm xúc đốn ngộ thực sự với người khuê phụ. Chính
sự nhập vai đột ngột này đã tạo ra sức hút của bài thơ, bất ngờ tạo nên cái thần
cho nhân vật khuê phụ, khiến nhân vật trở nên sống động, tự nhiên, chân thực.
Như vậy, sự nhập vai của chủ thể trữ tình là có chủ đích, có chủ công của tác
giả, nhằm mang đến cho hình tượng nhân vật sự chân thực, tự nhiên, sống động,
làm mờ bản chất viết thay, nói hộ của tác phẩm. Những vấn đề được phản ánh
trong tác phẩm là những vấn đề trung thực, khách quan nhất, giàu hiện thực và
khái quát nhất.
Mặt khác, sự nhập vai của chủ thể trữ tình có ý nghĩa như một cách trải

nghiệm cảm xúc và lý trí của nhà thơ nam giới. Nỗi cô đơn, những khao khát
riêng tư thầm kín cá nhân, sự yếu đuối… không phải chỉ của riêng người khuê
phụ. Khi diễn đạt những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ cô đơn nơi khuê
phòng, nhà thơ không chỉ có sự đồng cảm, hiểu biết về cuộc sống của người
khuê phụ mà còn có những rung động trong những trải nghiệm xúc cảm thực sự
về chính bản thân mình.
3.3.4.2. Nhân vật nhập vai
16
Người khuê phụ chính là nhân vật nhập vai của chủ thể trữ tình trong thơ
nhưng không phải những khuê phụ chung chung mà là những đối tượng cụ thể.
Vào vai một nhân vật cụ thể các nhà thơ muốn phản ánh thực tế số phận, tâm tư
của một lớp người, nhóm người, cụ thể trong xã hội, là sự thể hiện những hiểu
biết, trải nghiệm cuộc sống phong phú, thẩm mỹ trực quan sinh động của các
nhà thơ. Trong số những khuê phụ đương thời, những người vợ của chinh nhân
được nhập vai nhiều nhất bởi chiến tranh xảy ra lien mien suốt gần ba thế kỉ
thống trị của nhà Đường. Ngoài ra còn những người vợ thương nhân, những
người vợ du tử, vợ có chồng làm quan nơi xa…Bằng những phương tiện nhập
vai cụ thể, các nhà thơ đã diễn tả đúng đặc điểm tâm trạng, thân phận của nhân
vật. Ở những người vợ chinh nhân nhớ thương sầu khổ nhiều hơn là oán giận, ở
người vợ du tử thì mong nhớ, lo lắng chồng có mới nới cũ, người vợ thương
nhân lại hận chồng trọng lợi khinh ly biệt. Nhưng tất cả họ đều gặp nhâu ở sự tự
ý thức về cá nhân: cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc.
Có thể nói, nhập vai cũng là một đặc trưng thi pháp của mảng thơ này, tạo
cho tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, cũng khiến cho giả nữ âm thành thật. Bởi
nhập vai là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật. Khi nhập vai tức là diễn đúng
tình tiết, tâm trạng, diễn biến cuộc sống của vai diễn, khiến nhân vật hiện ra
sống động, tự nhiên, chân thực. Nhưng điều quan trọng của người diễn không
chỉ là hóa thân vào vai diễn, diễn y như thật mà còn phải làm cho vai diễn có
hồn, có sức sống, thậm chí có cá tính. Chủ thể trữ tình nhập vai thành công
không chỉ khiến tác phẩm “giả” thành “thật”, thậm chí còn thật hơn cả chân nữ

âm. Bởi lẽ, hoàn cảnh, địa vị của nam giới khác nữ giới, họ trưởng thành hơn
nữ giới trong nhận thức và tình cảm. Do đó họ nói được cả những vấn đề cần
thiết cho phụ nữ mà phụ nữ không dám nói, không dám mơ ước hoặc thậm chí
chưa thể nghĩ đến.
3.3.5. Những quan niệm nhân sinh mới mẻ
Trước tiên, ý thức về nỗi thống khổ của cuộc sống nhân sinh, đặc biệt là
cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội đương thời, những nhà thơ nam
giới, với trách nhiệm của người nghệ sĩ và cả dưới góc độ nam tính đã bày tỏ sự
đồng cảm, tình thương sâu sắc đối với những người phụ nữ phải sống trong ly
biệt. Không hiểu và cảm thông cho nỗi lòng người khuê phụ, các nhà thơ không
thể phân tích, lý giải những diễn biến tâm lí phức tạp, tinh tế của nhân vật: nhớ
thương, sầu hận, oán hờn và cả những khát khao âm thầm, mãnh liệt của người
phụ nữ chốn phòng the. Các nhà thơ đã quan sát rất tỉ mỉ mọi hành động, cử
chỉ, sinh hoạt hàng ngày của người khuê phụ để chia sẻ và đặt mình vào cảnh
ngộ của họ mà thổ lộ tâm tư.
Với những người nghệ sĩ, xót thương cho nỗi khổ đau của người phụ nữ
không chỉ là xót thương cho nỗi khổ đau của con người, đó còn là sự xót
thương cho cái Đẹp, vì phụ nữ là hiện thân cho cái Đẹp. Đây chính là một biểu
hiện của tinh thần nhân văn mới mẻ, tiến bộ của thi nhân đời đường.
17
Không dừng lại ở cảm hứng xót thương thấm đượm tinh thần nhân đạo
cao cả các nhà thơ đời Đường còn gửi gắm một quan niệm nhân sinh tiến bộ:
Bênh vực cho quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của người
phụ nữ. Các nhà thơ Đường ca tụng vẻ đẹp của nữ giới mang một màu sắc duy
mỹ, thể hiện sự trân trọng, yêu mến đối với người phụ nữ và cả sinh mệnh con
người. Vì thế, những khuê phụ đã xuất hiện trong mảng thơ này với bao vẻ đẹp
thuần khiết, cao thượng. Vì lẽ đó, khi những con người ấy không được hưởng
một cuộc sống bình thường các nhà thơ đã lên tiếng đòi quyền sống, quyền
được hưởng hạnh phúc cá nhân cho họ. Ở đây, các nhà thơ nam giới đã lựa
chọn phản ánh những nhu cầu hạnh phúc rất riêng tư, rất đời thường: Hạnh

phúc lứa đôi.
Thực ra, nhu cầu bản năng, dục tính hay nhu cầu được yêu thương, chia
xẻ, cảm thông trong trạng thái cô đơn, cô độc không phải chỉ là khao khát riêng
của những người phụ nữ trong khuê phòng, đó cũng là nguyện vọng chính đáng
của tất cả con người. Nên, khi nói về vấn đề ấy với tất cả tấm lòng chứng tỏ các
nhà thơ nam giới cũng thực sự quan tâm tới những chuyện riêng tư thầm kín
của đời sống cá nhân, họ nói thay người khuê phụ nhưng cũng để nói cho chính
mình.
Chương 4
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG THƠ KHUÊ PHỤ ĐỜI
ĐƯỜNG
4.1. Giới thuyết
“Nhân vật trong thơ trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm, là
nguyên nhân trực tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả”. Các nhà thơ sáng
tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các
cá nhân đó.
Những tác phẩm thơ chủ yếu khắc họa hình tượng nhân vật và viết về
những câu chuyện của nhân vật trong thơ Đường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng
số gần năm vạn bài thơ, nhưng đa phần trong số đó là những tác phẩm có giá
trị, được lưu truyền rộng rãi. Đó là những tác phẩm được chấp bút bởi những
nhà thơ nổi tiếng đời Đường, và như Lỗ Tấn từng nhận xét, cách miêu tả hình
tượng nhân vật trong thơ Đường với “biện pháp từ trước tới nay chưa từng có”.
Vận dụng thủ pháp nghệ thuật truyền thồng “dĩ hình truyền thần” các nhà thơ
đời Đường đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên phương diện miêu tả nhân
vật. Trong mảng thơ khuê phụ đời Đường, điểm nổi bật nhất trong miêu tả nhân
vật là nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật.
4.2. Đặc trưng nghệ thuật miêu tả nhân vật trong thơ khuê phụ đời
Đường
4.2.1. Một số thủ pháp tiêu biểu
4.2.1.1. Tả cảnh ngụ tình

18
Trong truyền thống thi ca Trung Quốc, phương thức dùng cảnh ngụ tình,
hài hòa giữa cảnh và tình để tạo nên những cảnh giới nghệ thuật đặc sắc “tình
cảnh giao dung” được xem là một phạm trù thẩm mỹ quan trọng. Thơ khuê phụ
đời Đường cũng không nằm ngoài phương thức nghệ thuật ấy. Những cảnh vật
trong thơ khuê phụ là những cảnh có đặc điểm, cá tính như tâm trạng của người
khuê phụ, giúp chủ thể trữ tình có thể dễ dàng diễn đạt những tâm tư sâu kín,
khó nói nhất.
Hình ảnh tương đồng thường xuất hiện trong thơ để lột tả hoàn cảnh, thân
phận lẻ loi, cô đơn của người khuê phụ như: bối cảnh mùa thu, mùa đông với
những phai tàn, lạnh giá; những đêm trăng khuya; những sự vật đơn lẻ, một
mình…Trong phạm vi 234 bài thơ khuê phụ, bối cảnh mùa thu đã xuất hiện
trong 37 bài, hình ảnh đêm trăng xuất hiện trong 42 bài, thời gian đêm khuya
xuất hiện trong 61 bài. Mùa thu lạnh lẽo, phai tàn thường tương cảm với nỗi cô
đơn sầu muộn nơi lòng người khuê phụ. Mỗi đêm trăng khuya lạnh càng làm
nổi rõ hơn tình cảnh buồn thương của người vợ thiếu vắng chồng.
Những hình ảnh đối lập được miêu tả nhiều là bối cảnh mùa xuân (xuất
hiện trong 45 bài) và các sự vật có đôi có cặp, quấn quýt. Mùa xuân là biểu
tượng cho tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc, mùa xuân bao giờ cũng ngập tràn sức
sống, nó hoàn toàn đối lập với cuộc sống hoang vắng, ngưng bế, thiếu sinh khí
của người khuê phụ, làm tăng thêm mối sầu hận, xót thương trong lòng họ.
4.2.1.2. Thủ pháp lấy “mộng” nói thực
Phải làm gì để thoát khỏi nỗi khổ đau? Đó là câu hỏi muôn thuở của con
người muôn đời. Trong nghệ thuật và thi ca nói riêng, mơ ước và tưởng tượng
là cách hóa giải đẹp nhất mọi bi kịch. Đường Đắc Dương trong Cội nguồn văn
hóa Trung Hoa từng nhận xét: “Nhân tố giải tỏa ý thức bi kịch của Trung Quốc
chủ yếu có tiên, giới tự nhiên, rượu và mộng”. Vì thế, không phải ngẫu nhiên,
những khuê phụ khổ sầu trong thơ Đường lại hay giả tưởng, hay “mộng”.
Như vậy, để diễn tả nỗi nhớ mong chồng da diết của thiếu phụ, thi nhân
không cần kỳ công phân tích nội tâm nhân vật mà khai thác tính thống nhất

giữa mộng và thực như Đái Thúc Luân trong Xuân khuê, Kim Xương Tự trong
bài Xuân oán…Chính phép giả tưởng và đồng nhất hóa “thực”, “mộng” đã gián
tiếp biểu hiện cái “bi” trong mảng thơ này ở mức độ sâu sắc nhất.
4.2.1.3. Khoa trương:
Lưu Hiệp trong thiên Khoa sức từng nói: “Văn từ sở phi, khoa sức hằng
tồn” (Xuất hiện văn chương là có khoa sức). Khoa sức như Lưu Hiệp nói là
khoa trương, tăng sức (tô điểm). Đây là thủ pháp nghệ thuật nhằm nhấn mạnh,
tô đậm hình ảnh, sự việc. Bằng cách phóng đại, khoa trương các nhà thơ mới có
thể làm nổi bật mối sầu hận sâu sắc của những người phụ nữ xa chồng. Sự
phóng đại, khoa trương biểu hiện ở cách “nói quá” hay cách dùng những so
sánh, liên tưởng táo bạo của nhà thơ. Cách nói ấy nghe thống thiết hơn, chạm
sâu vào đau thương hơn.
19
Với ngôn ngữ phóng khoáng và sự tưởng tưởng táo bạo, mới mẻ, các nhà
thơ đã xây đắp được những hình tượng nghệ thuật độc đáo, miêu tả lý tưởng,
nguyện vọng đẹp đẽ cũng như lòng yêu ghét mãnh liệt của nhà thơ, tạo cho thơ
sự cuốn hút đặc biệt.
4.2.2. Hệ thống biểu tượng đặc thù
“Biểu tượng văn hóa là vô số những hình tượng vô hình hoặc hữu hình
làm môi giới, hoặc là ngôn ngữ trung gian nhằm giúp con người nhận biết một
nội dung văn hóa nào đó”. Thơ Đường, tinh hoa của thơ ca cổ điển Trung Quốc,
với đặc trưng thẩm mỹ “hàm súc cô đọng”, “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời),
“ngôn tận ý bất tận” (lời hết mà ý không cùng) rất giàu hình tượng và ẩn tàng
dưới những hình tượng thơ ấy là những biểu tượng văn hoá độc đáo. Vận dụng
những kiến thức về giải mã văn hóa, chúng tôi tìm hiểu, giải mã một số biểu
tượng văn hóa tiêu biểu được dùng trong những bài thơ viết về nỗi “thâm tình u
oán” của người phụ nữ chốn phòng khuê này.
4.2.2.1. Biểu tượng tự nhiên:
Gió. Tại sao Gió lại tràn ngập trong những bài thơ khuê phụ? Hình tượng
Gió mang ý nghĩa gì trong thơ? Lý giải được điều này phải bắt nguồn từ ý nghĩa

biểu tượng Gió trong văn hóa. Người Trung Quốc xưa cũng quan niệm Gió có
chức năng mang thông tin, Gió đồng nghĩa với Khí, vì thế Gió đã trình hiện
trong mảng thơ “khuê phụ” đời Đường như một nhân vật đặc biệt: Khi là ngọn
gió xuân dạt dào xúc cảm yêu đương, khi là ngọn gió thu cô đơn, lạnh giá, khi
là ngọn gió đông đau đớn thét gào… Với người khuê phụ, Gió là bạn mà Gió
cũng là người đưa thư. Chỉ có Gió mới có thể vượt mọi trở ngại về không gian,
mang nỗi niềm của người vợ trẻ đến bên chồng.
Nếu Gió có chức năng mang thông điệp, thậm chí có lúc được đồng nhất
với người chồng thì Trăng là “âm” là “biểu tượng của bản nguyên thụ động
nhưng giàu sức sinh sản, của đêm, trí tưởng tượng, mộng mơ, khả năng thụ
cảm, nữ giới”. Vầng trăng trong tâm thức văn hoá Trung Hoa có nhiều lớp
nghĩa tương tự: vầng trăng viên mãn tượng trưng cho sự đoàn viên, trăng còn
liên quan chặt chẽ tới tình yêu và hôn nhân, trăng cũng hiện thân cho nữ tính,
cho cái đẹp; hình ảnh trăng khuyết, trăng tròn cũng là sự chảy trôi của thời
gian…Vì thế Trăng đi vào thơ Khuê phụ đời Đường như một nhân vật sống
động, được đồng nhất với những người tư phụ: cũng đẹp mà cô đơn. Trăng là
thiên thể của ban đêm, sáng trong nhất giữa không gian mênh mông tăm tối. Và
đêm, cũng là khi nỗi nhớ nhung, sầu muộn trào dâng mãnh liệt nhất trong lòng
người khuê phụ. Khi ấy Trăng – vầng sáng của đêm (hay của tâm hồn con
người) được xem như một tri kỷ, thấu cảm nỗi lòng, tình cảnh của người khuê
phụ cô đơn.
Biểu tượng Hoa: Hoa từ thế giới tự nhiên đi vào thơ cổ Trung Hoa đã
thành biểu tượng về thời gian, là cảm thức về thời gian; hoa cũng được đồng
nhất với người phụ nữ, với nhan sắc, tuổi xuân của người phụ nữ. Ngắm nhìn
nhan sắc của hoa đào mà quặn lòng nghĩ tới tuổi xuân nhan sắc của mình cũng
20
đang trôi đi vô nghĩa. Người khuê phụ đặc biệt nhạy cảm với sự “nở’, “tàn” của
hoa, vì nó thường ám chỉ bước đi khắc nghiệt của thời gian, sự hữu hạn của đời
người, của tuổi xuân và nhan sắc.
Biểu tượng Chim: Ở Trung Quốc xưa, do địa hình cách trở, đi lại khó

khăn, người ta thường nhờ chim để liên lạc, đưa thư. Tuy nhiên, mỗi loài chim
cụ thể lại mang thêm những ý nghĩa cụ thể: chim én là sứ giả của mùa xuân;
uyên ương là biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi; bồ câu biểu tượng cho hòa
bình…Trong mảng thơ này, chim thường xuất hiện với hai ý nghĩa: thứ nhất là
cầu nối thông tin, đưa thư; thứ hai là sứ giả của tình yêu, vì chim bay thường có
đôi càng gợi khát vọng đoàn tụ.
4.2.2.2. Biểu tượng nhân tạo:
Biểu tượng do con người tạo nên, gắn với đời sống sinh hoạt cá nhân, ở
đây là những hình ảnh gắn bó với cuộc sống của những khuê phụ, tiêu biểu như:
Khuê. Đó là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống cá nhân liên quan đến quan hệ
vợ chồng, một không gian chật hẹp, tù túng, nó cũng là biểu tượng cho giới hạn
sống, là biểu hiện của những chế định sống dành cho người phụ nữ trong xã hội
Trung Quốc cổ đại. Vì thế, “khuê” cũng là không gian chính để người phụ nữ
cảm nhận, chiêm nghiệm về cuộc sống nhân sinh. Trong phạm vi tư liệu hiện
có, chúng tôi thống kê được hình ảnh không gian khuê, lầu xuất hiện trong 52
bài, trong đó, khuê trực tiếp xuất hiện trong 40 bài. Khuê phòng cũng thường
hiện ra qua các khoảng không gian phụ trợ như như: giường; gối, chăn; rèm
cửa, màn lụa, bàn gương trang điểm…Trong đó giường (xuất hiện trong 10
bài), màn lụa, gối, chăn, rèm cửa, bàn gương trang điểm…(Tổng cộng xuất
hiện trong 32 bài).
Cuộc sống của người khuê phụ là cuộc sống thiếu vắng người chồng, và
tất nhiên, khi người chồng vắng mặt, không gian khuê (phòng) ở đây luôn được
cảm nhận ở trạng thái không (trống không). Đó là một không gian lạnh lẽo,
trống vắng, lụi tàn, một không gian bị bỏ rơi, lãng quên như chính những chủ
nhân của nó, người khuê phụ. Chú ý miêu tả không gian này là cách mà các nhà
thơ muốn phản ánh tình cảnh đáng thương của những thiếu phụ vắng chồng:
Những người phụ nữ này đang từng giây từng phút phải đối diện với hiện thực
của đời mình, cảm nhận sự lụi tàn của mình nhưng không sao thoát ra được.
4.2.3. Cảnh huống nghệ thuật
Cảnh huống nghệ thuật là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc không chỉ

trong văn học mà còn được sử dụng nhiều trong sân khấu, điện ảnh. “Cảnh
huống” là cảnh ngộ, tình trạng nào đó mà con người gặp phải trong cuộc sống.
Đó thường là những sự kiện, tình thế bất thường, thậm chí là bi kịch của cuộc
sống, nó đòi hỏi con người phải có những ứng xử, lựa chọn phù hợp, do đó nó
cũng góp phần làm nổi bật tính cách, tâm trạng con người. Cảnh huống nghệ
thuật là những cảnh huống đời thường được nhà văn, người nghệ sĩ lựa chọn
đưa vào tác phẩm phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả.
21
Trong mảng thơ khuê phụ đời Đường, cảnh huống nghệ thuật là những
dòng sự kiện, những khoảnh khắc điển hình được lựa chọn để làm nổi bật tâm
trạng, nhận thức và thân phận đáng thương của những khuê phụ, tiêu biểu là:
các hành động tựa cửa, lên lầu, khóc, soi gương, giặt áo, may áo, gửi áo.
Theo thống kê của chúng tôi, hình ảnh lên lầu, tựa cửa xuất hiện trực tiếp
trong 25 bài; khóc, lệ (nước mắt, biểu hiện của khóc) đã xuất hiện trong 50 bài;
soi gương và gương đã xuất hiện trong 27 bài, đập áo, may áo, gửi áo…xuất
hiện trong 25 bài.
4.2.3.1. Lên lầu, tựa cửa
Đây là cảnh huống thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống của những
khuê phụ xa chồng, là biểu hiện của tâm trạng mong ngóng tin chồng. Khoảnh
khắc tựa cửa, lên lầu đều tôn nổi tâm trạng chờ đợi hoài mong, trông ngóng tin
chồng của người khuê phụ nhưng tựa cửa còn vẽ ra một dáng vẻ khác, dáng vẻ
của những thiếu phụ u buồn, thẫn thờ. Cũng ngóng trông đấy nhưng hình như
đã chứa đầy tuyệt vọng, chán nản vì nỗi ngóng trông đã quá dài…
4.2.3.2. Khóc
Nước mắt và khóc là biểu hiện của nỗi đau khổ bật ra bên ngoài. Người
phụ nữ vốn dĩ yếu mềm, khó kìm nén được những khổ đau, sầu muộn bên trong
nên thường hay rơi lệ. Hình ảnh lệ như mưa, lệ như suối hay lệ đầm gối chăn…
là đặc tả những nỗi khổ đau mà khuê phụ đang phải chịu đựng.
4.2.3.3. Soi gương
“Gương” và “soi gương” lại phản ánh tâm trạng bi thương ở một góc độ

khác. Gương vốn là sủng vật của nữ giới. Cuộc sống của người phụ nữ luôn coi
hoạt động mang tính cá nhân (tính gia đình) là chủ yếu, do đó phụ nữ thường
chú ý đến các chi tiết của bản thân nhiều hơn so với nam giới, đặc biệt là dung
mạo, nên họ thường xuyên soi gương. Chiếc gương lại là “biểu tượng của các
sự vật được nhìn thấy theo đúng thực chất của chúng”. Từ ý nghĩa này, chiếc
gương đi vào thơ đã trở thành biểu tượng cho sự biến đổi tinh vi trong nội tâm
cũng như phản ánh chân thực tâm tư tình cảm nhân vật. Có thể nói động tác
“soi gương” chính là biểu hiện của tâm thái tự xót thương mình ở những người
phụ nữ cô đơn chốn phòng khuê. Soi gương có thể nói là tự họa chân dung,
nhìn thấy hình ảnh chân thực của mình ở trong gương, là sự kiểm tra khách
quan đối với hình ảnh chính xác của bản thân mình. Do đó soi gương cũng là sự
thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp nhận thức của khuê phụ đối với cuộc sống của
chính mình.
4.2.3.4 . Giặt áo, may áo, gửi áo
Đây là những cảnh huống nghệ thuật đặc biệt chủ yếu chỉ xuất hiện trong
những bài thơ miêu tả người vợ có chồng đi lính. Việc các nhà thơ thường
xuyên sử dụng hình ảnh này để xây dựng hình tượng chinh phụ là có nguồn gốc
xã hội, văn hóa của nó. Đối với người phụ nữ Trung Quốc cổ đại, việc nội trợ
trong gia đình: thêu thùa, may vá, nấu ăn…là công việc chính, cũng là một tiêu
chí đánh giá về người phụ nữ trong xã hội. Việc thêu thùa, vá may không chỉ là
22
trách nhiệm mà còn là tình cảm của người phụ nữ với gia đình. Giai đoạn đầu
đời Đường thực hiện chế độ phủ binh, quần áo, lương thực của người gia nhập
quân đội đều phải tự túc. Tất cả đều do người vợ trong gia đình chuẩn bị. Mỗi
khi vào mùa thu, những người vợ ở nhà lại chuẩn bị giặt áo bông hoặc may áo
bông mới gửi ra biên ải cho chồng mặc mùa lạnh. Đến giai đoạn Trung Đường
chuyển sang thực hiện chế độ mộ binh, quan phủ cung cấp quần áo, lương thực
cho binh lính nhưng vẫn có nhiều người vợ gửi áo ấm cho chồng. Bởi việc giặt
áo, gửi áo không chỉ là trách nhiệm mà còn gửi gắm trong ấy sự quan tâm,
chăm sóc, yêu thương của người vợ nơi quê nhà dành cho chồng lính thú nơi

xa. Vì thế hình ảnh giặt áo, may áo, gửi áo đã trở thành hình ảnh điển hình gắn
với người chinh phụ dưới thời Đường. Nhất là “tiếng đập áo” (đảo y thanh) đã
trở thành một biểu tượng đẹp không chỉ khi xây dựng hình tượng nhân vật
chinh phụ mà nó còn xuất hiện nhiều trong thế giới Đường thi với những cảm
khái đặc biệt.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận khoa học chủ yếu:
Thơ khuê phụ là mảng thơ có nét khác lạ trong vườn thơ ca cổ điển Trung
Quốc. So với các mảng đề tài khác như tống biệt, biên tái, sơn thủy, điền viên…
thơ khuê phụ chiếm một số lượng khiêm tốn hơn. Song, với tên tuổi của những
nhà thơ không chỉ nổitiếng ở thời kỳ nhà Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị, Vương Xương Linh…cùng những bài thơ có giá trị, sống mãi với thời
gian, thơ khuê phụ đã tạo được một dấu ấn đậm nét trên thi đàn đời Đường.
Dựa trên những phân tích, kiến giải cụ thể và kết quả khảo cứu 234 bài thơ,
chúng tôi đi đến một số kết luận khoa học chủ yếu như sau:
1.1. Như một dòng chảy nhỏ xuyên suốt, thơ khuê phụ xuất hiện từ Kinh
thi đến Đường thi thì gặt hái được những thành tựu rực rỡ. Ngoài nguyên nhân
nội tại: sự phát triển tự thân của văn học, bối cảnh xã hội rộng lớn với bầu
không khí sôi nổi, phát triển mạnh mẽ, đa dạng, nhiều màu sắc cũng là nguồn
chất liệu dồi dào tạo nên sức sống cho thi ca. Con người đời Đường không chỉ
quan tâm đến lý tưởng, hoài bão, những biến động lớn lao của thời đại, họ còn
lắng nghe, nhìn thấu cả những câu chuyện riêng tư nhất của đời sống cá nhân.
Khi bên ngoài xã hội rộng lớn là sự tham dự sôi nổi của những người đàn ông
trong bước đường mưu sinh và mưu cầu lý tưởng, thì nơi phòng khuê chật chội,
tù túng, những người vợ bị bỏ lại một mình với nỗi cô đơn sầu muộn lớn dần
theo ngày tháng. Nỗi buồn thương của những con người bé nhỏ, không được
nắm bắt được vận mệnh của chính mình khi ở vào phạm vi thương tâm nhất của
kiếp người đã chạm đến đáy sâu lòng trắc ẩn của các nhà thơ. Và bằng tấm
lòng, tài năng của mình, các nhà thơ đã ghi lại những câu chuyện ấy làm xúc
động lòng người, khiến xã hội cũng quan tâm chú ý. Từ đó người ta cũng quan

23
tâm hơn những nhu cầu cá nhân của mỗi con người trong đời sống xã hội, đây
cũng chính là một xu hướng phát triển tất yếu và tiến bộ của xã hội.
1.2. Qua thơ, lần đầu tiên những người phụ nữ trong xã hội cổ đại Trung
Quốc lên tiếng khẳng định sự tồn tại và giá trị bản thân mình với nhận thức ban
đầu về giới, đồng thời đòi hỏi những quyền tối thiểu nhất của con người: Quyền
được sống, được yêu và được hưởng hạnh phúc. Tuy nhiên với số lượng thơ và
người sáng tác khá khiêm tốn trên thi đàn (chưa đầy 10% so với sáng tác của
nhà thơ nam - trong giới hạn thống kê của chúng tôi) nên những vấn đề mà các
nhà thơ nữ đặt ra còn mờ nhạt, riêng lẻ. Câu chuyện của họ và những vấn đề về
đời sống con người trong xã hội mà họ vừa chạm đến được xã hội quan tâm, tác
động vào quan điểm nhận thức của con người, xã hội lại chủ yếu thông qua
tiếng nói của những nhà thơ nam giới.
1.3. Từ việc khám phá nét đặc trưng của thơ khuê phụ trong các sáng tác
của nhà thơ nữ, chúng tôi đã có những so sánh, đối chứng với những vấn đề
được phản ánh trong sáng tác của các nhà thơ nam giới. Với số lượng lớn, các
tác phẩm của “nam tử tác khuê âm” thực sự tạo nên diện mạo và phong cách
cho mảng thơ khuê phụ này. Ở đây, các nhà thơ nam giới đã nhập vai những
người phụ nữ cô đơn nơi khuê phòng mà giãi bày tâm tư, khát vọng của mình.
Điều đáng chú ý là với “mặt nạ nữ giới” nhưng dưới góc nhìn đàn ông các nhà
thơ không những phát hiện ra thân phận, hoàn cảnh sống đáng thương của
những người phụ nữ thiếu vắng chồng, các nhà thơ còn thấu hiểu và mạnh dạn
nói hộ những người phụ nữ chốn phòng the ấy những nỗi buồn sâu kín, những
mong ước đời thường nhất: được đáp ứng nhu cầu cơ bản về tâm lý, sinh lý của
một con người mà trong hoàn cảnh thực tế họ đang bị tước đoạt. Không chỉ thế,
mượn lời khuê phụ, các nhà thơ Đường còn gửi gắm những cảm khái về nhân
tình thế thái, gửi gắm cả những mong muốn của cá nhân người đàn ông mà vì
những rào cản của xã hội dưới tư cách nam giới họ buộc phải tiết chế. Đó là
nguyên nhân khiến những bài thơ về người khuê phụ trong xã hội nam quyền
hội tụ được những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc, có sức sống lâu bền. Có

thể nói, trong xã hội mà mọi quyền lợi, địa vị đều nghiêng về nam giới, pháp
luật không bảo vệ người phụ nữ, việc rất nhiều nhà thơ nam giới đã đồng cảm
sâu sắc, chia sẻ những đau khổ, bất hạnh và nói hộ những khát vọng riêng tư
thầm kín rất phụ nữ, rất con người của những khuê phụ đã thể hiện sự trưởng
thành vượt bậc trong nhận thức tư tưởng và tình cảm của các thi nhân đời
Đường.
1.4. Xuất phát từ những quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc đời
có nhiều điểm mới mẻ, giàu tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả các nhà thơ
Đường đã xây dựng được những hình tượng nhân vật khuê phụ thành công
nhất, có những điển hình cho nghệ thuật miêu tả nhân vật trong thơ ca cổ điển
Trung Quốc. Điểm thành công tạo nên sự khác biệt trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật của các nhà thơ Đường như Lỗ Tấn nhận xét “xưa nay chưa từng có”
24
là biện pháp phân tích diễn biến tâm lý tinh tế, hàm súc mà sau này vẫn quen
gọi là “phép biện chứng tâm hồn”.
Với hệ thống nhân vật phong phú, đông đảo người đọc có thể nhận thấy
góc quan sát đời sống sâu sắc và toàn diện của các nhà thơ. Dưới con mắt thẩm
mỹ trực quan, các nhà thơ miêu tả khá chính xác diện mạo, tâm trạng của từng
đối tượng nhân vật tiêu biểu cho một bộ phận phụ nữ trong xã hội. Có những
nét đặc trưng thống nhất nhưng vẫn có những nét riêng biệt, cá tính của mỗi
thân phận, ở mỗi hoàn cảnh khác nhau. Đó là điểm tạo nên nét chân thực sống
động cho nhân vật và sức hấp dẫn cho thơ.
1.5. Tóm lại, từ việc tìm hiểu những con người cá nhân đau khổ trong
mảng thơ khuê phụ này chúng ta phần nào khám phá được vẻ đẹp quyến rũ của
vườn thơ Đường rộng lớn. Thông qua hình tượng nhân vật khuê phụ, các nhà
thơ không chỉ “phản ánh, lý giải hiện thực thực tại" mà còn “tạo ra một thế giới
ứng với những nhu cầu và định hướng về tinh thần của con người”. Có lẽ, lần
đầu tiên ở một xã hội vốn không coi trọng phụ nữ, không cởi mở với chữ Tình
(tình yêu nam nữ), ý thức về cá nhân và những nhu cầu rất Người đã trỗi dậy.
Đặc biệt, tiếng nói thống thiết của những người phụ nữ bất hạnh ấy lại chủ yếu

được những bậc “chính nhân quân tử” thay lời. Điều đó thể hiện tinh thần nhân
đạo, chiều sâu tư tưởng, tình cảm nhân văn của các nhà thơ và góp phần tạo nên
sự tươi thắm của thơ Đường.
2. Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài: Đề tài luận án có thể tiếp tục phát
triển theo những hướng sau: Một là nghiên cứu kỹ về quá trình hình thành và
phát triển của thơ khuê phụ trong dòng chảy văn học Trung Quốc, trong đó
khảo sát, so sánh, đối chiếu sự phát triển của mảng thơ này qua các thời kỳ: về
số lượng, về thi pháp, về tác giả… Hai là nghiên cứu mảng thơ này chủ yếu trên
phương diện thi pháp học: Quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc đời,
không gian, thời gian, ngôn ngữ, kết cấu…Hoặc có thể nghiên cứu thơ khuê
phụ dưới góc độ so sánh với thơ về phụ nữ nói chung trong thơ Đường.
25

×