Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận án truyền thông tôn giáo từ năm 1990 đến nay (qua nghiên cứu trường hợp phật giáo và công giáo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.25 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, với 24 triệu người có đạo, chiếm 27% dân
số cả nước. Dưới thời ký đất nước đổi mới, chính sách, pháp luật tôn giáo có
yêu cầu đối với công tác truyền thông tôn giáo cao hơn và nhiều hơn các thời
kỳ trước, nhằm tạo ra những biến đổi cả về nhận thức và hành vi trong đời sống
tôn giáo, đóng góp cho sự phát triển đất nước. Công tác truyền thông nói chung,
truyền thông tôn giáo nói riêng được Đảng, Nhà nước quan tâm, thể hiện ở
nhiều phương diện, từ việc thành lập các tờ báo viết, báo nói, báo hình, tạp chí
và phát triển phương tiện truyền thông, cho đến đa dạng hóa nội dung truyền
thông tôn giáo. Nhờ vậy, đời sống tôn giáo Việt Nam đã đóng góp không nhỏ
cho sự phát triển đất nước thời kỳ đổi mới.
Công tác truyền thông tôn giáo nói chung và truyền thông về chính sách,
pháp luật tôn giáo nói riêng của hệ thống chính trị đã và đang đặt ra nhiều vấn
đề cần phải được quan tâm giải quyết cả về trước mắt cũng như lâu dài. Nó có
nhu cầu phải được đổi mới cả về nội dung và phương thức, sao cho phù hợp với
sự phát triển của trình độ công nghệ thông tin đương đại và phù hợp với sự biến
đổi mau lẹ của đời sống tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Từ đó, nó đặt ra yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước ta là phải nghiên cứu thấu
đáo vấn đề truyền thông tôn giáo, để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định và
thực thi chính sách tôn giáo, nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Những vấn đề đặt ra đối với truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị
đã thực sự là những vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Nhận thức nghiêm túc về điều đó, nghiên cứu sinh, vốn là cán bộ nghiên cứu
và giảng dạy của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã triển khai đề tài:
“Truyền thông tôn giáo từ năm 1990 đến nay (qua nghiên cứu trường hợp
Phật giáo và Công giáo)”, làm luận án tiến sĩ chuyên ngành tôn giáo học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Làm rõ về truyền thông tôn giáo và thực trạng truyền thông tôn giáo của


Đảng và Nhà nước ta, được phản ánh qua truyền thông về Công giáo và Phật
giáo, từ đó đề xuất khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền
thông tôn giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và công
tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên đây, đề tài có nhiệm vụ:
- Khái quát những vấn đề chung về tôn giáo, chính sách tôn giáo và phân
tích về truyền thông tôn giáo ở nước ta.
- Khảo sát thực trạng truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước qua khảo
sát về tính hiệu quả, kết quả đối với tín đồ, chức sắc Phật giáo và Công giáo,
với tư cách là đối tượng truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
1
- Rút ra những vấn đề đặt ra từ truyền thông tôn giáo của Đảng, Nhà nước
và khuyến nghị có tính giải pháp đối với cho công tác truyền thông tôn giáo và
quản lý nhà nước về hoạt động truyền thông tôn giáo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là truyền thông tôn giáo với chủ thể là Đảng và Nhà nước ta và đối tượng
tiếp nhận truyền thông là tín đồ, chức sắc của Phật giáo và Công giáo, từ các
phương diện đánh giá nội dung truyền thông là vấn đề tôn giáo, chính sách,
pháp luật tôn giáo, chất lượng, hiệu quả truyền thông và các phương tiện truyền
thông đại chúng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, nghiên cứu vấn đề truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta, qua nhận thức của các đối tượng là tín đồ, chức sắc Phật giáo và Công
giáo ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Về thời gian, nghiên cứu vấn đề truyền thông tôn giáo từ năm 1990 đến nay,
khi có Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990, của Bộ Chính trị, về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận án, đó là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và những thành quả nghiên cứu lý luận đã đạt
được trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu, là sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành tôn giáo học và liên ngành, như xã hội học, sử học, văn hóa học
và chính trị học
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án xây dựng và phân tích khái niệm truyền thông tôn giáo dưới góc
độ của khoa học liên ngành, đó là truyền thông học và tôn giáo học.
- Luận án thông qua việc khảo sát xã hội học tín đồ, chức sắc đạo Công giáo
và Phật giáo để làm sáng tỏ chất lượng và hiệu quả của truyền thông tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta.
- Luận án đề xuất khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án là một đóng góp đáng kể, khi được sử dụng trong công tác tôn
giáo nói chung và công tác truyền thông tôn giáo nói riêng ở Việt Nam.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy bộ môn tôn giáo học và truyền thông học về tôn giáo tại các học viện,
các trường đại học khoa học xã hội ở nước ta.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu về truyền thông tôn giáo
Gồm các tư liệu, tài liệu liên quan gián tiếp và trực tiếp đến đề tài luận án.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những vấn đề lý luận chung về truyền thông
Lý luận cơ bản về truyền thông đã được nhiều công trình nghiên cứu, trở
thành nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu về truyền thông tôn giáo. Bàn về

truyền thông không chỉ có các học giả, mà còn có các chức sắc, tu sĩ tôn giáo.
1.2.2. Những vấn đề chung về truyền thông tôn giáo
Bao gồm những Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về truyền thông
tôn giáo và các công trình khoa học về truyền thông tôn giáo
Các công trình đề cập tới vấn đề truyền thông tôn giáo có nội dung rất
phong phú về vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo, trong đó, về các giải pháp
vấn đề tôn giáo thường có yêu cầu về công tác truyền thông tôn giáo của Đảng
và Nhà nước. Vấn đề truyền thông tôn giáo chưa được luận giải với tính cách là
lý luận về truyền thông tôn giáo. Học giả Thomas đã đưa ra 3 tiêu chí để phân
biệt truyền thông tôn giáo với truyên thông phi tôn giáo, xuất phát từ bản thể
của tôn giáo theo quan điểm thần học: 1/ Truyền thông tôn giáo mang tính ẩn
dụ; 2/ Truyền thông tôn giáo không gói gọn trong bất cứ hình thức diễn đạt theo
nghĩa đen nào; 3/ Việc xác định các tham chiếu ẩn dụ chỉ có thể ngầm hiểu chứ
không thể định nghĩa một cách rõ ràng.
1.2.3. Những vấn đề về truyền thông Công giáo
Các công trình rất quan tâm hướng tới việc vận dụng truyền thông trong việc
giải quyết các mâu thuẫn của cộng đoàn Công giáo.
1.2.4. Những vấn đề về truyền thông Phật giáo
Cả truyền thông Công giáo và Phật giáo, chúng ta thấy, việc luận bàn tới nó
chủ yếu là của các chức sắc, nhà tu hành vốn được xem là đội ngũ trí thức của
các tôn giáo này. Còn từ đội ngũ nghiên cứu ngoài tôn giáo, điều này vẫn – chỉ
đang được hy vọng vào thời gian tới.
1.2.5. Vấn đề thực trạng truyền thông tôn giáo ở Việt Nam
Về thực trạng truyền thông tôn giáo với chủ thể là các tổ chức tôn giáo ở
Việt Nam được đề cập khá nhiều, có số liệu và nhận định rất phong phú, nhất là
về vấn đề các phương tiện truyền thông. Giới trẻ và truyền thông Công giáo -
Truyền thông báo chí và Intemid; Truyền thông - phương tiện hữu hiệu nhất
truyền tải Chính pháp là những vấn đề được quan tâm. Số ít có tâm trạng như:
Truyền thông Phật giáo đang đứng ở đâu?
1.3. Những vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và định

hướng nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
1.3.1. Những vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Các công trình nghiên cứu đã làm rõ về lý luận truyền thông, nội hàm và
ngoại diên khái niệm này. Đây là cơ sở lý luận để nghiên cứu sinh định nghĩa
và làm rõ khái niệm “truyền thông tôn giáo”.
3
- Vấn đề truyền thông tôn giáo nói chung được Đảng ta chỉ đạo về mục tiêu,
phương hướng hoạt động phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước. Đây là cơ sở
định hướng cho tác giả khi nghiên cứu về truyền thông tôn giáo Việt Nam hiện nay.
- Vấn đề truyền thông Công giáo và Phật giáo có nội dung lý luận và thực
tiễn quan trọng. Đây là tư liệu quý để nghiên cứu sinh làm đậm nét thêm về
truyền thông tôn giáo ở nước ta hiện nay.
- Vấn đề thực trạng truyền thông tôn giáo ở Việt Nam được đồng bào Công
giáo và Phật giáo nhận thức, đánh giá, là tư liệu thực tế có nhiều giá trị để tác
giả luận án khai thác và khái quát lý luận.
1.3.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo cần phải tiếp
tục nghiên cứu
- Các công trình còn chưa đưa ra được những nhận thức lý luận mới - khác
nhau về truyền thông tôn giáo. Đó là chưa nói, trên lập trường duy tâm, các tôn
giáo đã có những phân tích về truyền thông tôn giáo chưa phù hợp với thực tại
khách quan.
- Về thực trạng truyền thông tôn giáo ở Việt Nam, các công trình mới chỉ
nêu ra một số số liệu về tình hình, dưới dạng rất chung, hoặc dừng lại là những
thông tin của chính tôn giáo của mình. .
- Các công trình của Phật giáo và Công giáo, chưa đề cập tới vấn đề cơ cấu
nội dung thông tin truyền thông của tôn giáo mình đối với lĩnh vực chính sách,
pháp luật tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Các công trình còn thiếu vắng việc đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm phát
triển truyền thông tôn giáo Việt Nam.
1.3.1.3. Định hướng nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án

- Phân tích về sự hình thành và phát triển của phương diện lý luận về truyền
thông tôn giáo, qua trường hợp Phật giáo và Công giáo.
- Khảo sát thực trạng truyền thông tôn giáo ở Việt Nam qua trường hợp
truyền thông Phật giáo và Công giáo, để chỉ ra những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân của truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cùng
với việc rút ra những vấn đề đặt ra.
- Hình thành các quan điểm và khuyến nghị những phương hướng, giải pháp
cơ bản nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả truyền thông tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta; đồng thời đề xuất về quản lý nhà nước đối với truyền thông tôn
giáo, qua trường hợp Phật giáo và Công giáo ở nước ta hiện nay.
Chương 2
TÔN GIÁO, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ
TRUYỀN THÔNG TÔN GIÁO
2.1. Tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta từ năm 1990 đến nay
2.1.1. Tôn giáo ở Việt Nam
Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ, năm 2012, nước ta có gần 24 triệu
tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27/% dân số cả nước; số lượng chức sắc
khoảng trên 80.000 người; cơ sở thờ tự khoảng 25.000, của 13 tôn giáo, với 37
tổ chức tôn giáo được Nhà nước cấp đăng ký và công nhận (trong đó có 33 tổ
4
chức tôn giáo được công nhận; 03 tổ chức tôn giáo được đăng ký; 01 Pháp môn
tu hành) đang hoạt động bình thường, ổn định. Trong khi năm 1999, cả nước
mới có 14,7 triệu tín đồ, chiếm 19,4% dân số. Các tôn giáo ở nước ta luôn
chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Điều này có được, tất nhiên không
phải chỉ do từ phía các tôn giáo, mà quan trọng hơn, đó còn là vai trò của các
nền chính trị Việt Nam và của đời sống kinh tế xã hội Việt Nam quy định.
2.1.2. Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
dưới thời kỳ đổi mới đất nước
2.1.2.1. Quan điểm về tôn giáo của Đảng ta từ năm 1990 đến nay

Xuất phát từ quan điểm Mác Lê nin, tư tưởng Hồ chí Minh về tôn giáo và
bám sát thực tiễn đời sống tôn giáo của Việt Nam và thế giới, từ tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng và Nhà nước đã
cụ thể bằng việc ban hành quan điểm, chính sách, pháp luật đối với tôn giáo và
khẳng định đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo có mục tiêu tăng
cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì thế, việc làm tiên
quyết của Đảng và Nhà nước các cấp là phải thông qua mọi kênh truyền thông
để phổ biến rộng rãi chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đến nhân dân
cả nước và bạn bè quốc tế.
2.2. Truyền thông tôn giáo – khái niệm, kết cấu và chức năng
2.2.1. Khái niệm truyền thông tôn giáo
2.2.1.1. Khái niệm truyền thông
Trong từ điển Hán Việt, truyền là “chuyển đi, trao cho’’; thông có nghĩa “ đi
suốt qua, hai bên hiểu nhau’’. Trong tiếng Anh, truyền thông (communication)
cũng gần với ý nghĩa trên, là “quá trình truyền đạt thông tin từ một chủ thể phát
tin đến các đối tượng khác. Đó là sự tác động hoặc trao đổi ý tưởng, quan điểm,
thông tin bằng lời nói, chữ viết, ký hiệu ”.
Theo TS. Phạm Minh Sơn và PGS.TS. Nguyễn Thị Quế, truyền thông là:
quá trình trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã
hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ,
điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực hóa đời sống thực tiễn.
Còn Truyền thông đại chúng, đó là hệ thống các phương tiện truyền thông
hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả
nước, khu vực hay toàn bộ thế giới) nhằm thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo và
tập hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết
các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra

2.2.1.2. Khái niệm “truyền thông tôn giáo”
Đối với ngành tôn giáo học Việt Nam, khái niệm truyền thông tôn giáo gần
đây mới được một số nhà nghiên cứu nêu ra, nhưng cũng chưa có các định
nghĩa và phân tích về nội hàm, ngoại diên của nó. Còn ở nước ngoài, nhiều
công trình nghiên cứu về nó. Giáo hội Công giáo hoàn vũ, tại Công Ðồng
5
Chung Vaticanô II (1962), đã ban hành “Sắc Lệnh Về Các Phương Tiện Truyền
Thông Xã Hội”. Sắc Lệnh này không xác định và giải thích những nguyên tắc
tín lý về việc truyền thông xã hội. Nó không đưa ra định nghĩa về “truyền thông
xã hội”, “truyền thông tôn giáo”, hay “truyền thông Công giáo”, mà mang tính
cụ thể và mục vụ.
Dựa vào các nhận thức trên về truyền thông và truyền thông tôn giáo; vào
đặc điểm của khái niệm, là luôn vận động, phát triển theo tính quy định của
thực tiễn và tuân thủ nguyên tắc của logic hình thức, chúng tôi định nghĩa
“truyền thông tôn giáo” như sau:
Truyền thông tôn giáo là hoạt động giao tiếp có ý thức của con người, với
việc một chủ thể (một người, một nhóm người, một tổ chức) truyền thông tin về
những vấn đề liên quan đến tôn giáo, sang một đối tượng (một người, một
nhóm người, một tổ chức) qua một hệ thống ký hiệu quy ước, nhằm tạo ra
những thay đổi trong nhận thức, thái độ và hành vi.
Vây mục tiêu của truyền thông tôn giáo là giao tiếp, qua đó thay đổi thái độ
và hành vi của đối tượng; nội dung của nó là vấn đề tôn giáo hoặc liên quan đến
tôn giáo; hình thức của nó rất phong phú, đa dạng.
Theo quan điểm hệ thống cấu trúc, mối quan hệ của truyền thông, với truyền
thông tôn giáo và truyền thông của tôn giáo cụ thể, thì: truyền thông là cái toàn
thể (cấp rộng nhất), còn truyền thông tôn giáo là cái bộ phận của truyền thông
(cấp thứ hai), còn truyền thông của các tôn giáo cụ thể lại là cái bộ phận của cả
truyền thông và truyền thông tôn giáo (cấp thứ ba). Nhận thức như vậy không
chỉ để làm rành mạch về nội hàm và ngoại diên từng khái niệm và đặt chúng trong
mối quan hệ loài - giống – cá thể với nhau, mà còn giúp cho hoạt động nhận thức

và thực tiễn của chủ thể được sâu sắc hơn, có hiệu quả cao hơn, khi phải giành
quan tâm đặc biệt tới truyền thông từ góc độ cái toàn thể hay cái bộ phận.
Trong định nghĩa này, chúng tôi cũng chú ý nhiều đến tính tự giác của cả
chủ thể và đối tượng. Bởi vì, lĩnh vực tôn giáo là một lĩnh vực nhạy cảm và khó
nhận thức, nắm bắt, do liên quan tới nhiều ngành học, như triết học, xã hội học,
tâm lý học, sử học và chính trị học; còn trong đời sống, nó liên quan tới mọi
lĩnh vực, từ kinh tế, văn hóa, xã hội cho đến chính trị.
2.2.2. Cấu trúc của truyền thông tôn giáo
Cấu trúc của truyền thông tôn giáo có thể được xem xét từ một số góc độ
khác nhau. Ở đây, bàn đến cấu trúc của nó từ góc độ là một quá trình hoạt động,
nhờ sự tương tác qua lại lẫn nhau của các yếu tố bộ phận là:
- Chủ thể truyền thông tôn giáo: đó là những cá nhân và tổ chức, xây dựng,
phụ trách nguồn phát, không chỉ là người “có và của tôn giáo”, mà còn là người
“ngoài tôn giáo”. Hệ thống truyền thông của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
của các đoàn thể thuộc hệ thống chính trị Việt Nam là chủ thể truyền thông tôn
giáo, khi đã tổ chức mọi quá trình truyền thông tin, thông điệp về các nội dung
tôn giáo nói chung và các tôn giáo cụ thể nói riêng; cũng như về quan điểm,
chính sách, pháp luật tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
6
- Phương tiện truyền thông tôn giáo: đó là một hệ thống các phương tiện từ
thô sơ đến hiện đại. Mỗi loại hình phương tiện truyền thông ra đời đều phản ánh
trình độ phát triển của thời đại và đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi về giao tiếp xã
hội trong thời kỳ lịch sử đó. Khoa học kỹ thuật càng phát triển càng tạo ra
những phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn, có sức mạnh hơn cho hoạt động
truyền thông đại chúng, trở thành lợi thế của truyền thông tôn giáo đương đại,
làm cho chủ thể đã thay đổi căn bản phương thức hoạt động.
- Đối tượng truyền thông tôn giáo: là mục tiêu tác động tới của chủ thể
truyền thông. Nếu chủ thể là giáo sĩ, chức sắc tôn giáo thì đối tượng chủ yếu là
tín đồ của tôn giáo. Chủ thể truyền thông nếu là con người, tổ chức Đảng Nhà
nước thì đối tượng chủ yếu là chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Đối tượng truyền

thông đại chúng luôn được mở rộng tới rất khó xác định.
Hiệu quả của truyền thông được xem xét trên cơ sở những biến đổi về tâm
lý, nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng tiếp nhận, về cơ bản, hiệu quả
này phụ thuộc vào tính chất, qui mô, khuynh hướng của thông điệp.
2.2.3. Chức năng của truyền thông tôn giáo
Thứ nhất: Chức năng nhận thức - tư tưởng; Thứ hai: Chức năng giám sát và
quản lý xã hội; Thứ ba: Chức năng văn hoá. Quá trình thể hiện chức năng đó,
truyền thông tôn giáo tác động tới xã hội gây ra những ảnh hưởng tích cực hoặc
tiêu cực
Tiểu kết chương 2
Chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, nếu xem đó là điểm khởi đầu của
công tác tôn giáo, thì bước thứ hai, tất yếu phải biến nó trở thành nội dung,
nguồn phát để kịp thời chuyển đến đối tượng truyền thông, trước hết và chủ yếu
là cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam. Nhận thức như vậy là thể hiện
về tính quy luật của công tác tôn giáo. Trên thực tế, công tác truyền thông tôn
giáo ở nước ta vẫn chưa tạo được những chuyển biến như mong muốn. Ở nước
ta vẫn chưa có một công trình nghiên cứu truyền thông tôn giáo một cách xứng
đáng của các ngành khoa học xã hội. Nghiên cứu sinh dựa vào kết quả nhận
thức về truyền thông nói chung và và từ yêu cầu của thực tiễn, bước đầu phân
tích khái niệm truyền thông tôn giáo, từ định nghĩa, kết cấu cho đến chức năng
của nó. Trong đó, người viết đã nhấn mạnh đến đặc điểm chính yếu của truyền
thông tôn giáo, xoay quanh nhân tố con người. Đó là: (1) tính tự giác nhất định
phải có, trên một trình độ cao của chủ thể, cùng với tính đa dạng, phức tạp vốn
có của đối tượng truyền thông; (2) tính hiệu quả nhất định phải có, với sự biến
đổi tích cực của đối tượng trong và sau mỗi hoạt động truyền thông, cùng với
sự trưởng thành của chủ thể. Chỉ có như thế mới đạt được mục tiêu của truyền
thông tôn giáo.
Chương 3
7
THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG TÔN GIÁO

CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ
PHẬT GIÁO VÀ CÔNG GIÁO
3.1. Những kết quả đạt được trong công tác truyền thông tôn giáo từ
phương diện chủ thể là cơ quan truyền thông của Đảng và Nhà nước
3.1.1. Truyền thông tôn giáo đã góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ
và chức sắc, tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt quan điểm, chính sách, pháp
luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Thông qua các cơ quan truyền thông, các địa phương, đã chuyển tải quan
điểm, chính sách, pháp luật tôn giáo của Đảng và Nhà nước, thể hiện trong các
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX); Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định 22/2005/NĐ-
CP, Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ và Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành
Trên các phương tiện truyền thông, nhất là các tạp chí, đã có không ít những
bài viết chuyên sâu về các vấn đề tôn giáo, trong đó đề cập sâu sắc đến chính
sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam. Đây là những bài viết có tính lý luận sắc
bén cả về chính trị và thực tiễn.
Những nơi đồng bào tôn giáo sinh sống tập trung thường là vùng chiến lược
của đất nước, kẻ thù luôn tìm mọi cách tuyên truyền, lôi kéo quần chúng gây
mất ổn định chính trị, xã hội. Vì vậy, nhiều báo -đài thường xuyên có bài về các
địa bàn trọng điểm, làm cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo có hiểu biết đúng đắn
và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động tôn
giáo phù hợp pháp luật, gắn bó với dân tộc.
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh, Đài Truyền
hình Huế và các đài Phát thanh-Truyền hình: Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ
An…luôn quan tâm đến việc tuyên truyền các quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tôn giáo đến với hơn 20 triệu đồng bào có đạo.
Trong chương trình VTV2 và một số chuyên đề của chương trình VTV1 và
nhiều kênh truyền hình khác, đã dành một thời lượng nhất định chuyển tải
thông tin về đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Một số chương trình thời sự, trong

chuyên đề về chính trị xã hội, đã có những phóng sự về bà con các tôn giáo
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo.
3.1.2. Truyền thông tôn giáo đã góp phần tuyên truyền công tác tôn giáo,
về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Báo chí trong hệ thống chính trị khi có các vụ việc về tôn giáo phức tạp xảy
ra, các ban biên tập các báo, tạp chí cử phóng viên đến nghiên cứu, viết tin bài
theo yêu cầu và sự chỉ đạo của ban biên tập. Các bài viết đều có phân tích khách
quan nguyên nhân của vụ việc và biện pháp giải quyết của cấp ủy, chính quyền;
có sự tham mưu và sự phối kết hợp của các ban ngành; có định hướng dư luận,
giúp cho người dân hiểu đúng bản chất của sự việc, biện pháp giải quyết có lý
8
có tình của chính quyền, góp phần làm ổn định an ninh trật tự ở nơi xảy ra sự
việc. Các bài viết cũng phản ánh những cách làm hay, bài học kinh nghiệm
trong công tác tôn giáo.
Hằng năm Thông Tấn xã Việt Nam có khoảng gần 100 tin, bài, ảnh về tôn
giáo và công tác tôn giáo. Báo Quân đội Nhân dân đã có những bài về gương
điển hình trong các đơn vị để động viên, nhân rộng phong trào. Tạp chí Công
an Nhân dân, luôn xác định, tuyên truyền về công tác tôn giáo là một trong
những nội dung quan trọng trong công tác tuyên truyền của đơn vị. Tạp chí Xây
dựng Đảng hằng năm có từ 5 đến 7 bài viết tuyên truyền về công tác xây dựng
đảng ở vùng đồng bào tôn giáo. .
Các phương tiện phát thanh - truyền hình, đều phản ánh khá toàn diện đời
sống xã hội phong phú và thực tiễn sinh động các phong trào tốt đời đẹp đạo trên
cả nước. Thông tin từ các đài phát thanh - truyền hình đã lý giải nhiều vấn đề nóng
đặt ra từ thực tiễn cơ sở về tôn giáo và chính sách tôn giáo Đồng thời tạo và định
hướng dư luận xã hội, góp phần tháo gỡ những vướng mắc, góp phần làm ổn định
tình hình. Từ truyên truyền cũng góp phần làm giảm các vụ việc khiếu nại, tố cáo,
nhiều khó khăn, vướng mắc đã được tháo gỡ một cách êm thấm.
Ở Đài Phát thanh - Truyền hình Thanh Hoá; Nam Định, Nghệ An, Thừa
Thiên Huế đã khai thác những mặt tốt của văn hóa đạo đức tôn giáo để phát

sóng cho mọi người học tập. Các đài đã đầu tư xây dựng Chương trình truyền
hình: “Nhịp cầu Nhân ái”, “Lục lạc vàng”,nội dung được đề cập nhiều nhất là:
Kính Chúa yêu Nước; Dân số và phát triển; Đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa khu dân cư có đạo, về Phật giáo Nam tông Khmer
Qua tuyên truyền của các báo chí, đài phát thanh-truyền hình, đã giúp chức
sắc, chức việc và đồng bào tôn giáo hiểu đầy đủ hơn về chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Từ nhận thức đó, giúp tín đồ yên tâm giữ đạo và sống đạo,
phấn khởi cùng với các tầng lớp nhân dân xây dựng và phát triển quê hương,
đất nước. Thông qua việc tuyên truyền trên báo điện tử làm cho cán bộ làm
công tác tôn giáo hiểu, gần gũi hơn tín đồ, chức sắc tôn giáo.
Thông qua các bài, tin trên báo chí còn giúp cho cán bộ, công chức làm công
tác tôn giáo nâng cao kỹ năng giải quyết các vụ việc tôn giáo phức tạp, nâng
cao trình độ vận động quần chúng là đồng bào có đạo. Đồng thời, giúp họ có
thêm kinh nghiệm trong phối kết hợp với các cơ quan chức năng trong công tác
tham mưu, xử lý những vấn đề phức tạp.
3.1.3. Truyền thông tôn giáo tích cực cổ vũ đồng bào các tôn giáo đóng
góp sức người sức của xây dựng quê hương đất nước, xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư, làm tốt công tác từ thiện - xã hội
Trong số các báo, tạp chí, đài phát thanh- truyền hình ở cả trung ương và địa
phương hiện nay, nhiều báo, đài đã chủ định tập trung tin, bài để cổ vũ các
phong trào thi đua yêu nước của đồng bào các tôn giáo. Trong đó, biểu dương
nhiều tấm gương điển hình trong đồng bào tôn giáo trên các lĩnh vực: kinh tế,
xã hội, y tế, giáo dục, động viên chức sắc, tín đồ sống “Tốt đời, đẹp đạo”, xây
dựng gia đình văn hóa, làng, thôn, ấp, bản văn hóa và các phong trào thi đua
như “Người giáo dân tiêu biểu”, “Xây dựng chùa cảnh tiên tiến”. “Giáo xứ tiên
9
tiến, gia đình Công giáo gương mẫu, người giáo dân tiêu biểu, ông bà mẫu mực,
con cháu thảo hiền ” Biểu dương việc xây dựng và thực hiện tốt các quy
ước, hương ước, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, trong
lễ hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, nghiện hút ma túy,

Mỗi năm Đài Truyền hình TP.Hồ Chí Minh, có khoảng trên dưới 40 tin, bài cổ
vũ phong trào thi đua yêu nước của đồng bào các tôn giáo; có khoảng trên 20 bài
viết về gương điển hình của cá nhân và tập thể, tổ chức tôn giáo tiêu biểu trên các
lĩnh vực: lao động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, giữ gìn trật tự
trị an xóm, ấp Việc tuyên truyền về nhân đạo từ thiện, không khí tổ chức lễ hội,
phỏng vấn một số chức sắc tôn giáo , cũng được Đài quan tâm tuyên truyền, cổ
vũ trong các dịp lễ của các tôn giáo, như: Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh , tết Dương
lịch, Tết Nguyên đán Hằng năm, trong chương trình truyền hình của Đài Phát
thanh – Truyền hình, có khoảng trên 50 tin, gần 30 bài viết về gương điển hình
của cá nhân và tập thể đồng bào tôn giáo tiêu biểu trên các lĩnh vực.
Các cơ quan truyền thông đã chú trọng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chủ động nắm bắt tư tưởng và dư luận
xã hội, tham góp ý kiến với cấp ủy, chính quyền về công tác tôn giáo.
3.1.4. Truyền thông tôn giáo là vũ khí sắc bén phản bác những luận điệu
xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch
Những năm qua, nhiều tin, bài của báo - đài đã giúp chức sắc, tín đồ hiểu rõ
âm mưu thâm độc của kẻ xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng, trên cơ sở đó cảnh
giác với những luận điệu tuyên truyền sai trái của chúng. Báo - đài cũng chuyển
những kiến nghị chính đáng của đồng bào có đạo lên các cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo, các cấp ủy đảng, chính quyền để giải quyết kịp thời, đúng
pháp luật. Vận động đồng bào tham gia phòng ngừa, tố giác kẻ xấu, nhất là ở
các địa bàn phức tạp như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, vùng biên giới.
Các báo cũng phản ảnh những tâm tư, nguyện vọng của đồng bào có đạo; bày tỏ
quan điểm rõ ràng trước những luận điệu sai trái của các thế lực xấu đăng đàn
trên báo điện tử, đài phát thanh ở nước ngoài.
Đánh giá một cách khách quan, sâu sắc, toàn diện về thực trạng hoạt động
lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, Tạp chí Công an Nhân dân đã đề
xuất chủ đề, tổ chức biên tập nội dung, tham mưu giúp Bộ công an và Tổng Cục
an ninh II tổ chức thành công Hội thảo: “Đấu tranh chống hoạt động lợi dụng

tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia - những vấn đề lý luân và thực tiễn” tại
Thái Bình ngày 13-9-2011 và TP. Hồ Chí Minh ngày 21-10-2011. Từ những
cuộc Hội thảo này, Tạp chí Công an Nhân dân có thêm ngân hàng bài để tuyên
truyền đăng tải trên các số tạp chí.
Tất cả những điều đó đã tạo niềm tin của các chức sắc, tín đồ đối với đường
lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
3.2. Hiệu quả truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ phương
diện đối tượng là tín đồ, chức sắc Phật giáo, Công giáo ở Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh
3.2.1. Thông tin về triển khai khảo sát
10
Triển khai luận án, nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát bằng phương pháp
xã hội học đối với tín đồ, chức sắc Phật giáo và Công giáo ở TP. Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh, với 826 phiếu. Trong đó, nam 378 và nữ 448 người; Hà Nội 343
người, chiếm 41,5%, TP. Hồ Chí Minh 413 người, chiếm 50% và nơi khác 70
người, chiếm 8,5 %. Phật giáo 330 người chiếm 40%, Công giáo 287 người
chiếm 34,7% và không tôn giáo 207 người chiếm 25,1%.
3.2.2. Thông tin về người Việt với truyền thông tôn giáo
3.2.2.1. Về phương tiện truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Cuộc sống nơi thành phố văn minh hiện đại, phương tiện truyền hình chiếm
một số lớn nhưng các gia đình vẫn sử dụng hệ thống đài phát thanh (radio) với số
lượng lớn: 96%; tiếp sau là đầu đĩa: 90%, điện thoại: 82%, tivi: 79%, vi tính: 80%.
Như vậy, để truyền thông tôn giáo có hiệu quả thì phải dựa chính trên các
phương tiện này.
3.2.2.2. Người Việt sử dụng Internet trong truyền thông tôn giáo
Truyền thông qua Internet là truyền thông mở; bởi ở đó con người bộc lộ hết
tâm can của mình, thoải mái trình bày quan điểm mà không sợ bị kiểm duyệt
như những hình thái in ấn truyền thống. Các tôn giáo cũng nắm được thế mạnh
này và đã ra đời hàng loạt các trang mạng và các trang Website của các giáo hội
góp phần lớn vào truyền thông, chuyển tải một lượng thông tin khổng lồ giúp

cho công chúng hướng tâm về tôn giáo, tín ngưỡng.
Về phía truyền thông nhà nước, cũng đã tạo ra nhiều trang thông tin điện tử
internet của Chính Phủ, các Bộ, ngành và nhiều tờ báo mạng, như:
Vnexpress.net, Vietnamnet.vn, Dantri.vn, Danviet.com.vn, Tuoitre online…
Căn cứ vào kết quả qua bảng hỏi, chúng ta thấy trang tuoitre được nhiều người
quan tâm: 27%, sau đó là Vnexpress: 25%, rồi tới dântri: 18%, còn mục khác,
tức là hàng chục trang web khác mà nhà nước cho phép, trong đó có trang của
tôn giáo được 30% số người quan tâm.
3.2.2.3. Tin tin tức hàng ngày mà người Việt quan tâm
Quan tâm hàng đầu của người xem tivi, truy cập internet là sức khoẻ, y tế:
32%; sau là vấn đề xã hội, môi trường, phát triển: 31%; thể thao, văn hoá: 16%;
thứ tư đến vấn đề tôn giáo: 15%; chính trị -kinh tế trong nước: 14%; thời tiết:
13%; chính trị -kinh tế quốc tế: 12%; sau cùng là quân sự an ninh: 2%. Vấn đề
tôn giáo đứng thứ 4 là đã được nhiều người quan tâm.
Nguồn thông tin về chủ trương chính sách về tôn giáo được người dân biết
đến nhiều nhất là từ các kênh đài truyền hình Việt Nam: 75%; sau đó đến kênh
truyền hình thành phố Hồ Chí Minh: 63%; kênh khác: 60% và cuối cùng là
truyền hình Hà Nội: 43%.
Với nguồn tin từ phát thanh, tỷ lệ công chúng tiếp cận thông tin qua kênh
này thấp hơn so với các kênh truyền thông đại chúng khác, nhưng đài tiếng nói
Việt Nam vẫn là kênh có tỷ lệ công chúng tiếp cận cao nhất: 44%; sau đó đến
đài phát thanh TP. Hồ Chí Minh: 39%; loa truyền thanh: 17%; đài phát thanh
Hà Nội: 11% và đài khác: 6%.
Về báo: Báo Sài Gòn Giải phóng và báo Hà Nội Mới được công chúng chọn
tiếp cận về chủ trương chính sách tôn giáo với tỷ lệ cao hơn các báo khác: 40%
11
và 38%. Các tờ báo chuyên ngành: Người Công giáo: 21%; Giác ngộ: 11% và
văn bản của chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội: 4%
Đáng chú ý là, tỷ lệ tiếp cận qua kênh truyền thông trực tiếp không phải là
thấp, khi mà cán bộ địa phương tuyên truyền chủ trương chính sách về tôn giáo

có tới 64% công chúng tiếp nhận thông tin qua họ; tiếp sau là chức sắc tôn giáo
giảng: 33%; hoạt động cộng đồng: 9%; các tổ chức không chính thống, bạn bè,
người thân, đồng nghiệp vận đông: đều chỉ 1%.
Về tiếp cận báo in, tỷ lệ thường xuyên đọc chiếm 47%; hiếm khi hoặc không
đọc: 43%; thỉnh thoảng đọc: 10% và không đoc: 4%. Vậy, truyền thông tôn
giáo qua kênh báo in có thể chưa hiệu quả, vậy muốn hiệu quả hơn, thì cần có
khảo sát sâu nhằm tìm hiểu và khắc phục lý do công chúng chưa tiếp cận thông
tin nhiều trên kênh này.
Về thời điểm tiếp cận với báo in, khoảng 9h – 11h có tỷ lệ tiếp cận cao nhất:
28% - 30%; buổi tối 19h – 21h công chúng đọc báo nhiều: 21% - 15%; thấp
hơn là 5- 7h, 15 – 17h: đều 10%; thấp nhất là từ 23h – 4h59: 2%.
Khi đọc báo, thông tin về chủ trương, chính sách và kiến thức về tôn giáo
được công chúng quan tâm với tỷ lệ cao nhất: 36% và 31%; sau đến sự kiện
thời sự tôn giáo trong ngoài nước: 22%.
3.2.3. Thông tin tôn giáo với người Công giáo
Sự kiện tôn giáo trong và ngoài nước được mọi người quan tâm nhất: 40%;
chủ trương, chính sách tôn giáo: 30%; kiến thức vê tôn giáo: 25 %; hoạt động
tôn giáo bất hợp pháp được quan tâm chỉ 4%.
Ở kênh báo in, khi tiếp cận thông tin về tôn giáo, người Công giáo yêu thích
hai thể loại thông điệp, là tin tức/hình ảnh: 49% và gương người tốt việc tốt:
46%. Còn phỏng vấn, phóng sự, tổng hợp, tỷ lệ yêu thích là 34 – 25 và 32%.
Còn xã luận, điều tra, phóng sự ảnh ít thu hút công chúng: 12 – 15%.
Công chúng tiếp cận kênh báo in, tỷ lệ đánh giá về sự đáp ứng nhu cầu
thông tin là: Phù hợp: 38%, hấp dẫn: 36%,tin tức trung thực: 33%, tin dễ hiểu
15%, ngôn ngữ dễ hiểu: 8%, phản ánh ý kiến của tôi: 9%.
Tiếp cận thông tin tôn giáo qua truyền hình,thì chủ trương, chính sách về
tôn giáo và kiến thức về tôn giáo được công chúng quan tâm nhất: 36% và 31%;
rồi đến sự kiện tôn giáo trong – ngoài nước: 22%; sinh hoạt tôn giáo của dân và
giáo hội: 16% và thấp nhất, hoạt động tôn giáo bất hợp pháp: 7%.
Công chúng xem truyền hình, các thể loại/hình thức thông điệp về Công

giáo được yêu thích là gương người tốt, việc tốt: 49% và tin tức/hình ảnh: 43%.
Còn thể loại phỏng vấn: 33%, xã luận: 25%, phóng sự: 30%, tổng hợp: 30%,
được yêu thích xếp thứ hai.
3.2.4. Thông tin về Phật giáo
Người Phật giáo ít quan tâm tới chính sách tôn giáo khi chỉ ở 25% (30% là
tín đồ Công giáo). Các hình thức thông điệp yêu thích là gương người tốt, việc
tốt: 39%; tin tức/hình ảnh: 35%; tổng hợp tin tức: 32%; còn lại các hình thức
thông điệp khác không thu hút được sự chú ý của công chúng.
12
Những thông tin về Phật giáo trên báo Giác ngộ, Phật giáo ngày nay, Văn
hóa Phật giáo lại được công chúng đánh giá cao ở: thông tin phù hợp: 59%, hấp
dẫn: 44%, dễ hiểu: 38%, bàn về vấn đề công chúng quan tâm: 34%. Còn một số
tiêu chí không được đánh giá cao bằng, đó là tin tức cập nhật: 22%, trung thực:
28%, ngôn ngữ dễ hiểu: 15%.
Thể loại thông tin yêu thích trên truyền hình là gương người tốt việc tốt:
43%; tin tức/hình ảnh: 35%, bài tổng hợp: 29%. Các thể loại như phỏng vấn:
23%; phóng sự điều tra: 11%, không được đánh giá cao. Công chúng đánh giá
cao truyền hình thông tin về Phật giáo, đó là thông tin phù hợp: 45%; hấp dẫn:
46% và phản ánh được vấn đề công chúng quan tâm: 36%.
3.2.5. Thông tin đánh giá về báo và tạp chí đưa tin về tôn giáo
3.2.5.1.Đánh giá về việc đáp ứng nhu cầu thông tin về tôn giáo nói chung
trên báo và tạp chí phát hành tại địa phương
Trong khảo sát, chúng tôi đưa ra 5 nội dung thông tin để đánh giá, nhưng
quan tâm đến: (1) Chủ trương, chính sách tôn giáo: thông tin tốt, đáp ứng kịp
thời: 24,4%; thông tin tốt nhưng chưa nhanh: 41%; thông tin nhanh nhưng sơ
sài thiếu thực tế: 34,8% và thông tin sai, thiếu thực tế: 8,5%; (2) về Hoạt động
tôn giáo trái pháp luật: thông tin tốt, đáp ứng kịp thời: 7,2%; thông tin tốt nhưng
chưa nhanh: 43,8%; thông tin nhanh nhưng sơ sài thiếu thực tế: 40,4% và thông
tin sai, thiếu thực tế: 8,5%.
Vậy, thông tin về chính sách tôn giáo chưa đáp ứng kịp thời là rất cao, trong

khi đó, tính sơ sài, sai, thiếu thực tế của thông tin lại còn cao hơn thế.
3.2.5.2. Đánh giá về đáp ứng nhu cầu thông tin của người Công giáo
Sự kiện tôn giáo trong và ngoài nước: 22,9%; Chủ trương, chính sách về tôn
giáo: 29,7%; Kiến thức chung về tôn giáo: 36%; Sinh hoạt tôn giáo của nhân
dân và giáo hội: 45,1%; Tin bài về hoạt động tôn giáo trái phép: 34,4%.
Vậy, chủ thể truyền thông cần điều chỉnh cả về chất lượng và số lượng
thông tin truyền thông tôn giáo trong cơ cấu này, để người dân có điều kiện
nắm vững chính sách, pháp luật tôn giáo.
3.2.5.3. Đánh giá về việc đáp ứng nhu cầu thông tin về Công giáo trên báo
và tạp chí ở địa phương
Trong đó, về: (1) Chủ trương, chính sách tôn giáo: thông tin tốt, đáp ứng kịp
thời: 31,2%; thông tin tốt nhưng chưa nhanh: 40,8%; thông tin nhanh nhưng sơ
sài thiếu thực tế: 24,4% và thông tin sai, thiếu thực tế: 3,6%; (2) về Hoạt động
tôn giáo trái pháp luật: thông tin tốt, đáp ứng kịp thời: 8%; thông tin tốt nhưng
chưa nhanh: 38,7%; thông tin nhanh nhưng sơ sài thiếu thực tế: 37,8% và thông
tin sai, thiếu thực tế: 15,5%.
Vậy, thông tin về chính sách tôn giáo cũng chưa đáp ứng cao, đặc biệt quan
ngại ở tính sơ sài, sai, thiếu thực tế còn nhiều; thông tin hoạt động tôn giáo trái
pháp luật có độ sơ sài, sai, thiếu thực tế còn cao hơn thế: 37,8% và 15,5%. Tình
trạng này đòi hỏi phải chấn chỉnh kịp thời, bởi lẽ sẽ là nguy hại cho Đảng lãnh
đạo xã hội, khi tôn giáo là lĩnh vực rất nhạy cảm, phức tạp và rất dễ bị các thế
lực xấu lợi dụng. Tuy nhiên, nắm vững vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo đòi
hỏi kiến thức phải sâu và đa ngành, nên người làm công tác truyền thông tôn
13
giáo khó có thể một sớm, một chiều thâu thái được và đây là một mâu thuẫn
phải được giải quyết với cả tính cấp bách và lâu dài.
3.2.5.4. Đánh giá về thể loại thông điệp được yêu thích trên báo và tạp chí ở
địa phương
Các thể loại thông điệp được công chúng yêu thích nhất, là tin tức, hình ảnh:
54%, phóng sự: 39 và tổng hợp: 34. Các thể loại như gương người tốt việc tốt,

phỏng vấn, điều tra, không được yêu thích bằng.
Vậy, các cơ quan truyền thông tôn giáo cần dựa vào kết quả nghiên cứu này
để có kế hoạch hoạt động phù hợp.
3.2.5.5. Những báo được công chúng đánh giá cao trong truyền thông về
tôn giáo
- Báo Giác ngộ, Đại đoàn kết:đánh giá phù hợp: 48%, bàn về vấn đề công
chúng quan tâm: 32%. Công chúng không đánh giá cao tờ báo ở tiêu chí hấp
dẫn, tin tức dễ hiểu, ngôn ngữ dễ hiểu.
- Báo Giác ngộ, Đạo phật ngày nay, Văn hóa Phật giáo: Được đánh giá cao
là phù hợp: 59%, nội dung bàn về vấn đề công chúng quan tâm: 34%, hấp dẫn:
44%, tin tức dễ hiểu: 38%. Báo không được đánh giá cao ở tiêu chí ngôn ngữ dễ
hiểu, tin tức cập nhật và phản ánh được ý kiến của công chúng.
- Báo Công giáo và Dân tộc; Báo Người công giáo: Được đánh giá cao là
phù hợp: 38%, nội dung bàn về vấn đề công chúng quan tâm: 30, hấp dẫn: 36%,
tin tức trung thực: 33%; công chúng không đánh giá cao ở tiêu chí ngôn ngữ dễ
hiểu, phản ánh được ý kiến của công chúng.
3.2.6. Thông tin đánh giá về truyền hình đưa tin về tôn giáo
3.2.6.1. Về thời gian xem truyền hình
- Xem trong tháng vừa rồi: cao nhất là thỉnh thoảng: 45%, thường xuyên,
hiếm khi: đều là 23%, không xem: 9%. Như vậy, ở thành phố cũng có một bộ
phận đáng kể hiếm hoặc không xem truyền hình trong một tháng.
- Thời điểm thường xem trong ngày: múi giờ vàng 19 – 21h thu hút nhiều
nhất sự quan tâm: 46%. Múi giờ 5 – 7h (35%) và 11h – 13h (25%) cũng thu hút
công chúng hơn các múi giờ còn lại.
Từ đây cho chúng ta suy nghĩ về nội dung tôn giáo và thời điểm phát thông
tin, kể cả lặp lại số lần phát, cho có hiệu quả nhất.
3.2.6.2. Thông tin về tôn giáo mà bản thân – công chúng quan tâm
- Thông tin về tôn giáo nói chung mà bản thân quan tâm: nhiều hơn đường
lối, chính sách tôn giáo: 32%; kiến thức về tôn giáo: 29%; hoạt động hội của
giáo hội: 23%. Số khác không thu hút bằng, như các sự kiên tôn giáo trong và

ngoài nước: 18%; các hoạt động tôn giáo không hợp pháp: 19%.
Như vậy, vấn đề chủ trương, đường lối, chính sách về tôn giáo rất cần phải
ưu tiên tuyên truyền. Còn về các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp, không nên từ
tỷ lệ trên mà giảm đi, ngược lại phải tăng hơn, coi trọng nhiều hơn nội dung,
hình thức tin. Thậm chí, con người cụ thể đưa tin và bình luận cũng phải được
chú trọng, tránh tình trạng để chức sắc, tín đồ tôn giáo phản ứng găy gắt với
một vài phóng viên, từ đó đòi ra báo chí tư nhân, như vừa qua.
14
- Thông tin mà công chúng Công giáo quan tâm: Nhiều nhất là chủ trương,
đường lối, chính sách tôn giáo: 36%; kiến thức về tôn giáo: 31%. Các thông tin
khác không thu hút bằng, như các sự kiên tôn giáo trong và ngoài nước: 22%;
các hoạt động tôn giáo không hợp pháp: 7%; vấn đề sinh hoạt tôn giáo của dân
và hoạt động hội của giáo hội: 16%.
- Thông tin mà công chúng Phật giáo quan tâm: Nhiều nhất là sự kiên tôn
giáo trong và ngoài nước: 44,8%; thấp hơn là chủ trương, đường lối, chính sách
tôn giáo: 27%. Các thông tin khác không thu hút bằng: kiến thức về tôn giáo:
17%các; các hoạt động tôn giáo không hợp pháp: 12%; vấn đề sinh hoạt tôn
giáo của dân và hoạt động hội của giáo hội: 16%.
Như vậy, đối tượng truyền thông là người các tôn giáo khác nhau cũng có
nhu cầu thông tin tôn giáo khác nhau. Vậy cần phải chú trọng đáp ứng cho mỗi
cái riêng, từ quan điểm lịch sử cụ thể. Tuy nhiên phải chú ý tính cân đối, vì ở
nước ta, đạo Công giáo và Phật giáo dù là 2 tôn giáo lớn nhất cần phải quan
tâm, nhưng cũng luôn thấy là có tới 13 tôn giáo khác nhau. Đảm bảo từ phương
diện này sẽ góp phần bảo đảm quan điểm, nguyên tắc bình đẳng các tôn giáo
Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
3.2.6.3. Đánh giá truyền hình đưa tin về tôn giáo
- Đưa tin về tôn giáo nói chung: Chủ trương, chính sách tôn giáo: thông tin
tốt, đáp ứng kịp thời: 38%; thông tin tốt nhưng chưa nhanh: 10%; thông tin
nhanh nhưng sơ sài thiếu thực tế: 28% và thông tin sai, thiếu thực tế: 25%. Về
hoạt động tôn giáo trái pháp luật: thông tin tốt, đáp ứng kịp thời: 41%; thông tin

tốt nhưng chưa nhanh: 20%; thông tin sai, thiếu thực tế: 30%. Thông tin sơ sài,
sai, thiếu thực tế lại đáng phải quan tâm: 28% và 25%.
Tỷ lệ trên của truyền hình cũng không khác nhiều với ở báo, tạp chí. Điều đó
cho thấy chất lượng của truyền thông đại chúng của Việt Nam hiện nay căn bản
không phải là phương tiện - công cụ, mà chính là vấn đề con người. Vậy, vấn đề là
phải thường xuyên nâng cao – đào tạo – bồi dưỡng – sử dụng đội ngũ truyền.
- Đưa tin về Công giáo: đáp ứng đúng thời điểm là: Sự kiện tôn giáo trong
và ngoài nước: 25%; Chủ trương, chính sách về tôn giáo: 40%; Kiến thức
chung về tôn giáo: 41%; Sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và giáo hội: 40%; Tin bài
về hoạt động tôn giáo trái phép: 39%. Nhưng độ sai và thiếu chính xác khá cao,
theo thứ tự trên là: 48%, 32%, 26%, 32% và 33%.
Vậy, phải rất chú ý tới độ chính xác và tính thực tiễn của thông tin về chính
sách, pháp luật tôn giáo và các hoạt động tôn giáo trái pháp luật.
- Đưa tin về Phật giáo: đáp ứng đúng thời điểm là: Sự kiện tôn giáo trong
và ngoài nước: 42%; Chủ trương, chính sách về tôn giáo: 27%; Kiến thức
chung về tôn giáo: 20%; Sinh hoạt tôn giáo và giáo hội: 27%; về hoạt động tôn
giáo trái phép: 37%. Nhưng độ sai và thiếu chính xác cao, theo thứ tự trên là:
24%, 48%, 39%, 32% và 33%.
Vậy, độ thiếu chính xác và thiếu thực tế của thông tin về chính sách, pháp
luật tôn giáo ở đây là cao nhất, rất cần được khắc phục ngay.
3.2.6.4. Những thể loại thông điệp về tôn giáo được khán giả yêu thích
15
Những hình thức thông điệp thu hút sự chú ý của truyền hình về tôn giáo nói
chung là tin tức, hình ảnh: 44%; gương người tốt việc tốt: 44%; phóng sự: 41%;
bài tổng hợp tin tức, kiến thức: 31%. Các hình thức khác không thu hút bằng đó
là phỏng vấn, xã luận, điều tra…
3.2.6.5. Đánh giá truyền hình đưa tin về tôn giáo
Công chúng đánh giá cao hơn cả là: phù hợp: 32%; tin tức cập nhật: 31%;
bàn về vấn đề công chúng quan tâm: 29%. Một số tiêu chí không được đánh giá
cao là thông tin chưa hấp dẫn: 14%; tin tức trung thực: 17%; tin tức dễ hiểu:

13%; ngôn ngữ dễ hiểu: 11%; phản ánh ý kiến công chúng: 6%.
Vậy nhìn chung chưa thể hài lòng về chất lượng thông tin tôn giáo của truyền
hình hiện nay, khi mà trình độ của cả người có tôn giáo và không có tôn giáo ngày
một cao, nhu cầu dân chủ trong thông tin ngày càng lớn. Vì thế, thông tin chính
xác, toàn diện, khách quan về vấn đề tôn giáo và có thái độ tôn trọng công chúng
là yêu cầu vô cùng quan trọng hiện nay đối với truyền thông đại chúng tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó đóng góp vào việc thành công công tác tôn giáo
và nâng cao niềm tin của dân vào chế độ và củng cố uy tín cho Đảng.
3.3. Những khó khăn tồn tại trong công tác truyền thông tôn giáo của
Đảng, Nhà nước
3.3.1. Những mặt tồn tại
Một là, khi có vụ việc phức tạp về tôn giáo xảy ra thì không ít tờ báo, tạp
chí, đài phát thanh - truyền hình thụ động trong việc đưa tin, viết bài. Sự chủ
động phối, kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc lấy thông tin về các
vụ việc phức tạp về tôn giáo chưa chặt chẽ. Vì vậy, chất lượng bài viết về tôn
giáo và công tác tôn giáo trên báo điện tử còn thấp.
Hai là, các phóng viên chủ yếu là viết tin hoặc các bài về gương người tốt
việc tốt, ít bài viết có tính phản biện sắc sảo, phân tích có lý, thuyết phục người
đọc. Ở không ít báo, số tin bài về lĩnh vực tôn giáo rất ít.
Ba là, tình trạng thông tin sơ sài, thiếu thực tế khá nghiêm trọng. Kết quả
điều tra như đã phân tích, là rất đáng lưu tâm đối với những người làm báo
chuyên mục về tôn giáo.
Bốn là, hầu hết các báo, tạp chí,phát thanh, truyền hình không có chuyên
mục cũng như không có phóng viên chuyên trách về lĩnh vực tôn giáo và công
tác tôn giáo. Quỹ nhuận bút, nhất là quỹ nhuận bút ở báo điện tử, đặc biệt là ở
báo ở địa phương rất thấp, nên không khuyết khích được người viết về lĩnh vực
nhạy cảm này
1
.
Năm là, ở một số nơi xảy ra điểm nóng về tôn giáo, nhưng các loại báo chí

chưa có bài báo viết sâu, chưa chỉ được rõ nguyên nhân cơ bản xảy ra điểm
nóng, biện pháp khắc phục; việc lý giải, phân tích, giải thích chưa đúng bản
chất của vụ việc nên bài viết thiếu tính thuyết phục.
Sáu là, không ít báo, tạp chí ban, ngành, đoàn thể còn né tránh việc truyền
thông chính sách, pháp luật tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong đấu tranh với
1
Chỉ có báo Báo Nghệ An, nhờ sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND đã tăng quỹ nhuận bút từ 1 triệu đồng/ngày lên 3,5
triệu đồng/ngày.
16
các luận điệu sai trái, một số bài viết còn chung chung, tính thuyết phục chưa
cao; việc này chủ yếu tập trung ở một số báo, tạp chí Trung ương.
3.3.2. Nguyên nhân của yếu kém tồn tại
Thứ nhất: Nhận thức về vai trò, hiệu quả của công tác truyền thông tôn giáo
về chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo, trong một số ban biên tập báo – đài,
chưa đồng đều và chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai: Công tác truyền thông tôn giáo về chính sách tôn giáo và công tác
tôn giáo chưa thường xuyên, hiệu quả thấp, nhất là ở vùng sâu vùng xa.
Thứ ba: Công tác phối kết hợp với các cơ quan chức năng để lấy thông tin
về tôn giáo chưa thường xuyên, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp được
dư luận quan tâm.
Thứ tư: Rất nhiều phóng viên làm việc trong các báo - đài chưa được đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo và nghiệp vụ công tác tôn giáo.
Thứ năm: Nguồn lực đầu tư cho công tác tuyên truyền về chính sách tôn
giáo cũng như quản lý nhà nước về tôn giáo còn hạn chế. Cơ quan chủ quản
cũng chưa có sự nhận thức đúng mức đối với công tác này, cho rằng lĩnh vực
tôn giáo là của ngành khác.
Thứ sáu: Cơ quan tuyên giáo cũng như các ngành chức năng làm công tác
tôn giáo chưa thường xuyên định hướng, chỉ đạo cụ thể và mở lớp tập huấn cho
truyền thông tôn giáo và cho đội ngũ cán bộ phóng viên.
Tiểu kết chương 3

Công tác truyền thông tôn giáo về chính sách, pháp luật tôn giáo và công tác
tôn giáo đã đạt được những kết quả tích cực. Kết quả điều tra khảo sát đối
tượng là người theo tôn giáo ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã cho những đánh
giá về hiệu quả của truyền thông tôn giáo được toàn diện và khách quan hơn.
Những hạn chế, yếu kém và bất cập của truyền thông tôn giáo liên quan trực
tiếp và chủ yếu từ yếu tố con người chỉ đạo, quản lý truyền thông; từ năng lực
chuyên môn và phẩm chất của người xây dựng nguồn phát, đên nguồn lực đầu
tư cho con người và phương tiện…
Bài học về nhận thức và phương pháp ở đây là: nghiên cứu và khảo sát về
truyền thông tôn giáo, không được dừng lại ở một mặt, một chiều; mà phải toàn
diện, nhiều chiều, không áp đặt chủ quan. Truyền thông tôn giáo không chỉ là
sự phản ánh khách quan về đời sống thực tiễn tôn giáo vốn luôn là một hệ thống
cấu trúc đa dạng đến phức tạp, mà còn phản ảnh về mức độ và trình độ dân chủ
của xã hội Việt Nam.
Chương 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
17
4.1. Những vấn đề đặt ra đối với truyền thông tôn giáo
ở nước ta hiện nay
4.1.1. Chủ thể truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị cần nâng cao
trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tôn giáo phù hợp với tình hình trong nước, quốc tế và đúng với quan điểm
của Đảng
Công việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo trước hết
và chủ yếu thuộc về các cấp của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là ở cấp Trung
ương. Đóng góp đắc lực vào đó đòi hỏi trách nhiệm rất cao cả của chủ thể
truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước, trong việc đảm bảo mối quan hệ
hữu cơ giữa chủ thể truyền thông tôn giáo với phương tiện truyền thông và với
đối tượng truyền thông.

4.1.2. Truyền thông tôn giáo phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn giữa
yêu cầu rất cao về việc nhận thức đúng chính sách, pháp luật tôn giáo với
trình độ văn hoá, dân trí không đồng đều của nhân dân ta
Vấn đề này được đặt ra từ cơ sở là chất lượng thực tế của hệ thống truyền
thông đại chúng về tôn giáo ở Việt Nam vừa qua và hiện nay; cũng dựa trên
thực tế về trình độ kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị của nhân dân Việt Nam nói
chung và đồng bào các tôn giáo nói riêng. Từ đây, có yêu cầu rất cao về tính
lịch sử cụ thể sao cho nội dung và hình thức truyền thông phù hợp, hiệu quả đối
với từng loại đối tượng.
4.1.3. Truyền thông tôn giáo cần đặt trong quá trình giải quyết mâu thuẫn
giữa âm mưu chia rẽ dân tộc, chống phá chế độ của các thế lực xấu, với việc
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng dựng và bảo vệ Tổ quốc
Vấn đề này đòi hỏi quá trình truyền thông tôn giáo trong tình hình hiện nay
cần phải nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ nghĩa yêu nước, yêu chế độ, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ tương lai của đất nước. Diieeuf
này trước hết ở đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị,
trong đó có cán bộ trực tiếp làm công tác truyền thông tôn giáo.
4.1.4. Truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị luôn đòi hỏi sự phối
hợp thống nhất, chặt chẽ giữa các bộ, ngành, tổ chức, nhưng sự phối hợp đó
vẫn đang còn lỏng lẻo, chồng chéo và lúng túng
Vấn đề này đòi hỏi phải có quy định pháp quy và quy chế trách nhiệm trong
phối hợp của các cơ quan, đơn vị trực tiếp làm công tác truyền thông của các tổ
chức hợp thành hệ thống chính trị, từ tổ chức Đảng, chính quyền, dân vận, mặt
trận và các đoàn thể quần chúng.
4.2. Khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của truyền
thông tôn giáo ở nước ta
4.2.1. Đảng và Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển hệ thống truyền
tôn giáo của hệ thống chính trị đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
18

- Trước hết cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về
tôn giáo, công tác tôn giáo và truyền thông tôn giáo.
- Phát triển một hệ thống truyền thông đại chúng hiện đại, đủ mạnh là điều
kiện để mở rộng khả năng hợp tác, trao đổi, tiếp thu những giá trị văn hoá tích
cực của nhân loại, mở mang dân trí và tăng cường ảnh hưởng cũng như vị thế
của đất nước trên trường quốc tế. Đây là điều kiện cho hệ thống truyền thông
tôn giáo, phát huy sức mạnh của mình, đóng góp tích cực nhất cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Việc phát triển truyền thông ở nước ta
không thể dừng lại ở bề rộng, mà cần có chiến lược phát triển về chiều sâu, gắn
liền với phát triển và làm chủ các công nghệ, phương tiện truyền thông hiện đại
hiện nay.
- Các phương tiện truyền thông đại chúng; vai trò của báo in, báo hình, báo
nói… trong truyền thông tôn giáo phải bảo đảm nhu cầu thông tin, định hướng
và giáo dục của truyền thông. Các báo này phải có sự quản lý, định hướng chặt
chẽ từ Nhà nước.
- Đẩy mạnh truyền thông tôn giáo tới đối tượng là bạn bè quốc tế, thông qua
các phương tiện truyền thông, bằng các thứ tiếng nước ngoài khác nhau như
tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc, Tây Ban Nha… Qua đó, giúp người nước ngoài
và đồng bào Việt kiều hiểu về chủ trương, chính sách, pháp luật tôn giáo và tình
hình tôn giáo ở Việt Nam. Truyền thông tôn giáo sẽ có vai trò như một chiếc
cầu nối, làm tăng thêm hiểu biết, thiết lập quan hệ báo chí- truyền thông ra bên
ngoài, đưa hình ảnh đất nước Việt Nam ra thế giới.
- Tổ chức nghiên cứu truyền thông tôn giáo, tiến tới xây dựng chuyên ngành
truyền thông tôn giáo trong ngành tôn giáo học; đồng thời phối hợp giữa tôn
giáo học và truyền thông học cũng như các ngành khoa học khác để nghiên cứu
về truyền thông tôn giáo, cả trong nước và trên thế giới.
4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
truyền thông tôn giáo
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về truyền thông tôn giáo nhất thiết và
trước hết phải gắn với quá trình Đảng và Nhà nước chăm lo đến sự phát triển kinh

tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân có đạo,nhất là đối với đồng bào tôn giáo ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Đây là cách tốt nhất để đồng bào các tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác truyền thông tôn
giáo, phụ thuộc và thể hiện trước hết là ở nhận thức đúng của các cấp uỷ
đảng về vai trò và vị trí của hệ thống các phương tiện truyền thông tôn giáo
trong đời sống xã hội, về trách nhiệm của mình và cơ chế làm việc hợp lý với
hệ thống này. Từ đó hoạt động lãnh đạo truyền thông vừa có hiệu quả, vừa
tôn trọng và phát huy được vai trò và trách nhiệm của các phương tiện truyền
thông tôn giáo.
- Trong lãnh đạo cần chỉ đạo việc tổng kết hoạt động truyền thông tôn giáo,
rút ta những bài học kinh nghiệm và những vấn đề lý luận về truyền thông tôn
giáo trong điều kiện mới. Phải kiên quyết khắc phục, sửa chũa những bất cập,
hạn chế trong thực hiện truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước, điều đó
19
đòi hỏi rất cao ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực và quyết tâm trực tiếp của các cấp
uỷ đảng.
- Quản lý tốt hệ thống các phương tiện truyền thông tôn giáo, trước hết là
“sắp xếp lại và qui hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tấn,
báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thông tin, tránh lãng phí”.
Việc sắp xếp và qui hoạch phải dựa vào chiến lược phát triển cơ bản và lâu dài,
tính toán đến các quan hệ, ảnh hưởng trong nước và quốc tế.
- Vấn đề hàng đầu để quản lý tốt hệ thống truyền thông đại chúng là hình
thành tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực truyền thông trên cơ sở
một qui mô thích hợp, một cơ chế vận hành hợp lý. Cùng với tổ chức bộ máy là
bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ có chất lượng, bảo đảm cho hoạt
động có hiệu quả của bộ máy quản lý.
- Quản lý tốt các phương tiện truyền thông tôn giáo không tách rời điều kiện
quan trọng là xây dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý. Sự phát triển năng
động của lĩnh vực này đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung, cụ thể hoá về luật

pháp và các chế định pháp lý, tạo ra các chuẩn mực hợp lý, tích cực cho cả hai
người quản lý và người bị quản lý.
- Để quản lý tốt truyền thông tôn giáo, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật cho hoạt động truyền thông tôn giáo. Đó không chỉ là phương
tiện bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, bảo vệ các hoạt động, mà còn để đấu tranh,
ngăn chặn việc lợi dụng tôn giáo của các thế lực xấu. Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật trên một số mặt sau.
- Tăng cường quản lý nhà nước gắn liền với công tác kiểm tra việc tổ chức
thực hiện các văn bản pháp luật, chương trình kế hoạch đối với công tác truyền
thông tôn giáo đã được Chính phủ phê duyệt. Tổng kết rút kinh nghiệm, tiếp tục
hoàn thiện bổ sung lại các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với thực tế.
4.2.3. Đổi mới nội dung và hình thức truyền thông tôn giáo
- Truyền thông tôn giáo cần đổi mới mạnh mẽ phương thức truyền thông, để
truyền thông tôn giáo mang tính ẩn dụ, nhưng gắn với cuộc sống và phù hợp
với trình độ nhận thức của nhân dân; truyền thông tôn giáo phải thề hiện được
giá trị đích thực của tôn giáo, không gói gọn trong bất cứ hình thức diễn đạt
theo nghĩa đen nào và truyền thông cần phải phong phú, đa dạng với mọi hình
thức truyền thông.
- Các cơ quan chức năng truyền thông cần định hướng cho báo - đài, nhất là
báo chí chuyên ngành tôn giáo tuyên truyền một cách hiệu quả, kịp thời các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Đặt ra những đòi hỏi
mới và ở tầm cao hơn cho truyền thông tôn giáo; người làm công tác này phải
được trang bị lý luận chính trị vững vàng, có kiến thức và kinh nghiệm thực tế
đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của lĩnh vực thông tin, truyền thông và tôn
giáo trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
- Nội dung tuyên truyền cần tập trung đề cập các chủ trương, chính sách
mới nhất về tôn giáo do Đảng và Nhà nước ban hành; làm rõ những điểm mới
trong các Nghị quyết, các quy định, các văn bản pháp luật liên quan đến tôn
20

giáo. Khẳng định quá trình đổi mới nhận thức, tư duy của Đảng và Nhà nước về
tôn giáo và chính sách tôn giáo.
- Nội dung tuyên truyền cần được chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng,
tránh đề cập những việc trong quá khứ, xóa đi những mặc cảm tôn giáo; phải
chuẩn xác, khoa học, tạo sức thuyết phục đối với chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Nhanh nhạy trong việc thông tin các điểm nóng, các vụ việc liên quan đến tôn
giáo với thái độ khách quan, phê phán và đấu tranh với những việc lợi dụng tôn
giáo, vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an ninh. Bên cạnh việc phê phán, đấu
tranh, cũng cần biểu dương đồng bào các tôn giáo, khẳng định những giá trị
nhân văn, những nét đẹp của tôn giáo.
- Nội dung tuyên truyền cần tăng cường công tác thông tin đối ngoại, một
mặt đấu tranh trực diện chống lại các luận điệu sai trái, thù địch; mặt khác kịp
thời tuyên truyền về các sự kiện chính trị lớn của đất nước, các hoạt động hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực; giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử,
văn hoá, con người Việt Nam ra nước ngoài.
Đổi mới hình thức truyền thông cần đi sâu vào một số vân đề sau:
- Các hình thức truyền thông đa dạng, phong phú, như qua các hội nghị, hội
thảo, các chương trình phát thanh, truyền hình Trong công tác truyền thông
với đồng bào các tôn giáo cần đặc biệt tăng cường đối thoại, nhất là khi có các
vụ việc liên quan đến việc khiếu kiện, tập trung đông người.
- Tăng cường định hướng truyền thông trước những vấn đề tôn giáo mới nảy
sinh được dư luận quan tâm là rất quan trọng. Mỗi khi có các chủ trương, chính
sách, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, hay các vụ việc tôn giáo, các cơ quan
chức năng như Ban tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin Truyền thông, Ban
Tôn giáo Chính phủ…cần tổ chức họp báo để thông tin và định hướng công tác
tuyên truyền và phương hướng giải quyết thống nhất.
Trong khi tuyên truyền về các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của các tổ chức
tôn giáo, ngoài việc chú ý, thận trọng, chính xác từng chữ, từng câu, còn phải
chú ý tính khách quan trung thực của vấn đề, tránh “thổi phồng” hoặc “bôi đen”
sự việc sẽ làm sự việc bình thường trở nên phức tạp.

Nâng cao trách nhiệm của cơ quan tuyên truyền các cấp, cần:
- Nắm chắc tình hình, diễn biến của đời sống tôn giáo trong đồng bào có
đạo, đặc biệt những nơi có tỷ lệ đồng bào có đạo cao, để xây dựng định hướng
nội dung công tác tuyên truyền, góp phần đưa đồng bào tôn giáo gắn bó đồng
hành cùng dân tộc.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan tuyên truyền, ở các cấp các ngành là một yêu
cầu rất cần thiết nhằm đảm bảo tính đa dạng, phong phú, nhiều chiều của thông
tin, giúp các tầng lớp nhân dân nói chung và đồng bào có đạo nói riêng hiểu
đúng các nội dung thông tin và chấp hành tốt các quy định, chính sách, pháp
luật về tôn giáo.
- Mỗi khi có các chủ trương, chính sách, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,
hay các vụ việc liên quan đến tôn giáo, các cơ quan chức năng như Ban tuyên
giáo Trung ương, Bộ Thông tin Truyền thông, Ban Tôn giáo Chính phủ…cần tổ
chức họp báo để thông tin và định hướng công tác truyền thông. Tổ chức hội
21
nghị định kỳ nhằm kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác truyền
thông theo khu vực, vùng miền nơi đông đồng bào tôn giáo.
Truyền thông các “điểm nóng” liên quan đến tôn giáo.
Việc đấu tranh để làm rõ sự việc, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù đich là rất cần thiết, nhưng báo chí cũng như công tác tuyên truyền của
ta thường phản ứng chậm. Để khắc phục tình trạng này rất cần có sự chủ động
từ phía cơ quan quản lý báo chí, cơ quan tuyên giáo có ngay chủ trương trước
những vụ việc liên quan đến tôn giáo, có được phép thông tin không, và thông
tin đến đâu, mức độ nào, để các báo không bị động chờ đợi. Trong thông tin cần
làm rõ bản chất của vụ việc, khách quan, trung thực, chỉ rõ những sai trái, vi
phạm, trách nhiệm thuộc về đâu, đề xuất các hình thức giải quyết xử lý có lý có
tình, tạo ra sự đồng thuận trong dư luận.
4.2.4. Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, cộng tác viên, tuyên truyền viên
làm công tác truyền thông tôn giáo
- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm công tác

truyền thông tôn giáo, để họ có hiểu biết sâu về tôn giáo, nắm được giáo lý,
giáo luật, lễ nghi của từng tôn giáo. Về nghiệp vụ, cần quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền cho đội ngũ làm công tác truyền thông tác tôn
giáo. Trang bị cho họ những kiến thức căn bản về các chủ trương, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
- Cần tạo điều kiện để các phóng viên, biên tập viên, tuyên truyền viên về
tôn giáo được học các lớp nghiên cứu, bồi dưỡng tại các trung tâm nghiên cứu
về tôn giáo. Phải coi đây là giải pháp căn bản, đầu tiên để họ có đủ kiến thức và
bản lĩnh tiếp cận, phản ánh những vấn đề liên quan đến tôn giáo. Việc xây
dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên có trình độ, có năng
lực xử lý thông tin, và có bản lĩnh khi tác nghiệp báo chí về tôn giáo là công
việc quan trọng của các cơ quan báo- đài.
- Bên cạnh đội ngũ chuyên nghiệp, cần phải xây dựng, củng cố cơ sở chính
trị, các nhân cốt, trí thức các tôn giáo, và các chức sắc tiến bộ, có cảm tình với
chính quyền, có vị thế trong các tổ chức chính trị xã hội để góp tiếng nói trong
công tác truyền thông.
- Những vụ việc phức tạp có liên quan đến tôn giáo, đội ngũ cán bộ phóng
viên cần được cung cấp thông tin, hoặc được tìm hiểu để có được thông tin
chính xác, đầy đủ, có thế, khi phản ánh mới chính xác, khách quan, mới góp
phần làm dịu tình hình. Tránh tình trạng, có nhiều vấn đề, nhiều vụ việc bức
xúc, hay các điểm nóng, được dư luận quan tâm nhưng báo chí lại bỏ qua vì tâm
lý ngại va chạm, thậm chí không dám vào cuộc vì tính chất phức tạp và tế nhị,
nhạy cảm của nó.
- Để công tác tuyên truyền có hiệu quả, thiết thực, đi vào cuộc sống cần tập
trung quan tâm đầu tư cho cán bộ truyền thông tôn giáo, từ đào tạo con người,
phương tiện, điều kiện làm việc, ngân sách và ưu đãi về nghề nghiệp.
22
Tiểu kết chương 4
Thực trạng truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị, mà chủ chốt là
Đảng và Nhà nước ta, qua nhận thức từ cả hai phía: chủ thể và đối tượng, đã

cho thấy những thành công đáng kể, song cũng có không ít những lo ngại, phân
vân. Trong đó vấn đề nhận thức về tôn giáo và truyền thông tôn giáo còn bất
cập, lạc hậu đã là lực cản lớn đối với hiệu quả công tác truyền thông tôn giáo.
Công tác truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị hiện nay luôn có yêu cầu
phát huy những thành tích, khắc phục những hạn chế yếu kém. Về việc này
thiết nghĩ phải được nhận thức và giải quyết từ cả những vấn đề đặt ra cấp thiết
trước mắt và ở lâu dài, tầm chiến lược.
KẾT LUẬN
1. Từ khi đất nước đổi mới, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
cũng đã được đổi mới "căn bản và mạnh mẽ", dựa trên căn bản đời sống tôn
giáo trong nước và quốc tế và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân
ta, vốn đã và đang được mở rộng, phát triển hơn hẳn các thời kỳ trước đây. Tình
hình đó khẳng định, quan điểm, chính sách đối với tôn giáo chỉ luôn đúng đắn,
khi nó luôn phải xuất phát từ bản thân đời sống xã hội nói chung và tình hình
tôn giáo nói riêng, của Việt Nam và thế giới thời đương đại; đồng thời phải biết
đổi mới nhận thức về tôn giáo sao cho đúng nghĩa là, chủ nghĩa Mác - Lênin là
kim chỉ nam, phương pháp luận chứ không phải là áp đặt và giáo điều.
2. Truyền thông tôn giáo ở Việt Nam, với tính cách là một lĩnh vực khoa
học, cho đến nay vẫn là điều khá mới mẻ. Với tính cách là một hoạt động của
đời sống xã hội, truyền thông tôn giáo ở nước ta đã có nhiều hoạt động tích cực,
song cũng khá rõ ràng để nhận ra rằng, nó còn thiếu sự dẫn dắt của lý luận, nên
đã không tránh khỏi hoạt động dựa vào cảm tính và ít hiệu quả. Phát triển
truyền thông học ở nước ta do đó có yêu cầu cấp thiết là phải quan tâm đến
truyền thông tôn giáo, xem nó là một bộ phận không thể thiếu của truyền thông
nói chung trên cả phương diện nhận thức cũng như thực tiễn. Đáp ứng về việc
đó, tác giả đã dành sự công phu và đam mê để tiếp cận tới vấn đề truyền thông
tôn giáo từ phương diện truyền thông học, triết học và nhất là của tôn giáo học.
Song đó chỉ là dấu ấn đầu tiên, là mấy nhận thức ban đầu, còn ở phía trước,
theo tác giả, nó đang và sẽ đặt ra rất nhiều vấn đề cho những nghiên cứu cơ bản
và chuyên sâu, trước hết là ngành tôn giáo học.

3. Công tác truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị Việt Nam thời gian
qua đã góp phần không nhỏ vào sự thành công, tính hiệu quả của công tác tôn
giáo, góp phần làm ổn định chính trị - xã hội, tạo niềm tin cho tín đồ, chức sác
các tôn giáo đối với Đảng, với chế độ và động viên họ tích cực đóng góp nhiều
hơn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay và trong thời kỳ Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết của mọi
yếu tố cấu thành truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước, từ chủ thể, đối
tượng cho đến phương tiện truyền thông, với cả thời gian trước mắt cũng như
23
lâu dài. Điều đó cho thấy chủ thể truyền thông ở đây là các tổ chức hợp thành
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay phải quyết liệt hơn trong việc thực hiện
các giải pháp đổi mới công tác truyền thông tôn giáo; phải sâu sát hơn nữa
trong việc bám sát thực tiễn đời sống tôn giáo; phải nâng cao hơn nữa trách
nhiệm là chủ chốt của truyền thông tôn giáo.
4. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về truyền thông tôn giáo, luận án đề xuất
một số khuyến nghị, tập trung vào vai trò trách nhiệm của chủ thể truyền thông
từ các góc độ: lãnh đạo, quản lý, đầu tư và công tác cán bộ. Cụ thể là: Chủ thể
truyền thông tôn giáo của hệ thống chính trị cần nâng cao trách nhiệm trong
việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với tình
hình trong nước, quốc tế và đúng với quan điểm của Đảng; Truyền thông tôn
giáo phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu rất cao việc nhận thức
đúng về chính sách, pháp luật tôn giáo với trình độ văn hoá, dân trí không đồng
đều của nhân dân ta; Truyền thông tôn giáo đặt trong quá trình giải quyết mâu
thuẫn giữa sự chia rẽ dân tộc, chống phá chế độ của các thế lực xấu, với việc
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, cộng tác viên, tuyên truyền viên làm công
tác truyền thông tôn giáo.
Những kiến nghị đó thực chất là những thao tác của lý luận và thực tiễn
trong việc giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của lĩnh vực truyền thông tôn giáo

Việt Nam hiện nay. Đó chính là những mâu thuẫn biện chứng, mà không giải
quyết thì không thể hy vọng truyền thông tôn giáo Việt Nam phát triển tương
xứng với thời đại mới. Nhận thức được vấn đề đã là vô cùng quan trọng, song
nó cũng mới chỉ là khâu ban đầu, là tiền đề mà thôi. Tiếp theo, chủ thể cần
tạo ra môi trường, cách thức thực hiện và các điều kiện cần và đủ cho quá
trình triển khai trên thực tế. Tuy nhiên ở đây, như chúng tôi đã từng khẳng
định: yếu tố quyết định thành công vẫn là yếu tố con người, đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức của hệ thống truyền thông tôn giáo Việt Nam có đủ tầm
- đáp ứng cho những yêu cầu phát triển hiện nay hay không. Về điều này, tác
giả tự thấy bản thân mình và đội ngũ làm tôn giáo học nước nhà là những
người trong cuộc.
Hy vọng đó là những đóng góp nhỏ của tác giả luận án trong việc xây
dựng và phát triển chuyên ngành truyền thông tôn giáo và tôn giáo học ở
nước ta hiện nay./.
24

×