Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận an vấn đề hình thành con người mới việt nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.07 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính cách là tổng hòa các quan hệ xã hội con người đặc trưng cho trình độ
hoàn thiện của chế độ xã hội. Sự phát triển con người là mục đích tối thượng của xã
hội, là chỉ báo quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người. Văn kiện
Hội nghị Trung ương V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã khẳng định “Nguồn
lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức
mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam”
Khẳng định trên, lại được Đảng ta nhấn mạnh lại lần nữa tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện ”.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng, vấn đề con người
luôn được đặc biệt quan tâm. Bởi chúng ta hiểu rằng đổi mới trước hết phải bắt đầu
từ việc đổi mới con người, sẻ không có sự đổi mới xã hội nếu không có sự đổi mới
xuất phát từ con người. Đây là nền tảng sâu xa để xã hội phát triển, bởi mục đích xã
hội nếu không chuyển thành những động cơ tư tưởng bên trong của các cá nhân thì
không thể thực hiện được. “Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có
con người xã hội chủ nghĩa”.
Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam đang đi vào chiều sâu. Hơn thế nữa, sự nghiệp hiện đại hóa ở nước ta
mới được bắt đầu. Chúng ta đang ở trong bước chuyển từ xã hội truyền thống sang xã
hội hiện đại. Sự đụng độ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế,
sự bất cập của những năng lực, phẩm chất con người trong mẫu người truyền thống
trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, của xã hội hiện đại khiến cho việc tích cực chủ
động nghiên cứu vấn đề hình thành con người mới trở thành cấp thiết cả về lý luận
lẫn thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của luận án: Trên cơ sở những quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và con
người mới luận án phân tích những đặc điểm của con người Việt Nam và những nhân


1
tố ảnh hưởng đến việc hình thành con người mới Việt Nam. Từ đó luận án đề xuất
một số giải pháp có tính định hướng nhằm thúc đẩy sự hình thành con người mới
trong quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Để đạt mục đích này, nhiệm vụ của luận án là:
Thứ nhất: Tổng quan tình hình nghiên cứu về con người và con người mới ở Việt
Nam những năm gần đây.
Thứ hai: Xác định rõ nội dung của quan điểm Mác - Lênin và của Hồ Chí Minh về
con người và con người mới.
Thứ ba: Trình bày và phân tích một số nhân tố cơ bản tác động đến quá trình hình
thành con người mới Việt Nam. Nêu ra và phân tích những thành công hạn chế của
quá trình xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay.
Thứ tư: Đề xuất và phân tích một số giải pháp có tính định hướng trong việc xây
dựng con người mới ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề hình thành con
người mới Việt Nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong luận án này cụm từ “quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay” được hiểu là “quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”
Xuất phát từ những nhiệm vụ được nêu trên trong phạm vi một luận án triết học,
chúng tôi chỉ phân tích những tác động của sự nghiệp đổi mới, của kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với con người Việt Nam hiện nay. Phân tích
thực trạng của con người Việt Nam trước sự tác động của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, của xu hướng hội nhập quốc tế. Xác định những nội dung cơ
bản cần hướng tới xây dựng của con người mới trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất một số
giải pháp có tính định hướng để xây dựng con người mới Việt Nam đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người và con người mới.
2
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp biện chứng duy vật,
kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lô gích và
lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh
5. Đóng góp mới của luận án
- Trình bày một cách có hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và con người mới.
- Làm rõ những nhân tố quy định sự hình thành, phát triển con người mới Việt
Nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đề xuất và phân tích một số giải pháp có tính định hướng nhằm thúc đẩy sự hình
thành con người mới Việt Nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án có thể dùng làm tài liêu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy vấn đề
con người, con người mới, vấn đề nhân cách.
- Luận án cũng là những gợi ý, những khuyến nghị đối với sự nghiệp xây dựng
con người ở nước ta trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo. Kết cấu của luận án
chia làm 4 chương, 8 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề con người, con người mới và sự tác động
của sự nghiệp đổi mới tới con người Việt Nam hiện nay
1.1.1. Những quan điểm về con người và con người mới.
Vấn đề con người nói chung và con người mới nói riêng được nghiên cứu ngay từ
trước thời đổi mới. Trong những năm sáu mươi - bảy mươi mục tiêu và nhiệm vụ
chính trị - xã hội ở nước ta là đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam và xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vấn đề nghiên cứu con người ở giai đoạn này gắn liền
với con người truyền thống. Nhiều ấn phẩm của các tác giả Vũ Khiêu, Bùi Đăng Duy,
Nguyễn Đức Sự đã đi sâu làm rõ bản chất khí phách con người Việt Nam truyền
thống, kết hợp với những phẩm chất lý tưởng cộng sản. Việc nghiên cứu con người ở
3
giai đoạn này góp phần đưa ra mẫu người chân chính làm cơ sở cho việc xây dựng
mẫu hình con người mới Việt Nam.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV,
vấn đề nghiên cứu triết học về con người được mở ra nhiều hướng. Trong thời kỳ
này, trọng tâm nghiên cứu về con người là con người Việt Nam, nhằm góp phần vào
việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Triết học vừa mới ra đời đã
công bố rất nhiều bài thể hiện quan niệm về con người mới từ nhiều phương diện như
đạo đức học, tâm lý học, văn học, nghệ thuật: “Đạo đức học Mác - Lênin và vấn đề
xây dựng con người mới” của Trần Thanh; “Tâm lý học Mác - Lênin và vấn đề xây
dựng con người mới ” của Đỗ Long; “Con người mới trong văn nghệ hiện nay” của
Vũ Khiêu; “Văn học xã hội chủ nghĩa và con người mới xã hội chủ nghĩa ” của
Thành Duy đóng góp của các công trình này trước hết là nội dung con người mới:
Con người mới là những con người có tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa và có
năng lực làm chủ; lao động có nhiệt tình cách mạng, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ
thuật, có năng suất cao, thật thà trong lao động sản xuất và trong quản lý, gắn liền
lợi ích riêng với lợi ích tập thể, lợi ích nhà nước, không xâm phạm của công, cống
hiến tất cả cho sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới độc lập tự do và phồn vinh của đất
nước.
Năm 1978, Viện triết học đã cho ra đời công trình tập thể dưới sự chủ biên của
Phạm Như Cương “Vấn đề xây dựng con người mới ”. Sau đó vào năm 1981 tại hội
nghị khoa học về vấn đề xây dựng con người mới do Ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam tổ chức khẳng định: Mục tiêu con người mới cần đạt tới là con người có trình độ
và năng lực làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và bản thân. Nội dung của việc xây
dựng con người mới là xây dựng thế giới quan mới, đạo đức mới và nếp sống mới.

Con người mới phải có những phẩm chất cơ bản như: thế giới quan khoa học, luôn
quan tâm tới lợi ích tập thể, có tinh thần và thái độ đúng đắn, tư tưởng và tình cảm
lành mạnh, yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn.
1.1.2. Những quan điểm nghiên cứu sự tác động của sự nghiệp đổi mới đối với sự
biến đổi con người Việt Nam hiện nay
4
Những nghiên cứu gần đây ở nước ta đã tập trung nhiều vào việc phân tích sự tác
động của sự nghiệp đổi mới đối với sự biến đổi của con người và vai trò con người
trong sự nghiệp đổi mới đó. Tiêu biểu cho xu hướng này có các nhà nghiên cứu sau:
Phạm Như Cương, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Minh Hạc, Phạm Văn
Đức Đặc biệt, Chương trình khoa học - công nghệ KX - 07 “Con người Việt Nam -
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội ” do GS, TS. Phạm Minh Hạc
làm chủ biên với sự tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín thuộc chuyên nghành
khác nhau đã có sự phân tích sâu sắc nhiều khía cạnh về con người, về sự biến đổi
của con người trong những điều kiện mới như: Con người Việt Nam truyền thống và
hiện đại, sự biến đổi về định hướng các giá trị xã hội, những động lực chính trị - tinh
thần quan trọng nhất hiện nay, thực trạng và vấn đề đào tạo lại nguồn nhân lực Đặc
biệt công trình đã đưa ra được cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con
người và sự biến đổi của con người trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thứ nhất, Nhận thức chung về con người Việt Nam; Thứ hai, Các
biến động thang giá trị trong con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới; Thứ ba,
Vấn đề sinh thể con người Việt Nam và giáo dục, bồi dưỡng nhân tài.
Bàn về vai trò của nhân tố chính trị, của dân chủ hóa xã hội và tác động của dân
chủ hóa xã hội đối với con người Việt Nam hiện nay có luận án tiến sỹ “Vai trò của
nhà nước đối với việc tiếp tục thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam”
(Trần Thị Băng Thanh, bảo vệ tại Hà Nội, năm 2002); “Đảm bảo quyền con người
trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam” (Luận án tiến sỹ của Tường Duy Kiên, bảo
vệ tại Hà Nội, năm 2004); “Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn ”
(Nguyễn Tiến Phồn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2001); “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người toàn diện” (Nguyễn Hữu Công, Nhà xuất bản chính

trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010)
Ở góc độ sự tác động của văn hóa, giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế đối với sự
biến đổi tinh thần, lối sống con người Việt Nam có các công trình như “Bốn mươi
năm Viện Triết học - một số kết quả nghiên cứu” (GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn chủ
biên, Viện Triết học, Hà Nội, năm 2002); “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” (GS,
TS. Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004); “Giá trị
5
truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” (Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên, Nhà xuất bản Quốc gia, Hà Nội, năm 2002)
1.2. Tổng quan nghiên cứu về hiện trạng, hướng phát triển và giải pháp xây
dựng con người mới trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
1.2.1. Tổng quan nghiên cứu hiện trạng và hướng phát triển của con người Việt
Nam hiện nay
Vấn đề phân tích thực trạng phát triển của con người Việt Nam được các tác giả
như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm, Thành Duy, Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm
Văn Đức, Nguyễn Hữu Công, Nguyễn Hữu Đễ nghiên cứu trong nhiều tác phẩm
khác nhau và đã nêu lên một số giải pháp phát triển con người cũng như con người
mới trên các lĩnh vực cụ thể, trên các khía cạnh cụ thể. Đặc biệt, trong tác phẩm “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ” của Nguyễn Hữu Công đã tập
trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng và phát triển con người toàn
diện nhằm tạo ra những con người mới ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu các giải pháp xây dựng con người mới trong sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Vấn đề xây dựng và phát triển con người mới trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một nội dung
quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan niệm và giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”
trong cuốn Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện của Thành Duy, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000. Bàn về một số giải pháp cụ thể trong
việc xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam hiện nay có “15 năm đổi mới
tư duy về các vấn đề văn hóa - xã hội và xây dựng con người ” (Phạm Ngọc Quang và
Nguyễn Viết Thông, Tạp chí Triết học, số1, năm 2001). Ngoài ra có thể kể đến luận án
tiến sỹ triết học của Nguyễn Hữu Công với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người toàn diện ” bảo vệ năm 2001, tại Hà Nội và tác phẩm “ Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người toàn diện” (Nguyễn Hữu Công, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010)
6
Kết luận chương 1
Như vậy, qua tổng quan nghiên cứu vấn đề trên, có thể nói rằng vấn đề con người
và con người mới đã được đặt ra và nghiên cứu ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu
nghiên cứu triết học cho tới nay. Mặc dù, trong các công trình trước thời đổi mới có
nhiều thành tựu nhưng nhìn chung không tránh khỏi tính chất giáo điều, giản đơn.
Tính chất đó thể hiện nỗi bật ở chỗ nhấn mạnh quá mức tính quyết định của chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa đối với sự hình thành và phát triển con người.
Từ sau sự nghiệp đổi mới của Đảng năm 1986 đến nay thì vấn đề nghiên cứu con
người được đặt ra trên cách nhìn mới, nội dung của nó có bước chuyển biến mới về
chất. Các công trình đã đưa ra được cách nhìn tương đối tổng thể và có hệ thống vấn
đề con người đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, các công trình cũng chỉ mới đề cập đến
một số mặt của hiện trạng con người Việt Nam hiện nay, bàn đến một số nội dung về
hướng phát triển của con người Việt Nam, bước đầu có một số công trình đưa ra một
số giải pháp xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các tác giả chưa
nghiên cứu sâu và có hệ thống mối quan hệ giữa con người với quá trình định hướng
xã hội chủ nghĩa và hướng phát triển của con người mới Việt Nam, cũng như các giải
pháp để xây dựng con người mới Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Qua những kết luận trên, chúng tôi có thể khẳng định rằng, mặc dù cùng nghiên
cứu về con người trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,

nhưng luận án không trùng lặp với bất kỳ luận án hay công trình nào đã công bố.
Những tài liệu trên chỉ có giá trị tham khảo giúp cho việc nghiên cứu đề tài của tác
giả luận án.
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ HÌNH THÀNH CON
NGƯỜI MỚI
2.1. Khái niệm con người, con người mới
2.1.1. Khái niệm về con người
7
C. Mác và Ph. Ăngghen đã bác bỏ lối sùng bái con người trừu tượng, con người
chung chung, đứng ngoài lịch sử. Trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ănghhen,
con người bao giờ cũng cụ thể, cũng thuộc về một chỉnh thể xã hội nhất định có
tính lịch sử - một hình thái xã hội, một tập thể, một giai cấp, một dân tộc
Trong luận cương về Phoiơbắc, C. Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội ”
Theo chủ nghĩa Mác, việc hình thành bản chất của con người bao giờ cũng
thông qua quá trình xã hội hóa, tiếp thu kinh nghiệm văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần của con người, thông qua quá trình giao tiếp, giáo dục, đào tạo, lao động
mà thành.
Như vậy, theo C. Mác, con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu,
mà là sản phẩm của tự nhiên của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con người là
con người hiện thực, con người cụ thể cảm tính, bản chất con người hiện ra trong
lao động sản xuất, trong chinh phục thiên nhiên, trong đấu tranh giai cấp, trong
cải tạo xã hội.
Một điều cần khẳng định là, trong khi nhấn mạnh mặt xã hội của con người, các
nhà tư tưởng của chủ nghĩa Mác không hề phủ nhận hoặc xem nhẹ mặt tự nhiên,
mặt sinh học ở con người. Con người là một thực thể sinh học - xã hội. Song mặt
sinh học không phải là cái quyết định trong con người.
Ph. Ăngghen viết, lao động theo nghĩa nào đó đã sáng tạo ra con người lao động

đã tìm được sự thể hiện của nó cả trong tổ chức cơ thể của con người. C. Mác viết,
bản chất của cá nhân “không phải là cái bản chất thể xác trừu tượng của y, mà là
phẩm chất xã hội của y”
Vậy, con người là một thực thể xã hội, còn cái tự nhiên, cái sinh vật trong con
người chỉ là tiền đề cho việc thực hiện cái bản chất xã hội, mặt xã hội của con người.
Cái bản chất ấy bị quy định trước hết bởi môi trường xã hội, bởi một xã hội cụ thể
trong đó một người nào đó sinh sống và phát triển. Cá nhân bao giờ cũng chỉ đóng
vai một con người nhất định, cụ thể, một con người hiện thực, đang sống; kết hợp ở
mình sự phong phú của cái chung, cái riêng và cái đơn nhất.
8
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội của con người,
của cá nhân, về mối quan hệ biện chứng giữa cái sinh vật và cái xã hội trong con
người đã bác bỏ hoàn toàn những tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng
thời, nó đặt cơ sở khoa học cho việc đào tạo và phát triển con người mới của xã hội
tương lai - xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản.
2.1.2. Khái niệm con người mới
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin con người mới là con người phát triển
đầy đủ tối đa năng lực sẵn có trên tất cả các mặt: đạo đức, trí tuệ, thể hiện tình cảm,
nhận thức hành động, thẩm mỹ và khả năng cảm thụ cái đẹp. V. I. Lênin cho rằng, đó
là “những con người phát triển về mọi mặt, được chuẩn bị về mọi mặt và biết làm
mọi việc”. Con người mới, hay con người của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và xã hội
cộng sản cũng vận động biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, của lực lượng sản
xuất, gắn liền với những điều kiện kinh tế, chính trị ở mỗi giai đoạn khác nhau.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của triết học
phương Đông và phương Tây, khi bàn về con người Hồ Chí Minh khẳng định: Con
người là con người xã hội, là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã
hội; Con người là sự thống nhất giữa con người giai cấp và con người nhân loại; Con
người là sự thống nhất giữa con người truyền thống và con người hiện đại.
Điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người chính là con người cách
mạng, con người mới có đầy đủ các phẩm chất, năng lực, nhân cách, để đáp ứng sự

nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản. Con người ấy có những phẩm
chất cơ bản như: vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên; có tinh thần kỷ luật tự
giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh, ý thức lao động cần cù; có lối sống lành mạnh,
văn minh, coi trọng nghĩa tình; có tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Tóm lại, từ lý luận chung của triết học Mác - Lênin về con người mới đến những
quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới chúng ta có thể khẳng định rằng: con
người mới là con người của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản - là con
người phát triển toàn diện. Đó là con người có đủ phẩm chất và năng lực xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; là con người lao động mới; là
9
con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng; là con
người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao. Trong giai đoạn hiện nay, con
người mà chúng ta đang hướng tới xây dựng là con người phát triển toàn diện với các
đặc trưng cơ bản dưới đây.
1. Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.
2. Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc Việt Nam.
3. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ sinh thái.
4. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ luật, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
5. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn, thẫm
mỹ và thể lực. [25, 59]
2.2. Những nhân tố tác động đến quá trình hình thành con người mới
2 .2.1. Lợi ích với tính cách là cơ sở của sự hình thành con người mới

Quan niệm Mácxít nhìn nhận sự hình thành và phát triển con người mới được thể
hiện và thực hiện thông qua hoạt động trước hết là lao động và cùng với lao động là
các hoạt động mang tính xã hội khác.
Với tính cách là biểu hiện của nhu cầu, là cái đáp ứng nhu cầu, lợi ích là động lực
trực tiếp của hoạt động con người. Đồng thời lợi ích khi được thực hiện lại tạo ra
những điều kiện cho con người mở rộng và phát triển các quan hệ và hoạt động. Mặc
dù vậy, trong nhiều trường hợp, mục đích của hoạt động và kết quả hoạt động không
trực tiếp làm thỏa mãn nhu cầu con người. Trong trường hợp ấy, hoạt động của con
người trực tiếp hướng đến lợi ích, tức là hướng đến thỏa mãn nhu cầu. Chính vì vậy,
lợi ích là động lực của hoạt động của con người mới, là cơ sở của sự hình thành con
người mới.
Ở những xã hội mà hoạt động của con người dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất thì lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích của các giai cấp thường là
10
mâu thuẫn nhau. Điều ấy không chỉ dẫn tới những méo mó con người mà cùng với
nó, sự phát triển của người này, giai cấp này lại dẫn đến sự cản trở sự phát triển của
người khác, giai cấp khác.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay, việc giải quyết một cách hợp lý tương
quan lợi ích giữa các thành phần kinh tế, giữa các lĩnh vực hoạt động của xã hội, giữa
các thế hệ người là cơ sở và là động lực sâu xa của sự hình thành và phát triển con
người mới Việt Nam hiện nay.
2.2.2. Vai trò của nhân tố chính trị đối với sự hình thành và phát triển con người mới
Chính trị là một trong những nhân tố hết sức quan trọng của kiến trúc thượng tầng
xã hội. Chính trị tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến xã hội trên nhiều mặt. Trong việc
hình thành và phát triển con người mới, chính trị có vai trò vô cùng quan trọng.
Nhân tố chính trị tác động đến quá trình hình thành và phát triển con người mới
thông qua một hệ thống bao gồm: Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ
chức chính trị - xã hội và các tổ chức đoàn thể quần chúng như Công đoàn, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ Quá trình hình thành và phát triển con người mới - những
con người có đủ phẩm chất năng lực để từng bước vươn lên làm chủ tự nhiên, làm

chủ xã hội, làm chủ bản thân là quá trình được thực hiện một cách tự giác, có ý thức,
có chủ đích. Vì thế, vai trò của hệ thống chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có
tính chất quyết định. Vai trò của hệ thống chính trị nhằm mục đích trước hết tạo lập
môi trường chính trị - xã hội tốt đẹp cho sự ra đời và phát triển con người mới.
Môi trường chính trị - xã hội mới mà hệ thống chính trị ở nước ta tạo ra nhằm
thúc đẩy sự hình thành và phát triển con người mới, đã đặt rất cao vấn đề tự do dân
chủ của nhân dân. Trước đây Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ” “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”
“thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Vì
thế, thiết lập một nền dân chủ thực sự, trong đó nhân dân là người chủ chân chính
duy nhất của xã hội mới sẽ là điều kiện hết sức cần thiết để phát huy tinh thần tự giác,
lòng nhiệt tình, óc sáng tạo của mỗi con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển tự do, toàn diện
của con người mới Việt Nam.
11
Nền dân chủ của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa phải thể hiện sự kết hợp trong nó
các đặc trưng nhân văn và pháp lý. Giá trị và ý nghĩa nhân văn của dân chủ là sự tôn
trọng con người và nhân cách của nó, bởi con người là chủ thể lịch sử, là giá trị văn
hóa cao nhất. Tính pháp lý của dân chủ đòi hỏi phải coi pháp luật là thuộc tính bên
trong của dân chủ, không có pháp luật không thành dân chủ. Tính pháp lý của dân
chủ dựa trên vai trò của vị trí pháp lý của con người. Vị trí pháp lý của con người bao
gồm: quyền và những đảm bảo về pháp lý đối với quyền của con người, nghĩa vụ và
trách nhiệm pháp lý của con người.
Xu hướng của xã hội hiện đại là khẳng định một cách đầy đủ hơn vị trí pháp lý
của con người. Nhà nước pháp quyền phải trở thành công cụ và phương tiện để công
dân thực hiện quyền làm chủ trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội. Thông
qua việc làm chủ và mở rộng quyền làm chủ đối với các hoạt động mang tính xã hội
của con người, công dân mới có nhiều điều kiện hơn để phát triển.
2.2.3. Vai trò của văn hóa tinh thần xã hội đối với sự hình thành và phát triển con
người mới

Hoạt động của con người mới không chỉ bị quy định bởi động cơ, động lực lợi ích,
bởi những điều kiện xã hội, pháp lý thuận lợi hay bất lợi, mà còn bị quy định bởi sự
phát triển hay kém phát triển của ý thức cá nhân. Sự phát triển tình cảm, lý trí, ý chí
tức là sự phát triển cá nhân trực tiếp quy định khả năng xác định lựa chọn hành vi,
khả năng thực hiện hành vi của cá nhân. Sự phát triển ý thức con người do vậy vừa
đảm bảo cho hoạt động của con người mới, vừa là chỉ báo về sự phát triển con người
mới.
Sự phát triển ý thức con người mới bị quy định bởi mức độ và quy mô chuyển văn
hóa tinh thần của xã hội thành văn văn hóa tinh thần của cá nhân, nói cách khác, bởi
mức độ chiếm lĩnh văn hóa tinh thần xã hội.
Văn hóa tinh thần của xã hội được cấu thành từ văn hóa tinh thần của cá nhân
nhưng khi định hình thì ổn định hơn. Văn hóa tinh thần của xã hội được đối tượng
hóa, khách quan hóa trong hệ thống tri thức của xã hội, những quan điểm thế giới
quan, những chuẩn mực, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ Quá trình hình thành và
phát triển văn hóa tinh thần của con người mới diễn ra trong sự tác động qua lại giữa
12
văn hóa tinh thần của xã hội và ý thức cá nhân. Các phẩm chất của con người mới
được hình thành qua giáo dục và tự giáo dục.
Kết luận chương 2
Sự nghiên cứu con người của các nhà triết học là một quá trình lịch sử lâu dài diễn
ra từ thời cổ đại đến nay. Nhưng đến triết học Mác - Lênin vấn đề con người mới
được nghiên cứu trên cơ sở khoa học và đúng đắn. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
Mác đã khẳng định con người là một thực thể sinh học - xã hội, đồng thời đã chỉ ra
được bản chất xã hội của con người. Đó là phát hiện mang tính chất lịch sử để có thể
nhận thức đúng đắn về bản chất con người, là cơ sở lý luận để chủ nghĩa Mác - Lênin
nêu lên tư tưởng “sẽ tạo nên những con người mới” của xã hội mới - xã hội cộng sản,
đồng thời là cơ sở khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Hơn nữa, nó
cũng chỉ ra quy luật hình thành, phát triển của con người mới nói chung cũng như con
người mới ở Việt Nam nói riêng.
Con người mới là con người của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản,

là con người phát triển đầy đủ tối đa năng lực sẵn có trên tất cả các mặt đạo đức, trí
tuệ, thể hiện tình cảm, nhận thức, hành động, thẩm mỹ và khả năng cảm thụ cái đẹp.
Con người mới là con người phát triển một cách toàn diện. Con người mới cũng vận
động biến đổi cùng với sự phát triển xã hội.
Sự hình thành và phát triển con người mới gắn liền với các hoạt động cá nhân mà
trước hết là hoạt động lao động và các hoạt động mang tính xã hội, gắn liền với các
lợi ích của cá nhân, của giai cấp, của xã hội trong hoạt động. Ngoài ra, sự hình thành
con người mới còn phụ thuộc vào nhân tố chính trị trong xã hội, gắn liền với môi
trường chính trị - xã hội tự do dân chủ, môi trường pháp lý mà con người đó tồn tại
và phát triển. Phụ thuộc vào sự phát triển ý thức của cá nhân, vào giáo dục và tự giáo
dục, vào mức độ chiếm lĩnh văn hóa tinh thần xã hội của mỗi cá nhân.
Chương 3
CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG CHÍNH VÀ THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành con người mới ở nước
ta hiện nay
13
3.1.1. Sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với
con người Việt Nam hiện nay
Sự nghiệp đổi mới đất nước như một điều kiện xã hội khách quan tác động sâu sắc
đến con người. Trong đó sự phát triển kinh tế thị trường là điều kiện quyết định nhất,
tác động lớn nhất đến sự biến đổi con người hiện nay.
Ngày nay cơ chế thị trường đã xâm nhập vào tất cả các nền kinh tế, ưu thế của cơ
chế thị trường là ở sức gải phóng to lớn của nó đối với sức sản xuất, ở chỗ nó tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, cũng như
kích thích tính tích cực của con người trong sản xuất. Thông qua phát triển sản xuất,
tăng trưởng kinh tế, cơ chế thị trường tác động đến mọi mặt đời sống xã hội.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, kinh tế thị trường tác động có tính hai mặt đối với
sự phát triển của con người Việt Nam.
Một mặt, nó tạo ra con người duy lý. Kinh tế thị trường do vậy đòi hỏi và làm phát

triển phương diện trí tuệ, lý trí của con người. Đồng thời, cạnh tranh với tính cách là
quy luật của nền kinh tế thị trường, tác động tới sự phát triển ý chí của con người.
Như vậy, kinh tế thị trường tác động thuận lợi tới việc hình thành những phẩm chất
của tính cách mạnh, năng động, khôn ngoan, tháo vát. Hơn thế, nhờ phát triển sản
xuất, thu nhập cao, con người có điều kiện mở rộng quan hệ, từ đó mà phát triển
những năng lực, phẩm chất ngày càng đa dạng, phong phú hơn.
Mặt khác, kinh tế thị trường có xu hướng làm suy yếu mối liên hệ giữa cá nhân với
tập thể, cộng đồng, xã hội. Việc chạy theo lợi ích cá nhân quá mức có thể dẫn đến
tình trạng biến dạng tình cảm, dẫn đến chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến suy thoái đạo
đức
3.1.2. Sự tác động của quá trình dân chủ hóa xã hội đối với con người Việt Nam
hiện nay
Đường lối dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội được Đại hội VI của Đảng đề
ra, trước hết là dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những điều kiện mới cho
sự phát triển con người.
Dân chủ nghĩa là người dân được làm chủ, được quyền tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào những hoạt động rộng rãi của xã hội, hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội
Điều kiện của dân chủ, phương thức thực hiện dân chủ là hoạt động của Nhà nước
14
pháp quyền. Nhà nước pháp quyền đang được xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tạo ra một cơ chế để
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là thực chất của nền dân chủ của chúng ta.
Nhờ thế vị trí pháp lý của con người không chỉ được khẳng định về mặt pháp luật mà
còn được những đảm bảo về mặt pháp luật.
Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền của chúng ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Có
những lúc, những nơi, quyền dân chủ của nhân dân còn bị vi phạm, kỷ cương xã hội
không được giữ vững. Yêu cầu phát triển con người trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa dân chủ xã hội gắn
liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội.
3.1.3. Sự tác động của giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế đối với con người Việt

Nam hiện nay
Giao lưu văn hóa đang là hiện tượng mang tính toàn cầu. Sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh giao lưu, đặc biệt là giao lưu kinh tế và
giao lưu văn hóa. Giao lưu văn hóa góp phần kích thích sự du nhập và sáng tạo các
giá trị tinh thần, đạo đức. Nó cũng là cơ hội để chúng ta thẩm định lại các giá trị
truyền thống. Nhưng giao lưu văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường có nguy cơ
làm xáo trộn bảng giá trị tinh thần dân tộc.
Những giá trị tinh thần truyền thống giữ vai trò định hướng cho hành vi của con
người Việt Nam bao đời nay như: Sự tôn trọng các quan hệ tình làng nghĩa xóm, việc
đề cao các giá trị gia đình truyền thống, cộng đồng, tinh thần xả thân vì đại nghĩa,
tinh thần bao dung, lương tâm nghề nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị phá hoại, bị
thay thế bởi những chuẩn mực định hướng xa lạ.
Tóm lại, con người Việt Nam đang trong điều kiện đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đang phát triển trong sự tác động
của nhiều nhân tố: tích cực, tiêu cực, truyền thống, hiện đại, dân tộc, quốc tế
3.2. Thực trạng xây dựng và những vấn đề đang đặt ra đối với sự hình thành con
người mới Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng con người mới trong công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay .
15
3.2.1.1. Những thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng con người trong công
cuộc đổi mới hiện nay
+ Về đời sống vật chất. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, ở nước ta,
tốc độ phát triển kinh tế nhanh góp phần làm cho đời sống của nhân dân được cải
thiện. Thu nhập bình quân theo đầu người ở nước ta ngày càng tăng có tác dụng cải
thiện mức sống của nhân dân. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu ở nước ta vượt qua
ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có thu nhập trung
bình. Các điều kiện sinh hoạt vật chất trong đời sống con người cũng ngày càng được
cải thiện như: môi trường làm việc được nâng cao, phương tiện giao thông được
thuận tiện

+ Về trình độ dân trí. Trong công cuộc đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam xem
phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi trí tuệ là nguồn lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Tỷ lệ người biết chữ, số học sinh đi học ở các cấp,
trình độ học vấn, tay nghề của người lao động ngày càng tăng lên. Hệ thống trường
lớp ở các cấp, các vùng, các miền ngày càng được mở rộng; có sự phát triển đa dạng
về các loại hình đào tạo ở các bậc học đã mở ra cho các cá nhân cơ hội học tập rộng
rãi hơn để nâng cao tri thức. Hệ thống phát thanh truyền hình, thông tin qua báo chí,
internet được mở rộng cả về số lượng và nâng cao chất lượng tạo điều kiện và góp
phần nâng cao sự hiểu biết
+ Công tác chăm sóc sức khỏe, thể chất. Đảng và nhà nước đã chú trọng tiến
hành xã hội hóa công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thực hiện chủ trương
đó, chúng ta có các biện pháp sau: Mạng lưới y tế cơ sở được nâng cấp, có chính sách
khám chữa bệnh cho người nghèo; Thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở rộng
và đạt kết quả khả quan; Thực hiện chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em
dưới 6 tuổi Các dịch vụ y tế được mở rộng và thực hiện như: dịch vụ y tế, bảo hiểm
y tế, qua đó để mọi người dân đều có cơ hội chăm sóc sức khỏe.
+ Đời sống tinh thần của con người. Sự nghiệp đổi mới cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã làm cho đời sống tinh thần con người Việt Nam có những
biến đổi theo hướng tích cực. Điều đó thể hiện ở việc phát triển các giá trị chung của
nhân loại như: hòa bình, tự do, bình đẳng, bác ái, niềm tin Việc cũng cố và phát huy
các giá trị truyền thống dân tộc cũng được đẫy mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần
16
của nhân dân, của con người. Những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam như
đức tính cần cù, sáng tạo, tinh thần tương thân tương ái, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín vv
cũng được khơi dậy và phát huy trong đời sống hàng ngày.
+ Vấn đề thực hiện quyền con người. Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm
của mọi chính sách xã hội, xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội, đường lối đổi mới ở nước ta không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội
mà còn chi phối đến nhận thức về việc thực hiện quyền con người. Điểm nổi bật
trong việc thực hiện quyền con người đó là: Đảm bảo các quyền dân sự chính trị của

con người trong sự nghiệp đổi mới; quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng; đảm bảo các quyền chính trị khác
như - quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận, quyền làm việc, quyền được tiếp cận
thông tin, quyền được tiếp cận với giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền được
đảm bảo xã hội
3.2.1.2. Những hạn chế của việc xây dựng, và phát triển con người trong công
cuộc đổi mới hiện nay.


+ Kinh tế phát triển nhưng chưa ổn định trước sự tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế. Thu nhập bình quân theo đầu người tăng nhưng vẫn có sự chênh lệch giữa
các vùng, giữa các nghành.
+ Mặc dù đã hoàn thành phổ cập chương trình tiểu học, tiến tới phổ cập trung
học cơ sở cho toàn dân. Nhưng hiện tượng tái mù vẫn còn xẩy ra ở một số nơi, đặc
biệt là vùng sâu, vùng xa.
+ Ở một số nơi, trình độ chuyên môn, thái độ phục vụ của y bác sỹ còn kém, cơ
sở vật chất trong các bệnh viện ở vùng sâu, vùng xa còn lạc hậu.
+ Xuất hiện xu hướng thương mại hóa, coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị
tinh thần; coi trọng giá trị ngoại lai, xem nhẹ giá trị truyền thống; đề cao lợi ích cá
nhân, coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội
3.2.2. Những vấn đề đang đặt ra đối với sự hình thành con người mới Việt
Nam hiện nay
Trong một số công trình nghiên cứu gần đây về con người đã có một số tác giả
nỗ lực nghiên cứu những đặc trưng của con người Việt Nam. Các tác giả đã chỉ ra tác
động có tính hai mặt của kinh tế thị trường đối với các phẩm chất năng lực của con
17
người. Theo đó, những phẩm chất như tài năng, trí tuệ đang được kích thích và thể
hiện rõ nét. Nhưng ngược lại, sự suy thoái đạo đức cũng xuất hiện như là một xu
hướng đáng lưu tâm. Nó biểu hiện ở chỗ làm giàu bằng mọi giá, vi phạm pháp luật,
tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo

Một số tác giả khác lại cho rằng, đặc điểm nổi bật hàng đầu của con người Việt
Nam hiện nay là biết tính toán hiệu quả kinh tế. Tiếp đến là khả năng thích ứng nhanh
với cơ chế kinh tế thị tường, chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận phiêu lưu mạo hiểm,
thừa nhân sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội; có tinh thần hăng say cần cù trong
học tập, lao động, khắc phục thái độ trung bình chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã và đang tạo ra
sự phát triển đáng kể về trí tuệ, ý chí và những năng lực thực tiễn của con người.
Chúng tạo ra bước chuyển từ con người truyền thống sang con người hiện đại.
Điều đáng lo ngại mà nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra là có một số biểu hiện về
sự xuống cấp đạo đức trong những năm gần đây. Chúng phản ánh sự phát triển phiến
diện, méo mó của con người trong điều kiện hiện nay.
Kết luận chương 3
Tóm lại, con người mới Việt Nam trong điều kiện đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển trong sự tác
động nhiều nhân tố: tích cực, tiêu cực, truyền thống, hiện đại, dân tộc, quốc tế.
Vấn đề đặt ra đối với nó là khắc phục những tác động tiêu cực, vượt bỏ những
cái lỗi thời, lạc hậu, kết hợp hài hòa những giá trị truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế để trở thành hiện và đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhỉên, quá trình hình thành con người mới Việt Nam không thể hiện một
cách tự phát. Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với quá trình đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi và làm cho sự phát triển con người mới Việt Nam
trở thành một quá trình tự giác, được định hướng.
Chương 4
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÓ TÍNH ĐỊNH
HƯỚNG NHẰM THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH CON NGƯỜI MỚI Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
18
4.1. Quan điểm, phương hướng phát triển con người mới Việt Nam ở nước ta
hiện nay.
4.1.1. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Con người là động lực của sự nghiệp đổi mới theo địng hướng xã hội chủ nghĩa
Con người là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới. Con người
Việt Nam mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của truyền thống dân tộc như
yêu nước, yêu lao động, cần cù, thông minh, sáng tạo, dễ thích ứng với điều kiện mới.
Đó là những phẩm chất cần thiết cho sự nghiệp đổi mới. Chính con người với sức lực
và trí tuệ của mình mới là nhân tố quyết định việc khai thác có hiệu quả nguồn lực tự
nhiên và các nguồn lực khác. Con người là nguồn lực quý nhất của đất nước trong sự
nghiệp đổi mới.
- Con người là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ mục tiêu căn bản và lâu dài của sự phát triển
không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế hay phát triển xã hội mà là phát triển con
người. Việc xây dựng con người phải tạo những cơ hội, điều kiện để nâng cao năng
lực cho con người phát triển. Xây dựng con người phải gắn với mục tiêu giải phóng
con người.
4.1.2. Một số phẩm chất cơ bản cần phải hướng tới xây dựng con người mới
Việt Nam hiện nay
Tính quy luật và định hướng phát triển con người Việt Nam hiện nay là khắc phục
những yếu tố tiêu cực, vượt bỏ những cái lỗi thời lạc hậu, kết hợp hài hòa những giá
trị truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế để trở thành hiện đại và đậm đà bản
sắc dân tộc.
Để con người Việt Nam trở thành hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có
thể xác định mẫu con người mới với các đặc trưng cơ bản dưới đây nhằm định hướng
cho sự phát triển con người hiện nay.
+ Con người trong sự nghiệp đổi mới phải có đầy đủ phẩm chất và năng lực cần
thiết. Con người phải hội đủ các phẩm chất như - cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư; các phẩm chất đạo đức, chính trị, thẫm mỹ vv Con người phải có đầy đủ các
năng lực nói chung cũng như năng lực chuyên môn, năng lực ấy thể hiện ở chỗ nắm
19
bắt được các quy luật khách quan và biết vận dụng các quy luật ấy vào thực tiễn, cải

tạo thực tiễn
+ Con người phải có ý thức và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, có tác phong
công nghiệp. Ý thức và tinh thần lao động phải thể hiện ở việc con người không
ngừng cải tiến kỹ thuật, có năng lực sử dụng kỹ thuật mới, hiện đại. Ý thức lao động
là phẩm chất cao quý và rất đáng trân trọng của con người mới. Ý thức này thể hiện
trong việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, có lưong tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp. Con người phải có tính tổ chức tính kỷ luật cao để đáp ứng với nền sản
xuất ngày càng hiện đại .
+ Con người phải có lối sống lành mạnh, văn minh, trọng nghĩa tình. Cần phải
cải tạo và xóa bỏ những thói hư tật xấu của xã hội cũ còn rơi rớt lại. Đồng thời yêu
cầu của xã hội hiện đại đòi hỏi phải bổ sung những đức tính mới trong lối sống của
con người; đó là lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, tôn trọng kỷ cương phép
nước, có ý thức bảo vệ sinh thái…
+ Con người phải có tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Tinh thần yêu nước có sức mạnh to lớn và là động lực vĩ đại trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước. Tinh thần yêu nước phải gắn liền với tinh thần quốc tế
trong sáng để góp phần thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người .
+ Con ngưòi phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ thẫm mỹ và rèn luyện nâng cao thể lực, sức khỏe.
4.2. Một số giải pháp có tính định hướng nhằm thúc đẩy sự hình thành con
người mới ở nước ta hiện nay
4.2.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa với tính cách là giải pháp xây dựng
con người mới
Như đã trình bày, kinh tế thị trường tác động có tính hai mặt đến sự phát triển
của con người. Vấn đề đặt ra là khắc phục những tác động tiêu cực và phát huy
những tác động tích cực của kinh tế thị trường. Đối với chúng ta, điều đó chỉ có thể
thực hiện được bằng việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

20
Một nền kinh tế thị trường hoạt động hữu hiệu phải là sự thống nhất của hai
phương diện: Một là, xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các chủ thể sản xuất kinh
doanh; Hai là, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nói cụ thể hơn, Nhà
nước phải “quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công
cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước”.
Hơn nữa, đối với chế độ ta, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh
tế thị trường đòi hỏi Nhà nước, phải điều tiết các loại lợi ích riêng, chung, lợi ích
ngành khu vực sao cho công bằng xã hội được đảm bảo ở mức tối đa. Điều đó vừa
kích thích tính tích cực và chủ động, kích thích tài năng phát huy sức sáng tạo của
con người trong hoạt động làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Đồng thời khắc phục
được việc chạy theo lợi ích cá nhân bằng bất kỳ giá nào, đảm bảo sự phát triển tài
năng và đạo đức của con người được đồng bộ hài hòa.
4.2.2. Quán triệt quan điểm con người trong xây dựng và thực hiện chính sách
xã hội
Thực chất của quan điểm con người trong chính sách xã hội là tạo ra một sự công
bằng xã hội tối đa trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra một sự công bằng
lợi ích giữa các thế hệ, các tầng lớp, các nhóm dân cư.
Tất nhiên, công bằng trong chính sách xã hội không có nghĩa là sự cào bằng lợi ích
mà tạo ra những cơ hội đồng đều cho mọi người phát huy hết khả năng của mình.
Những điều đó sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để con người tham gia tích cực vào các
hoạt động vì lợi ích của bản thân và vì lợi ích xã hội, vì những giá trị cao đẹp của
cuộc sống. Chính là thông qua những hoạt động tích cực như vậy con người mới ngày
càng được phát triển và hoàn thiện.
4.2.3. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội
Dân chủ là thành quả quý giá mà dân tộc ta giành được sau mấy chục năm đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, dân chủ vừa được hiểu là
hình thức tồn tại và quản lý xã hội, vừa là quyền và nghĩa vụ làm chủ của mọi người
dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ trước hết đem lại cho con người những quyền được bảo đảm bằng pháp

luật. Những quyền ấy cho phép con người tự do tham gia vào các hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội trong khuôn khổ pháp luật dân chủ. Dân chủ cũng đòi hỏi
21
nghĩa vụ làm chủ của người dân trong hoạt động sống của mình, chúng ta đang tạo ra
cơ chế để “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”
Đồng thời để đảm bảo cho tự do chân chính của con người, việc đẩy mạnh dân
chủ hóa xã hội cần phải gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội. Thực ra, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội chính là một phương diện của dân chủ, một điều kiện để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong một môi trường xã hội được dân chủ
hóa như vậy, con người sẽ có được những điều kiện thuận lợi để phát triển.
4.2.4. Đẩy mạnh đổi mới và tăng cường chiến lược giáo dục, đào tạo con người
Cơ sở kinh tế và những điều kiện phát triển kinh tế xã hội đảm bảo cho hoạt động
quy định tính chất và sự phát triển con người ở tầng sâu nhất. Nhưng những nhân tố
trực tiếp làm hình thành và phát triển con người lại là những nhân tố tinh thần - thế
giới quan, vốn hiểu biết về tri thức, những quan niệm, những chuẩn mực, những lý
tưởng, đạo đức, thẩm mỹ vv vừa biểu hiện sự phát triển ý thức con người, vừa là
điều kiện là kích thích tố cho hoạt động của con người, đảm bảo cho sự hiện thực hóa
con người.
Vì vậy, việc chuyển văn hóa tinh thần của xã hội thành văn hóa của cá nhân là có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc hình thành con người. Giáo dục và tự giáo dục
chính là phương thức chuyển hóa văn hóa xã hội thành văn hóa cá nhân. Trong các
văn kiện của Đảng, giáo dục đang được xác định như là quốc sách hàng đầu nhằm
phát triển con người, tạo ra nguồn lực và tạo ra chính con người như là mục tiêu cao
nhất của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục từ lâu đã được quan tâm từ phía quản lý xã hội. Trong chế độ ta, sự phát
triển của mỗi người là mối quan tâm chung của xã hội. Vì vậy, hệ thống giáo dục của
chúng ta cần phải được tiến hành với những nguyên tắc thích hợp và những hình
thức, những nội dung đa dạng, phong phú, toàn diện.
Về nguyên tắc giáo dục, theo chúng tôi cần được thực hiên theo những nguyên tắc

sau: Xã hội hóa giáo dục; Lý luận kết hợp với thực tiễn; Nguyên tắc thường xuyên;
Nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội;
Nguyên tắc toàn diện; Sau cùng cần đẩy mạnh khuyến khích tự giáo dục.
22
Sự thống nhất, sự kết hợp hài hòa các nguyên tắc, các hình thức giáo dục, sự thống
nhất, sự kết hợp hài hòa các giải pháp sẽ làm hình thành và phát triển con người mới
Việt Nam.
Kết luận chương 4
Như vậy, để thúc đẩy sự hình thành và phát triển con người mới Việt Nam trong
quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Dựa trên cơ sở quan điểm và phương
hướng phát triển con người mới Việt Nam chúng ta phải thực hiện một cách đồng bộ
các giải pháp: Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; Quán triệt quan điểm con
người trong xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội; Đẩy mạnh dân chủ hóa xã
hội, gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội; Đẩy mạnh đổi mới và tăng cường
chiến lược giáo dục, đào tạo con người.
Sự thống nhất, sự kết hợp hài hòa các giải pháp như trên sẽ khắc phục được những
tác động tiêu cực, vượt bỏ những cái lỗi thời, lạc hậu trong những phấm chất, năng
lực của con người truyền thống. Đồng thời sẽ làm hình thành những đức tính, năng
lực mới của con người Việt Nam hiện nay.
PHẦN KẾT LUẬN
Mặc dù phải dựa trên một cơ sở sinh vật nhất định, nhưng bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội. Sự phát triển con người không chỉ là sự phát triển của
từng cá nhân cụ thể, xác định mà còn biểu hiện sự phát triển của xã hội.
Với tính cách là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể của lịch sử, sự hình thành và
phát triển của con người mới bị quy định bởi tổng thể những điều kiện kinh tế xã hội,
trong đó sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, vai trò của nhân tố chính
trị, pháp lý và văn hóa tinh thần là những nhân tố có vai trò quan trọng nhất. Sự thống
nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, vai trò của nhân tố chính trị, pháp lý là cơ
sở và những đảm bảo bên ngoài, còn sự phát triển văn hóa tinh thần thông qua giáo
dục, tự giáo dục là động lực bên trong của sự hình thành và phát triển con người mới.

Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tác động mạnh mẽ lên
chiều hướng phát triển của con người Việt Nam hiện nay, đồng thời cũng đặt ra
những yêu cầu mới và tạo ra những điều kiện mới cho sự phát triển con người mới
Việt Nam. Việc chuyển sang kinh tế thị trường đã tạo ra những điều kiện thuận lợi
23
cho con người tham gia vào các hoạt động kinh tế và xã hội rộng rãi. Nó kích thích
tính tích cực của con người trên nhiều phương diện. Tuy vậy, kinh tế thị trường lại có
xu thế làm suy yếu mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, làm cho sự phát triển của con
người dễ bị thiên lệch, méo mó.
Quá trình dân chủ hóa xã hội tạo ra môi trường xã hội dân chủ và những đảm bảo
pháp lý cho sự phát triển con người Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, những khiếm
khuyết của một Nhà nước pháp quyền trên con đường hoàn thiện cũng gây ra những
trở ngại nhất định đối với con người trong việc khẳng định tự do cá nhân.
Giao lưu văn hóa vừa là điều kiện để phát triển đất nước, vừa là cơ hội để làm
giàu thêm thế giới tinh thần của con người bằng những giá trị văn hóa, đạo đức,
thẩm mỹ tiên tiến của nhân loại. Tuy nhiên, trong quá trình mở cửa giao lưu, những
giá trị, những chuẩn mực ngoại lai xa lạ, thậm chí những phản giá trị tinh thần cũng
thâm nhập và tác động tiêu cực đối với con người Việt Nam hiện nay.
Để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp xây dựng và phát triển con người mới, đáp ứng
các yêu cầu của đổi mới, theo chúng tôi cần thực hiện những giải pháp mang tính
định hướng sau đây:
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy những ưu thế và khắc
phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường đối với sự phát triển con người, tạo
điều kiện cho sự phát triển cân đối, hài hòa giữa phương diện lý trí, những năng lực
thực tiễn với phương diện tình cảm đạo đức của con người.
- Quán triệt quan điểm con người trong xây dựng và thực hiện các chính sách xã
hội. Đảm bảo công bằng trong xã hội hiện nay chính là động lực kích thích hoạt
động và tạo lập các quan hệ nhân văn giữa con người với con người, thúc đẩy con
người ngày càng hoàn thiện.
- Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương xã hội nhằm

tạo ra sự thống nhất giữa nhân tố tác động bên ngoài với nhân tố tác động bên trong
của con người, đảm bảo cho sự phát triển ổn định cho con người.
- Đẩy mạnh và tăng cường chiến lược giáo dục, đào tạo con người với những
nguyên tắc và những hình thức thích hợp tạo ra động lực và những ràng buộc từ nội
tâm, khẳng định sự phát triển bền vững của con người.

24

25

×